GIỚI LUẬT LÀ NỀN TẢNG VỮNG CHẮC CỦA ĐẠO PHẬT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: Mùng 4 Tết 2003
Thời lượng: [01:25:28]
Tên cũ: 01-(M4Tet2003)-NhungGiThongHieuCanThongHieu
Trưởng lão: Theo Phật giáo thì mấy con có những cái điều gì mà cần phải thưa hỏi. Như đức Phật đã nói: “Những gì cần hiểu mình phải hiểu cho nó rõ”. Nếu mình hiểu mà không rõ thì mình sẽ tu tập nó sai đi, bởi vì Phật pháp nó có nhiều cái nó dễ chứ nó không khó, mà mình tu sai nó sai đi.
(00:27) Thầy đem cái ví dụ như hai cái danh từ, Thầy thấy như trong Phật, Phật thường nói: Mình chế ngự tâm, một cái danh từ chế ngự tâm và một cái danh từ ức chế tâm. Mà nếu mình không hiểu rõ thì mình thấy hai danh từ nhường như là cũng có một cái nghĩa giống nhau. Nhưng mà sự thật ra thì nó đâu có giống nhau, bởi vì ức chế tâm là mình dùng một cái đối tượng nào đó để mình nhiếp phục cái tâm của mình, làm cho cái ý thức của mình nó không khởi niệm, gọi là ức chế tâm.
Còn mình chế ngự tâm nó lại khác, khi cái tâm của mình nó ham muốn cái điều gì, mình ngăn chặn nó lại không cho nó làm cái việc đó, gọi là mình chế ngự tâm.
(01:22) Cho nên, trong kinh Phật thường nhắc là chế ngự. Do như vậy, mình cần phải hiểu cho nó rõ nghĩa, mà nếu mà không hiểu rõ nghĩa thì chúng ta sẽ tu tập sai. Thí dụ như bây giờ, như trong kinh sách Thầy thấy thường dạy mình tu tập như về hơi thở thì là sổ, tùy, chỉ, quán.
Sổ tức là đếm hơi thở, dùng cái hơi thở của mình mình đếm 1, 2, 3, 4… thì để cho cái tâm của mình đừng có niệm khởi, tức là dừng cái niệm khởi đi. Mà cái ý thức nó không có khởi niệm thì trong lúc đó mình sẽ ức chế tâm, cho nên mình thấy trong đạo Phật dạy mình cái Định Niệm Hơi Thở tức là cái xuất tức nhập tức, mình nương vào cái hơi thở tu thì đức Phật đưa ra những cái đề mục để cho mình tu tập. Trong hai mươi mấy đề mục nó buộc mình dời cái điểm tập trung của mình, nó không có bắt buộc mình phải nương vào duy nhất có…
(02:31) Ví dụ như cái đề mục thứ nhất, thì đức Phật dạy: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”. Thì tới cái đề mục thứ hai thì đức Phật lại dạy, cái giai đoạn thứ hai của cái hơi thở thì đức Phật lại dạy: “Hơi thở dài biết dài, hơi thở ngắn biết ngắn”. Nghĩa là bây giờ, cái đề mục thứ nhất mình biết nó thở ra vô ở mũi mình. Rồi cái đề mục thứ hai thì mình lại chú ý cái độ dài, ngắn của hơi thở…(. . .) hơi thở ra vô.
Nhưng mà đến cái đề mục thứ ba thì đức Phật lại dạy cho mình: “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra.” Thì lúc bây giờ mình không còn biết hơi thở ra vô chỗ mũi, mà cũng không còn thấy cái hơi thở dài ngắn, mà chỉ hít vô là cảm giác tự mình hít vô, thở ra thì cảm giác…(. . .), nó lại sai khác mất rồi, không còn cái chỗ mà bám chặt để mình ức chế cái tâm mình, cho nên thay đổi từng cái đề mục của nó.
(3:30) Tới cái đề mục thứ tư thì mình khác nữa, nghĩa là đề mục thứ tư là cái đề mục an trú, cho nên vì vậy mà: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra.”. Cho nên, đức Phật dạy chúng ta cái cách, cái phương pháp của Phật.
Cho đến cuối cùng thí dụ như cái đề mục tâm của mình, thì nó là cái đề mục thứ năm và thứ sáu, thì đức Phật lại dạy: “Cảm giác toàn tâm, tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn tâm, tôi biết tôi thở ra”. Là ở thân, thân an trú được rồi, bây giờ tâm an trú. Do đó, dẫn cho cái tâm, cảm giác được cái tâm của mình. Khi cảm giác được cái tâm của mình rồi đức Phật lại dạy cái đề mục thứ sáu thì: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra.” Bây giờ, mình nương vào cái chỗ biết an tịnh của cái tâm của mình, mình biết và mình nhắc cho nó được cái tâm của mình nó an, an trú được, lúc bây giờ mình thấy thân tâm của mình nó sẽ an tịnh, yên lặng nó không còn có… Đó chính cái đường lối tu tập của đạo Phật là như vậy, chứ không khéo thì chúng ta lại nương vào đối tượng biết hơi thở ra vô ngồi suốt 30, 1 giờ, chỉ biết hơi thở ra vô gọi là tùy tức, nếu mình đếm gọi là sổ tức.
(04:50) Như vậy cuối cùng thì mình hoàn toàn là bị ức chế, cho nên chữ ức chế và chế ngự nó khác. Do chúng ta tu tập theo đạo Phật, chúng ta thấy chúng ta không chế ngự tâm của mình. Ví dụ như bây giờ, Thầy sống đúng giới luật của Phật cho nên ngày ăn một bữa, do cái bữa sáng Thầy cảm giác nó đói bụng, Thầy ngăn chặn, Thầy: “Phi thời, không được ăn!”. Cho nên Thầy ngăn chặn, Thầy không cho nó ăn buổi sáng, vì vậy mà trưa Thầy cho nó ăn, do đó cho nên Thầy chế ngự chứ không phải ức chế nó. Rồi buổi chiều nó đói nó muốn ăn không cho ăn, Thầy nói: “Chỉ có trưa ăn một bữa thôi, không có được ăn uống phi thời”, do đó chế ngự thân tâm của mình để giữ gìn giới luật cho nghiêm túc. Chế ngự như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp.
Phân biệt được như vậy mới biết được cái đường lối tu tập của đạo Phật, để giúp chúng ta ly được cái lòng ham muốn của mình, ly được những cái ác pháp nó làm cho thân tâm của mình khổ đau.
(05:51) Ví dụ như bây giờ, nói ly dục ly ác pháp thì khi trong thân của chúng ta bị đau nhức, nó có một cái bệnh như là một cái mụn nhọt nó nổi lên làm chúng ta bị đau nhức, thì lúc bây giờ đạo Phật dạy cho chúng ta cách thức để đẩy lui cái ác pháp, hay hoặc là diệt cái ác pháp đó. Thì người đời thường muốn cho cái ác pháp đó nó không có thì phải đi bác sĩ, phải uống thuốc, phải sức dầu hay thoa, bóp cho nó không còn đau đớn nữa đó là cái người đời.
Nhưng mà cái người đạo thì nó lại khác, bây giờ như vậy, mà là nó dùng cái phương pháp của nó, để mà nó làm cho cái thân của nó đẩy lui cái chướng ngại, cái đau đớn đó ra. Vì vậy, mà đức Phật dạy cho chúng ta khi đó chúng ta phải nhiếp phục cái tâm của mình nó ở trong cái hơi thở thì mình mới có thể, mình mới có đẩy lui được cái chướng ngại pháp, tức là cái thọ, cái cảm thọ đau đớn cái thân của mình nó sẽ đẩy lui ra được.
(06:53) Vậy thì mình nhiếp phục bằng cách nào? Như đức Phật dạy chúng ta mới vào thì chúng ta nhiếp phục cái tâm của mình vào trong cái hơi thở, thì: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra”. Thì khi mà mình nhiếp phục được tâm mình nó biết hơi thở ra, biết hơi thở vô chứ không phải ức chế, mà nhiếp phục được cái tâm, dẫn cái tâm mình vào hơi thở.
Thì bây giờ đó, mình muốn dẫn được cái tâm của mình được rồi, thì mình mới an trú cái hơi thở, an trú cái tâm của mình trong hơi thở. Khi mà an trú được rồi thì mình mới đẩy lui cái chướng ngại, cái thọ thì nó mới ra được, vì vậy cho nên khi mà chúng ta cảm giác được cái tâm thì chúng ta đã nhiếp phục được cái tâm của chúng ta.
(7:35) Thì bây giờ chúng ta… (Thầy nói chuyện riêng với Tu sinh…)
(8:01) Khi cái thân của chúng ta bị đau, thì chúng ta mới nhiếp phục được cái tâm của mình vào trong cái hơi thở, rồi chúng ta an trú được tâm của mình vào trong cái hơi thở. Thì lúc bây giờ chúng ta tác ý: “Thọ là vô thường…” Cái bệnh, mình chỉ đúng chỗ cái bệnh của mình. Ví dụ như, cái tay mình đau hay cái đầu mình nhức, cái bụng nó đau, bảo: “Thọ là vô thường…” cái bụng chúng ta đang đau thì chúng ta nhắc: “Cái bụng đau đó phải hết”, rồi chúng ta lại nhắc: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Quý phật tử chỉ cần nhắc như vậy năm, mười lần khi mà cái tâm mình nhiếp phục được trong cái hơi thở, và an trú được trong cái hơi thở rồi tác ý ra, rồi dẫn cái thân của mình nó an tịnh, thì trong vòng chừng 1, 2 phút thì chúng ta sẽ thấy không còn đau cái bụng nữa.
Rõ ràng là đạo Phật đã có trang bị cho chúng ta những cách thức đẩy lui chướng ngại pháp, tức là diệt ác pháp trên thân của chúng ta một cách rất cụ thể, rõ ràng.
Còn cái tâm của chúng ta bây giờ nó phiền não, nó giận hờn, buồn phiền một cái điều gì đó. Ví dụ bây giờ nó đang giận hờn, lúc bây giờ chúng ta cũng có thể làm cho cái tâm chúng ta hết giận hờn cũng được không có khó khăn, cho nên đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái phương pháp là: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô…”, hay hoặc là tâm của chúng ta đang sân thì chúng ta nói: “Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô; quán ly sân, tôi biết tôi thở ra.” Cái tâm mình đang hậm hực, đang tức giận một cái điều gì đó, thì lúc bây giờ chúng ta chỉ cần nhiếp phục cho cái tâm mình vào hơi thở, rồi mình dẫn cái tâm mình bằng cách ly tham, ly sân thì nó sẽ ly cái sân của mình ra, lúc bây giờ chừng năm ba phút, thì lúc bây giờ chúng ta thấy cái tâm không có còn sân, không có phiền não, không có giận hờn nữa.
(10:02) Rõ ràng là đạo Phật đã dạy chúng ta làm chủ cái tâm của chúng ta, khi mà cái tâm của chúng ta bị chướng ngại pháp. Chướng ngại pháp tức là ác pháp, cho nên đạo Phật nói “ly dục ly ác pháp”. Bây giờ, cái tâm mình đang giận là ác pháp ở trong tâm rồi, mà không ly được thì tức là chúng ta không biết cách thức tu tập. Còn chúng ta biết cách thức tu tập tức chúng ta ly được cái đau khổ đó.
Cho nên, trong Tứ Niệm Xứ đức Phật đã nói: “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”. Trên cái tâm của mình quán cái tham… Bây giờ, mình muốn khắc phục được cái tham ưu của cái tâm đang phiền não, giận hờn đó để cho đẩy lui nó ra khỏi cái tâm của mình, thì nương vào cái Định Niệm Hơi Thở, nương những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta sẽ đẩy lui nó.
Rồi cái thân của mình nó bị ác pháp, nó bị đau, bị nhức là ác pháp rồi. Vậy thì muốn đẩy lui nó thì đức Phật đã trang bị cho mình cái phương pháp để đẩy lui cái bệnh khổ, một người tu theo đạo Phật mà làm chủ được cái tâm như vậy, làm chủ được cái thân như vậy có hạnh phúc lắm không? Quá hạnh phúc! Không bao giờ có một cái gì mà chúng ta còn lo lắng đối với thân chúng ta khi bệnh đau, khi buồn phiền chúng ta đều có những phương pháp đẩy lui, chỉ cần chúng ta thực hiện đúng cách, chúng ta đã làm chủ được cái sự đau khổ.
Và nếu làm chủ được sự đau khổ thì chúng ta không thể dậm chân tại chỗ này, mà tiến bước hơn. Tiến bước hơn để chúng ta có đủ năng lực để chúng ta làm chủ được sự chết của chúng ta, nghĩa là chúng ta muốn chết hồi nào chết mà muốn sống hồi nào sống. Chứ không phải khi bệnh đau đến nỗi mà chúng ta không muốn sống mà cũng không sống được, rồi bây giờ chúng ta muốn chết mà cũng không chết được, thì cái đó là cái hoàn toàn chúng ta đầu hàng. Ở đây, thật sự chúng ta không đầu hàng sự sinh tử này, cho nên người đi theo đạo Phật là hạnh phúc rất lớn!
Nhưng vì, chúng ta bị lầm lạc cái phương pháp tu ức chế tâm cho nên chúng ta không làm chủ được, trái lại đức Phật dạy chúng ta có cái pháp, phương pháp chế ngự tâm chứ không phải ức chế tâm. Cho nên, những danh từ mà ở đây nêu lên để chúng ta thấy rõ, chúng ta cần phải hiểu. Vậy thì hôm nay, phật tử muốn hiểu những gì thì thưa hỏi Thầy, nhân cái dịp có cái duyên về đây trong cái dịp tết này thăm Thầy, để Thầy sẽ trả lời để giúp cho quý phật tử hiểu biết con đường tu thế nào đúng và thế nào sai.
(12:29) Thầy xin nhắc lại, đức Phật cũng đã dạy chúng ta muốn ước nguyện một điều gì để đạt thành, như bây giờ chúng tôi ước nguyện chúng tôi sẽ tu tập làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Ước nguyện làm chủ bốn sự đau khổ đó, cái ước nguyện của mình là ước nguyện rất lớn đó, thì mình sẽ làm gì đầu tiên?
Đức Phật nói: “Giới luật phải sống nghiêm chỉnh, cái ước nguyện đó sẽ đạt thành”. Còn nếu mà giới luật mình không có nghiêm chỉnh, thì mình không ước nguyện.
Cho nên, giới luật là nền tảng vững chắc cho một người đi theo đạo Phật, một vị tu sĩ mà phạm giới, phá giới thì vị tu sĩ không bao giờ tu giải thoát. Nghĩa là mình muốn giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ đó, thì giới luật là một cái tiêu chuẩn không thể nào chúng ta bỏ phí được. Cho nên, vừa rồi Thầy đã soạn thảo cho chúng ta thấy 10 giới Thánh đức Sa Di, nghĩa là người Sa Di, người mới bắt đầu vào tu dù là lớn tuổi hay là thơ ấu còn trẻ tuổi bước vào để mà xin làm một vị tu sĩ của Phật giáo. Cái vị tu sĩ đầu tiên đó thọ 5 đức Thánh, 5 đức Thánh đó gọi là 10 giới Sa Di, hay hoặc là gọi 10 giới Thánh đức Sa Di. Bởi vì, một người mà giữ gìn 10 đó là một vị Thánh Tăng, Thánh Ni chứ không còn phải là một người tầm thường nữa.
(13:55) Bởi vì, nó rất khó không phải dễ! Ví dụ 5 giới của người cư sĩ thì chắc chắn quý vị đều biết rằng ai cũng có quy y Tam Bảo, thọ 5 giới thì ai cũng biết rằng 5 giới, thì 5 giới đó có 5 cái đức Thánh của nó. Rồi 5 giới của Sa Di sau khi đó thì chúng ta phải biết từng cái giới của nó mang đầy đủ những cái đức Thánh của nó trong đó, cho nên một vị tu sĩ mà giữ gìn 10 giới đó mà để thực hiện tu tập thì chắc chắn họ sẽ dễ dàng tu, không cần đòi hỏi cho đến 250 giới Tỳ kheo, 348 giới Tỳ kheo Ni, là nó có rất nhiều giới luật của người nữ. Nhưng mà học bao nhiêu thì chúng ta thấy giới luật một nền tảng vững chắc xây dựng cho mình có một nền đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người, đạo đức làm Thánh. Như vậy, chúng ta mới nhập được thiền định.
Tu sĩ của chúng ta hiện giờ, tu sĩ của Phật giáo hiện giờ không giữ trọn giới đức, 10 giới Sa Di mà không giữ trọn thì làm sao 250 giới Tỳ kheo, 348 giới Tỳ kheo Ni làm sao giữ hết được! Có 10 giới mà giữ không trọn thì làm sao đem cả một số giới như vậy mà giữ trọn được. Cho nên…(. . .).
Mang tiếng là tu sĩ nhưng chúng ta sống như người ngoài thế tục, không khác. Cứ đem 10 giới Sa Di thì so sánh cái nền tảng Phật giáo đã mất hoàn toàn, cho nên đức Phật ngày xưa nói: “Đạo ta còn thì giới luật còn, đạo ta mất…”. Hôm nay, tu sĩ chúng ta phạm giới, phá giới là đạo Phật đã mất. Nó thay vào đó bằng những cái hình thức của đạo Bà La Môn…(. . .).
(15:56) Cho nên hôm nay, Thầy xin nhắc nhở lại dù người cư sĩ muốn tu tập ít ra chúng ta phải biết cho chúng ta cái phương pháp tu tập của người cư sĩ, đó là Thọ Bát Quan Trai. Mỗi tháng ít ra cũng phải 1 ngày, hoặc là 1 ngày 1 đêm để mà giữ gìn 8 giới, còn người tu sĩ chúng ta tại sao 10 giới Sa Di mà không giữ trọn? Cho nên, chúng ta làm sao đi vào thiền định được?!
Giới sanh Định, thế mà hôm nay chúng ta muốn tu thiền định, mà không giữ gìn giới thì làm sao thiền định được. Cũng như Thầy nói như thế này, nếu chúng ta không trang bị cho chúng ta một đời sống phù hợp với cảnh giới Cực lạc, chúng ta đặc thành có cảnh giới Cực lạc, có cảnh giới Tây phương, có một cái Thiên đàng, có một cõi Trời nào đó thật sự, thì ít ra chúng ta phải trang bị cho cái đời sống của mình để quen đi với cái cõi giới đó, thì lúc bấy giờ chúng ta chết đi chắc chắn là chúng ta sẽ được lên cõi đó. Còn chúng ta không sống không quen, mà chúng ta sống quen cái cõi thế gian của chúng ta, không chừng mà chúng ta sống chúng ta có được về đó không? Mà bây giờ có cho về đó chúng ta có sống được không? Hay là chúng ta lên đó và đem những cách sống đó đem về cõi đó?
Vì ở đó, thí dụ Thầy đặt thành vấn đề, như đức Phật dạy chúng ta ăn ngày một bữa, thì chúng ta tin rằng có lẽ là cõi giới của chư Phật là sẽ ăn ngày một bữa. Nếu chúng ta không tập tành ăn ngày một bữa, thì không chừng chúng ta lên trên đó còn đói bụng ăn ba bữa thì ở trên đó làm sao cho chúng ta ăn ba bữa. Chắc chắn chúng ta sẽ đi về thế gian.
Cho nên, chúng ta tu tập chúng ra phải hiểu rằng là mình phải tạo cho mình có một nếp sống phù hợp với sự giải thoát thì sẽ có sự giải thoát, mà không phù hợp với sự giải thoát thì không bao giờ có sự giải thoát.
(17:47) Cho nên muốn tu, thì phải thấy cuộc đời chúng ta vì chúng ta đắm đuối ở trong dục, trong ác pháp cho nên chúng ta thọ lấy khổ, chúng ta muốn ra khỏi cái khổ của cuộc đời thì chúng ta phải tập sống, tập sống một cái nếp sống khác, chúng ta mới ra khỏi cuộc đời này. Còn nếu mà chúng ta cứ sống như cuộc sống như mọi người đang ở trong dục và ác pháp như thế này thì muôn kiếp, ngàn đời chúng ta cũng không ra khỏi.
Chúng ta phải hiểu được cái lý đó là một cái ý chính. Tại sao đạo Phật lại dạy chúng ta rất nhiều hành động đạo đức sống đúng Thánh hạnh như vậy? Là mục đích để biến chúng ta trở thành những bậc Thánh, và như vậy khi chết chúng ta bỏ thân này chúng ta sẽ đi vào cõi giới khác chứ không còn ở trong cõi phàm phu nữa, không còn đau khổ nữa.
Như vậy chúng ta phải hiểu, thông suốt cái lý để mà chúng ta trên sự tu tập chúng ta không thấy mình gian khổ, không thấy mình cực khổ là vì mình đã có cái hướng đi lên chứ không phải là sống, không phải hướng còn chạy theo dục lạc. Cho nên vì vậy, mà dù gian khổ cách gì chúng ta cũng cố vượt qua để mà chúng ta chiến thắng lại thân tâm của mình.
Bởi vì, bọn giặc sinh tử nó không để cho chúng ta yên ổn, tại sao vậy? Tại vì, khi mà chúng ta mở màng cuộc chiến tranh với nó, thì nó đánh chúng ta mọi mặc. Cái thứ nhất là nó đánh chúng ta hôn trầm, thùy miên. Cái thứ hai nó đánh chúng ta tâm lý chiến, nó lý luận thế này thế khác để rồi nó phạm vào những cái giới luật, nó làm cho chúng ta không giữ gìn nghiêm chỉnh, cho nên chúng ta khó mà thắng nó.
(19:29) Kế đó nó đánh chúng ta những cái vũ lực rất mạnh đó là nó đánh chúng ta cảm thọ, nó đánh chúng ta đau đớn làm chúng ta ngồi không được, làm chúng ta nằm cũng không được, lăn lộn, rên la, đau khổ vì vậy mà có nhiều người có thân bệnh nhưng người ta không thể nào người ta tu. Vì vậy mà đức Phật trang bị cho chúng ta có những vũ lực để mà chúng ta chiến đấu tận cùng với những cảm thọ; với những hôn trầm, thùy miên; với những lý luận, tâm lý chiến của tâm chúng ta, khi nó có một cái gì đó nó, lý luận thế này thế khác để nó bỏ cuộc đi.
Nó lý luận, như các cư sĩ nó lý luận như thế nào? Mình bây giờ có vợ, có con không được bỏ thế này, thế khác… nhưng cuối cùng mình chết đi thì vợ con mình bỏ, chứ làm sao mình muốn sống được sao. Khi mà luật nhân quả nó đến thì chắc chắn cũng không ai mà vượt qua cái sự sinh ly tử biệt đâu. Nhưng mà chúng ta còn sống thì chúng ta lý luận thế này, thế kia để chống đối sự tu tập.
Đạo phật có mở ra một cái cổng rất rõ ràng, để cho chúng ta thấy rằng khi một người có vợ, có con phải giải quyết như thế nào, chứ không phải nói giải quyết mãi rồi đây tới sáu, bảy chục tuổi mà còn ẵm cháu, còn trông nhà cho nó nữa. Đến khi chết rồi còn ai mà trông cháu, trông nhà?
Thế mà chúng ta vì thương cháu, thương con cho nên chúng ta không rời khỏi nhà chúng ta, không lìa ra khỏi để rồi chúng ta sống một đời sống trầm lặng, độc cư để giải quyết giặc sinh tử. Chúng ta bị trói buộc mà chúng ta không thấy.
Cho nên vì vậy, mà ngay từ khi chúng ta đã hiểu được Phật pháp chúng ta phải có một sự sắp xếp để chuẩn bị làm xong cái trách nhiệm, như vợ bây giờ con chúng ta còn nhỏ thì chúng ta chưa hẳn đã đi tu nhưng chúng ta vẫn tập tu; vẫn tập sống một đời sống đạo đức; vẫn tập sống một đời sống Thánh hạnh. Chúng ta có quyền sống chứ, nhưng mà chúng ta không có quyền bỏ con chúng ta còn bé thơ; chúng ta không có quyền bỏ vợ chúng ta chưa đủ sức gánh, chưa đủ điều kiện để nuôi con thì chúng ta phải gắn bó làm xong cái nhiệm vụ bổn phận của một người chồng, cũng như bổn phận của một người mẹ không thể nào muốn đi tu mà bỏ con, bỏ vợ, bỏ chồng mà đi tu, làm như vậy tan nát gia đình của mình… (. . .).
(21:54) Cho nên, đạo Phật đã trang bị cho chúng ta một cái nền đạo đức không làm khổ mình khổ người, nhưng luôn luôn lúc nào sẵn sàng, để mà giải quyết mọi sự khó khăn của sự trói buộc nhân quả. Cho nên, chúng ta sẽ thành tựu, thành tựu được sự giải thoát. Nếu chúng ta tích cực, chúng ta biết rằng con người sinh ra là khổ, trong cái vui chỉ là cái vui tạm bợ, thân người thì như bong bóng nước nay còn, mai mất chưa chắc chúng ta sống lâu, thời gian chúng ta sống 100 tuổi chưa chắc đã là cao, thế mà chúng ta lại đắm đuối trong cái thời gian đó để mà vui chơi trong cái ảo.
Cho nên hôm nay, thì những cái điều kiện mà quý phật tử, quý vị thâm niên mà về đây thăm Thầy có những điều gì muốn thông hiểu cần phải thưa hỏi. Vì con đường tu tập của Thầy là Thầy đã biết cách thức, có những kinh nghiệm trong những lời dạy của đức Phật trong cái giáo pháp. Cho nên, Thầy sẽ giúp đỡ cho quý vị có những kinh nghiệm tu tập làm chủ được sự sanh, già, bệnh, chết của mình. Tự tại trong khi mình chết, mình ra đi chứ không để cho mình chết trên giường bệnh, mình chết trong bệnh đau. Ở đây, người cư sĩ của đạo phật nhất định là không chết trên giường bệnh, luôn luôn lúc nào cũng là người chiến thắng trong bốn sự đau khổ này.
(23:41) Cho nên, hiện giờ phật tử cũng như các vị tu sĩ muốn hỏi Thầy điều gì Thầy sẽ chỉ dạy cho cách thức. Thứ nhất Thầy xin nhắc lại, người tu tập theo đạo Phật thì phải giới luật nghiêm chỉnh, tức là hàng ngày phải chế ngự tâm của mình, khi mà nó phạm giới thì nhất định là không phạm giới, cho nên chúng ta có một ý chí quyết định, quyết định như thế nào? Thà chết không phạm giới, đó là cái quyết định của người tu sĩ Phật giáo. Nghĩa là luôn luôn giữ gìn giới, ví dụ như mình là Sa Di Tăng cũng như Sa Di Ni, khi mà thọ 10 giới xong thì nhất định mười giới này không phạm, thà chết chứ không phạm. Nghĩa là bây giờ chúng ta đau, mặt dù Phật có chế trong…(. . .) là khi đau chúng ta có thể khai giới ra để chúng ta thọ thêm thực phẩm hay là cơm, hoặc là cháo, hoặc sữa để rồi chúng ta uống thuốc. Nhưng một người mà quyết tâm tu nhất định, chết là do nhân quả không phải là do sự ăn uống hay hoặc là thuốc than mà chết, do đó cái người mà quyết tâm tu để tìm sự giải thoát nhất định chết chứ không ăn phi thời.
Chứ không khéo cái tâm của chúng ta nó khéo léo lắm hơi cảm cảm sơ sơ, hay hoặc nóng lạnh sơ sơ thì nó lý luận bây giờ uống thuốc cảm thôi để uống thêm ly sữa, điều này nó dẫn dụ chúng ta để rồi chúng ta phạm giới. Cho nên, nhất định là thà chết không phạm giới!
(25:23) Thầy nhắc lại, trong thời của đức Phật có hai vị Tỳ kheo ở xa đến thăm Phật, trên con đường đi để đến thăm Phật thì đi ngang qua một sa mạc cho nên không có nước uống, đến một cái vũng thấy trong vungc có những cái loài vật sống ở trong nước, nhưng mà cái vị Tỳ kheo kia thì nhất định là giữ giới không uống nước, cho nên khác nước mà chết ở trên sa mạc. Còn một vị thì nghĩ rằng mình chết thì không gặp được Phật, và còn sống mới có thể tu tập được. Cho nên, có vị Tỳ kheo đó lại uống nước đến gặp Phật mới trình bày sự khổ đau của hai người đi đến, một người thì nhất định giữ giới mà chết ở giữa đường, để cho đức Phật phán xét coi cái nào đúng và cái nào sai. Thì đức Phật nói vị Tỳ kheo kia ông là một người ngu si, ông uống nước có trùng mà ông đến đây gặp Phật thì ông xa Phật, không bao giờ thấy Phật. Còn vị Tỳ kheo kia giữ giới luật nghiêm chỉnh ông ta mất, nhưng ông đã gặp Phật trước ông.
Đó, thì các con thấy đức Phật xác định chúng ta vì chấp một cái điều kiện không có đúng chính đáng, thân của chúng ta chết là do nhân quả. Cho nên, một người tu sĩ đạo Phật khi mà họ có những cái gan dạ, quyết chiến, quyết thắng thì khi mà họ tu hành họ gặp bệnh thì họ lấy đối tượng đó nhất định là phải đẩy lui cho khỏi, chứ không uống thuốc. Còn hơi nhát gan thấy đau nhức, khổ sở thì lăn lộn đi bác sĩ, rồi uống thuốc, rồi phạm giới ăn thêm tất cả những cái điều này đã là một cái người không xứng đáng đệ tử của Phật.
(27:13) Cho nên, Thầy mới nói như thế này, một người mà tu chứng đạo Phật để làm chủ bốn sự sinh, già bệnh, chết đó là bằng máu và nước mắt của họ. Khi họ phải lâm trận đánh cái trận giặc sinh tử này, thì khi mà nó đánh mình bằng cái trận đau như những cái bệnh ruột thừa, như những bệnh ung thư ở bên trong thân của chúng ta nó đau nhức kinh khủng, thế mà cái người tu sĩ của đạo Phật thì quyết định là chiến thắng, không đầu hàng. Cứ sừng sững giữ thân của mình, nhiếp phục tâm mình, an trú tâm mình không để loạn động, thì người đó sẽ thắng được giặc, thắng được trận đánh. Thì như vậy chúng ta phải thấy được điều kiện cần thiết để mà chúng ta tu tập.
Thì như vậy rõ ràng là đức Phật trang bị cho chúng ta mọi phương pháp để chúng ta chiến đấu với giặc sinh tử, nhưng chúng ta không được người trang bị cho chúng ta, không được dạy chúng ta tập luyện do đó mà chúng ta gặp bệnh đau là chúng ta đầu hàng chúng ta phạm giới, phá giới.
Hôm nay, quý vị được nghe lời Thầy nói, cái công trình tu tập như vậy, thì tốt hơn hết là quý vị thưa hỏi kỹ. Đó! Thứ nhất là Thầy nói giới luật, nhất định là thà chết chứ không phạm giới.
(28:33) Thứ hai tập an trú tâm mình cho được hơi thở đó là cái thứ nhất, an trú tâm mình được trong thân hành niệm tức là bước đi kinh hành của mình hay là thân động của mình, nghĩa là lấy cái thân hành của chúng ta mà tập tu, mà nhiếp phục trong thân hành. Nghĩa là Thầy đi Thầy biết Thầy đi, nhưng mà cách thức nhiếp phục để cho cái tâm nó tự nhiên mà không ức chế trong bước đi đó là phải thưa hỏi kỹ.
Rồi phải thưa hỏi Thầy kỹ làm sao an trú được tâm trong bước đi, làm sao an trú được tâm trong thân hành niệm, làm sao an trú được trong hơi thở, phải hỏi kỹ. Nếu không biết cách an trú thì không an trú được, không biết cách nhiếp tâm thì không nhiếp tâm được mà bị ức chế tâm.
Khi mà hỏi kỹ những điều này, rồi tập tu thì lần lượt chúng ta sẽ nhiếp tâm được, rồi sẽ an trú được và không bị ức chế tâm, thì cái cần thiết mà nếu chúng ta quyết tâm tu để mà chúng ta làm chủ giặc sinh tử, là chúng ta sẽ trang bị những phương pháp để mà chúng ta đối trị lại những cái ác pháp ở trên thân tâm của chúng ta, và đối trị lại với cái tâm ham muốn của chúng ta.
Do đó, đạo Phật đã trang bị cho chúng ta đủ những phương pháp để mà chúng ta ngăn và diệt tất cả cái lòng ham muốn và những ác pháp mà đang tác động trên thân tâm của chúng ta.
Như vậy quý phật tử và quý thầy, người nào muốn hỏi một cái điều gì thì cứ hỏi tự nhiên đừng có sợ hãi mà phải hỏi thật. Ở đây, không có dùng mê tín, nghĩa là không cầu khẩn một người nào hết, đạo Phật đã dạy chúng ta “tự thắp đuốc lên mà đi”. Cho nên bây giờ, chúng ta chỉ lấy cái sức tự lực của mình ra mà cứu mình, không có còn cầu ai cả hết. Vì chúng ta cầu là không đúng, đạo Phật không có cầu khẩn, chỉ mình tự cứu mình. Vậy thì bây giờ, quý phật tử muốn hỏi thì cứ thưa hỏi, có những điều gì cần thiết mà trong cuộc đời tu tập của mình thì mình thưa hỏi, để mong rằng có một ngày nào đó mình sẽ thực hiện những lời Thầy dạy thì mình sẽ thấy được kết quả hữu hiệu, để mình làm chủ được sự đau khổ cho bản thân của mình. Bây giờ quý vị thưa hỏi!
Chuẩn bị cho mình những câu hỏi, để cho mình biết con đường để đi, và biết cái bước đi mình có vững chắc hay không. Thì bây giờ không ai hỏi thì Thầy xin trả lời để cho thấy được cái đường của mình đi.
(31:30) Thì đầu tiên hồi nãy Thầy cũng nhắc, là chúng ta hãy giữ gìn 10 giới Sa Di, tức là chúng ta giữ gìn trọn vẹn là chúng ta đã nhập vào dòng Thánh. Nghĩa là một bậc Thánh mới sống được cái Thánh hạnh.
Thì Thầy xin nhắc lại, giới thứ nhất của người Sa Di là giới cấm không sát sanh. Về cái đức Thánh của nó là Đức Hiếu Sinh, lòng thương yêu sự sống của muôn loài ở trên hành tinh này, nghĩa là cái gì có sống là người tu sĩ đó phải thương yêu. Bị vì mình có sự sống cũng như loài vật khác thì cái người mà thọ giới Sa Di thì họ không ăn thịt chúng sanh và không giết hại chúng sanh. Thường tập tỉnh thức để mà trên bước đi của họ hay hoặc làm công việc gì đó thì họ không để cho mình vô tình mà chạm đến sự sống của một loài vật khác, đó là trách nhiệm và bổn phận cái đức Thánh của họ, giúp cho họ những cái điều đó.
Như vậy họ muốn thực hiện được cái lòng hiếu sinh đó, thì họ phải tu tập pháp gì? Họ phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm tức là tâm từ, bi, hỷ, xã. Do những cái tâm từ, bi, hỷ, xã thì cái đức Thánh Hiếu Sinh đó họ sẽ thực hiện được, vì vậy mà giới cấm không sát sanh họ sẽ thực hiện nghiêm chỉnh, không bao giờ họ vi phạm về cái giới đức, đó là cái đức thứ nhất.
(32:55) Cái đức thứ hai, là không gian tham trộm cắp. Vậy thì cái giới cấm nó không gian tham trộm cắp nhưng cái đức của nó là Đức Buông Xả, nhưng buông xả cần lao chứ không phải buông xả thiếu cần lao. Còn trái lại buông xả mà không cần lao là người yếm thế tiêu cực bỏ đời, còn trái lại đạo Phật thì tích cực.
Cho nên, trong giới mà của người cư sĩ thì có giới không gian tham trộm cắp tức là có Đức buông xả, cho nên người cư sĩ cần phải lao động, cần phải làm công việc chứ không phải nói rằng tôi tu theo Phật là buông xả, cái đức buông xả là tôi không làm vợ con làm gì làm, giờ tôi đã thọ Tam Quy Ngũ giới tôi không làm thì cái đó sai. Cho nên, cái Đức Buông Xả kèm theo cần lao, để không ăn bám vào người khác.
Còn trái lại tu sĩ cái Đức Buông Xả thì nó tùy theo cái Chánh nghiệp của nó, cái Chánh nghiệp của người tu sĩ là Chánh nghiệp gì? Chánh nghiệp của người tu sĩ chỉ có duy nhất là đi xin ăn, nghĩa là không được nằm ở nhà mà chờ người ta nấu cơm cho mình ăn, mà mình phải đi một đoạn đường, hai đoạn đường để mà xin trong ngày hôm đó. Cái sự Chánh nghiệp của người tu sĩ là phải bỏ cái công ra đi xin chứ không phải bỏ công ra làm ra vật, đó là Chánh nghiệp của người Du Tăng Khất sĩ, của một người tu sĩ.
Còn bây giờ chúng ta sẵn sàng ở trong Chùa thì chúng ta nấu chúng ta ăn hà, như vậy nó có đúng không? Không đúng, cái đó là không đúng! Cho nên, ngày xưa đức Phật dù già bảy mươi mấy, tám mươi tuổi nhưng mà đức Phật vẫn ôm bình bát đi xin, chứ không có ngồi nhà mà đợi cho mấy chú kia đi xin về rồi sớt cho mình ăn, đức Phật vẫn ôm bình bát.
Có nhiều thánh Ni trong thời đức Phật bảy mươi mấy tuổi nhưng mà các Ngài vẫn ôm bình bát đi xin, vẫn trèo núi, vẫn như thường. Cho nên, chúng ta thấy rõ ràng trong thời Đức Phật rất là bình đẳng, không có người này đi xin cho người kia, trừ ra nhập thất thì hai người đi xin cho một người ăn, nghĩa là mình xin vừa đủ mình ăn còn thừa đem về sớt lại cho cái người kia, tức là người nỗ lực chuyên tu những cái giờ phút cuối cùng. Vì vậy mà, ba người có hai người lo làm chuyện đó, nhưng mà chúng ta lại thấy trong thời đức Phật có ba vị Tôn giả ở trong khu rừng sừng bò, ba vị này vẫn tu tập Thiền định, vẫn độc cư không nói chuyện nhau, mà người nào cũng đi xin ăn chứ không có người nào mà xin cho người nào cả. Nhưng mà, khi mà người đi xin trước về ăn rồi thì cái người còn dư để lại cho người sau, rồi người sau thì ăn rồi dọn dẹp đó là cái đời sống của tu sĩ trong đời đức Phật là như vậy, chứ không có nấu nướng, không có để dành lại, để dành lại qua đêm mà ăn đó là giới luật đức Phật đã cấm như vậy.
(35:58) Cho nên chúng ta thấy cái Đức thánh buông xả mà nói về người tu sĩ là phải ôm bình bát đi xin, cũng như ở đây đối với quý vị về đây quý vị thấy rõ ràng Thầy cũng ôm bình bát đi xin như mọi người, cũng như mọi chúng, nghĩa là cũng phải ra nhà bếp người ta phải sớt bát cho Thầy rồi cũng như chúng ở đây, chứ không phải là có người dọn sẵn mà lên trên mâm bàn rồi ngồi ăn đó đâu, không phải đâu. Ôm bình bát đi xin hẳn hỏi đàng hoàng.
Rồi Thầy làm việc xong rồi, trong những giờ phút mà Thầy làm việc xong rồi 11, 12 giờ thì Thầy ôm bình bát trở về cái thất nghèo nàn của mình để mà an nghỉ, chứ không phải ở trong cái phòng làm việc đó mà ngủ nghỉ ở tại đó, không có. Nghĩa là một người tu sĩ vẫn giữ giới luật nghiêm chỉnh, chứ không bao giờ vi phạm chứ không phải là lười biếng, ờ bây giờ mình làm việc trong cái phòng sẵn nó ấm áp, sẵn như thế này, thế kia,… mình ngủ đại, hay hoặc là đặc cái giường ở đó, thì ai mà rầy Thầy!
Nhưng mà mình làm mất Thánh hạnh của mình, người ta nữa đêm, người ta thấy một vị tu sĩ trên vai mang cái túi bát trong đó có cái y, rồi những vật dụng cần thiết cho đời sống một người tu sĩ Du Tăng. Vị tu sĩ ấy mang cái bát đến một cái thất nghèo nàn, nằm dưới tầm vông trúc tre, trên cái cục đá, trên một cái tảng đá hoặc trên cái giường tre, rồi trải một cái tấm y rách của mình để rồi an nghỉ trong vài tiếng đồng hồ rồi thức dậy đi làm công việc nữa, thì đó mới là giữ Thánh hạnh.
Chứ không phải thấy mình hiện giờ là một vị trụ trì của một ngôi Chùa, thì lúc bây giờ có kẻ bưng cơm vừa nước cho mình, có kẻ vũ mùng, có kẻ quét sàn cho mình ngủ thì điều đó là điều sai. Sống cũng như mọi người cũng như tu sĩ khác, mặc dù có Thị giả, nhưng Thị giả phải làm những việc gì, chứ không phải làm những việc mà đức Phật đã làm được mà phải làm thế.
(38:06) Nhắc lại những gương của đức Phật, chúng ta thấy chúng ta sống chưa bằng đức Phật chút nào. Vậy chúng ta cố gắng, ít ra đức Phật được 10 chúng ta cũng được 1, còn bây giờ thì chúng ta thấy hễ khi mà chúng ta có giá trị một chút xíu là chúng ta coi như là mình có người hầu kẻ hạ, thì như vậy không đúng. Đối với tu sĩ đạo Phật là phải bình đẳng, người nào có nhiệm vụ như người nào, cho nên đối với Thầy Thầy cố gắng giữ gìn những giới hạnh đó để làm gương sáng, để làm Thánh hạnh, để mới gọi là làm gương do đó, mà Thầy mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết là vì sống đúng Thánh hạnh.
Do kinh nghiệm này, Thầy khuyên nhũ quý thầy cũng như các cư sĩ chuẩn bị cho mình chuẩn bị trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni sau này thì phải chuẩn bị trên tinh thần giữ giới luật, đó là giới buông xả. Giới buông xả, vì vậy mà chúng ta thấy tâm hồn chúng ta không còn dính mắc, phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc đó là cái đời sống của người tu sĩ biết buông xả, và biết cần lao trong sự sống hàng ngày của mình, tức là đi xin.
Cái giới thứ ba là đối với người cư sĩ là cấm tà dâm, nhưng với người tu sĩ thì cấm dâm dục. Vậy thì đối với người cư sĩ thì đức của nó là Đức Chung Thủy, còn đối với người tu sĩ là Đức Thanh Tịnh bởi vì hoàn toàn không dâm dục.
(39:33) Cho nên, nó có những phương pháp để làm cho chúng ta ly những cái lòng dâm đó, nó giúp cho chúng ta thoát ra khỏi cái lòng dâm dục của chúng ta tức là sắc dục, nó có phương pháp để cho nó giữ được cái Đức Thanh Tịnh của nó. Cho nên giới thì cấm không dâm dục, nhưng cái đức của nó là Đức Thanh Tịnh, nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, nên gọi là Đức Thanh Tịnh.
Cái giới thứ tư là cái giới không vọng ngữ, tức là cái đức của nó là Đức Thành Thật, nó tạo chúng ta có uy tín, lời nói chúng ta có giá trị, nói ra người ta biết rằng cái người quá thành thật, còn chúng ta nói không thành thật…
(40:15) Về cái giới này rất khó, một người tu chưa chứng mà đem kinh sách Phật ra giảng tức là người có nói láo. Tại vì mình chưa biết gì hết, mình chưa có kinh nghiệm tu tập gì hết, mình nói rồi người ta tu được không? Tức là có nói láo.
Kinh sách dạy mà chúng ta tu tập không kết quả, không đạt được thì kinh sách có nói láo. Chứ không phải nói là mình nói láo là nói dối, nói chuyện không thật, nhưng mà cái hành động làm của mình không thật. Một cái người khen người khác, mà cái người đó chưa đúng với cái lời khen đó mà khen người khác như vậy là lời đó nói láo. Một lời người khác, như các cư sĩ các con tức giận chửi ai: Mày đồ chó, đồ trâu, đồ khốn nạn lời đó là lời nói láo. Tại sao bây giờ cái ông đó ổng có tiền của, ổng ăn, ổng giàu có mà chửi người ta khốn nạn? Mà người ta có khốn cùng đâu, đó là nói láo. Người ta có phải là con chó, con trâu đâu mà mình nói người ta con chó, con trâu thì lời nói đó là lời nói láo.
Khen mà không đúng cũng là nói láo, mà chê không đúng cũng là nói láo, đó thì chúng ta thấy. Người đi thuyết giảng mà tu chưa chứng là người nói láo tại vì đức Phật nói rằng: “Khi tu chứng thì chúng ta mới dạy người, mà tu chưa chứng thì đừng có nên dạy ai hết!”. Là tại sao? Tại vì đức Phật sợ chúng ta thiếu thành thật, chỉ mình dựa vào một số kinh sách nào đó mình nói, mà mình biết chắc được là cái đó đúng hay sai, kinh sách còn nói láo kia mà.
Cho nên, tất cả những điều này là điều rất quan trọng, chứ không phải là không quan trọng, đó là cái giới Đức Thành Thật, cái Đức Thánh Thành Thật của nó, mà biết thành thật thì mới… mà không biết thì chúng ta vô tình chúng ta phạm phải nói vọng ngữ, chúng ta không hay biết.
(42:07) Cái giới thứ năm là giới cấm không uống rượu, người cư sĩ cũng như người tu sĩ không được uống rượu. Chứ không phải nghe người ta nói rằng đức Phật cấm không uống say, cứ uống rượu mà đừng uống say, thì cái điều này là cái điều chế ra của quý vị sau này, thèm rượu mà chế ra chứ không phải là Phật chế, Phật cấm bặc không được uống cái thứ này. Đó là cái Đức Minh Mẫn, bởi vì những chất rượu, cà phê, thuốc lá, hay hoặc rượu, hay hoặc thuốc phiện đều là những chất độc, nó gây làm cơ thể chúng ta bị nghiện ngập, mà không có những chất đó thì làm chúng ta rất khổ sở và khó chịu.
Do đó đức Phật cấm, vì vậy mà cái đức của nó là Đức Minh Mẫn, sáng suốt, hoàn toàn là người sáng suốt không bao giờ nuốt đọc dược vào trong thân. Chỉ có người ngu si, người vô minh không thấy mới đắm đuối chạy theo rượu, thuốc lá mà làm cơ thể chúng ta phí đi một số tiền rất lớn mà chẳng lợi ích gì cả. Đó là người không minh mẫn, không sáng suốt cho nên đức của nó là Đức Minh Mẫn.
(43:15) Kế đó giới của người tu sĩ, thì người tu sĩ không trang điểm, mà người cư sĩ còn trang điểm là vì thiếu tình thương. Chúng ta sinh ra có người xấu có kẻ đẹp, xấu đẹp là do cái nhìn của chúng ta chứ đâu phải có người nào xấu, mà người nào đẹp. Thân chúng ta người đẹp cũng bất tịnh mà người xấu cũng bất tịnh, cũng vẫn hôi thối như thường, không phải là người đẹp thơm tho mà người xấu lại hôi thối, thân người nào cũng hôi thối hết, trong thân chúng ta không có người nào là không bất tịnh.
Cho nên vì vậy, cái nhìn chúng ta là cái nhìn lệch lạc, không đúng. Cái đẹp của chúng ta là tại vì cái mắt của chúng ta cho rằng cái đẹp đó là người đó đẹp, người đó xấu. Cho nên vì vậy, 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp không đúng cách, bởi vì đức Phật đã bác cái này rất rõ ràng, trong bài kinh đức Phật đã bác rõ ràng, bởi vì Bà La Môn ngày xưa, trong thời đức Phật là có đạo Bà La Môn mà đạo Bà La Môn chấp nhận rằng cái người mà được gọi là Bà La Môn phải đẹp trai, phải đẹp người, mà xấu thì không được gọi Bà La Môn. Thì đức Phật nói: Một người rất đẹp trai, có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, nhưng người ấy tham lam trộm cắp, không thành thật, vọng ngữ thì người ấy có được gọi là Bà La Môn hay không? Thì những vị Bà La Môn nói: Không được! Không được gọi. Bởi vì, một người đó dù đẹp trai mà phạm vào giới luật thì người đó không được gọi là Bà La Môn.
Thì như vậy Bà La Môn mà đẹp trai có cần thiết không? Không cần thiết! Như vậy thì đâu có cần gì mà 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp chỉ cần chúng ta giữ gìn giới luật là chúng ta đã là người Bà La Môn, tức là người tu chân chính rồi.
(45:12) Rồi bắt đầu bây giờ đức Phật lại bác một lần nữa, chúng ta lại thấy đó là cái giới trang điểm. Vậy thì chúng ta làm đẹp, chúng ta có tướng tốt như vậy có lợi ích gì đâu! Không có lợi ích. Cho nên, cái giới trang điểm làm đẹp mà đức Phật, cái đức Thánh của nó là Đức Thánh Tự Nhiên. Chúng ta như thế nào cứ để như thế nấy đừng có làm đẹp, thế mà có nhiều người phải ăn mặc y áo cho sạch đẹp, rồi phải may cho vừa vặn, đã tu rồi cạo bỏ râu tóc rồi còn gì đẹp nữa, thế mà mỗi lần mặc cái áo nếu mà rộng quá thì cũng không được, phải cho vừa, chật quá thì cũng chê, tất cả những tu sĩ này sai.
Xưa kia cái y của đức Phật gọi là y phấn tảo. Đức Phật lượm những vải bỏ, vải dơ, giặt cho nó sạch sẽ, để rồi kết lại thành một tấm y choàng lên trên thân của mình để cho kín thân của mình, thì miếng vải như vậy có tốt không? Không tốt! Có đẹp không? Không đẹp!
Còn bây giờ, chúng ta ngồi tẵn mẵn, kê nghê kết làm những cái y rất là vất vả, cực khổ trong cho nó đẹp, thì như vậy rõ ràng là chúng ta đang trang điểm mình qua cách ăn mặc, chúng ta làm sai phạm giới. Nhưng người phật tử người ta cúng dường mình một cái áo, cái y làm như thế nào thì mình cũng mặc thế nấy. Chứ mình không có được quyền đi tới, đi sửa lui cho cái y áo của mình nó bằng cách vừa vặn thế này, thế khác thì cái này là còn trang điểm. Một hành động nhỏ chúng ta cũng phải xét rằng mình làm có đúng không? Mình sống có đúng không? Để không rồi mình lại phạm giới, đó là cái Đức Tự Nhiên của mỗi người, cho nên chúng ta không trang điểm.
(47:58) Kế nữa là cái giới không ca hát và nghe ca hát, cái giới này rất quan trọng. Bởi vì, đức Phật cấm mình không được ca hát, mà không được nghe ca hát, tại vì cái đức thánh của nó là Đức Trầm Lặng Độc Cư, một người tu sĩ phải sống trầm lặng độc cư, không thể nào mà ca hát, ca hát có trầm lặng độc cư được không? Mà ngồi nghe ca hát có trầm….
(47:32) … người ta vẫn giữ giới thì cái người này có xứng đáng Bà La Môn không? Xứng đáng! Thì do đó, cái người mà bảy đời như vậy Phật cũng bát bỏ. Rồi một người đẹp 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp thì đức Phật cũng bát cái đẹp đó nữa. Rồi bắt đầu bây giờ, ở trong một vị Bà La Môn phải tán tụng, phải biết tụng niệm, cúng bái phải cho rành, phải học thuộc cho giỏi 3 bộ kinh Vệ Đà phải thuộc thông suốt, còn nếu không thông suốt, không tán tụng được thì chưa chấp nhận là một Bà La Môn, nhưng đức Phật nói một người học thuộc ba bộ kinh Vệ Đà thông suốt và táng tụng rất hay, cũng như bây giờ chúng ta ở chùa tụng niệm như vậy, thì đức Phật nói khi mà táng tụng rất hay như vậy đó nhưng vẫn phạm giới, phá giới, cũng vẫn tham lam trộm cắp, cũng chạy theo dục lạc, cũng ham muốn cái này, cũng ham muốn cái kia… thì như vậy có xứng đáng là Bà La Môn không? Thì mọi Bà La Môn nói là không xứng đáng. Thì như vậy rõ ràng là táng tụng nó đâu có cần thiết, nó giống như là ca hát.
Cho nên, cái giới cấm không ca hát nhằm cắm cho chúng ta tụng niệm cúng bái, chúng ta làm đúng chưa? Trong giới luật đã cấm, trong bài kinh đã bát, thế mà chúng ta nhẫm lại cái đường lối của Bà La Môn, chấp nhận cúng bái, cho nên chúng ta làm sai, giới luật đã xác định được điều đó.
Vì vậy, mà một người tu sĩ đạo Phật phải sống trầm lặng, độc cư để làm gì? Để hằng ngày nhìn quan sát lại thân tâm của chúng ta mà ngăn ác diệt ác sinh thiện, tăng trưởng thiện, có phải là Tứ Chánh Cần không? Siêng năng không có giờ phút nào mà ngơi nghỉ để mà ngăn ác diệt ác, thì ngay đó chúng ta có giải thoát chớ. Tụng niệm là cái kẽ hở làm cho chúng ta có sự cầu khẩn ở trong đó, cho nên đó là một cái sai của đạo Phật, mà đã truyền thừa một cái sai như thế này, bây giờ chúng ta chỉnh đốn được không? Những điều không giải thoát?
(49:26) Bây giờ quý thầy, quý cô, tất cả mọi người trong chùa không thể nào mà nghiêng lại điều này được, mà chính đức Phật ngày xưa đã xác định rất rõ và cho chúng ta biết được giới luật cấm như vậy, thế mà chúng ta làm mà cứ ngỡ rằng mình không phạm giới, đó là cái phạm giới. Mà cái đức của một người tu sĩ của đạo Phật là Đức Trầm Lặng, Độc Cư không cầu khẩn gì cho ai được hết, mà hãy ngăn ác diệt ác. Cho nên, bốn cái điều cần tu tập của người tu sĩ hàng giờ, hàng phút, hàng giây không lúc nào ngơi nghĩ đó là “ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Trong kinh pháp cú dạy chúng ta: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, luôn luôn lúc nào cũng làm việc thiện mà không bao giờ làm việc ác, đó là cách thức tu của đạo Phật, như vậy. Đây là những cái giới của Sa Di chúng ta thấy rất cần thiết chớ, nhưng mà tại sao chúng ta lại phạm trên cái giới của Sa Di này? Nó là những đức Thánh.
(50:22) Bây giờ tới cái giới nữa, đó là đức Phật cấm không được nằm giường cao rộng lớn. Tức là đời sống của một người tu sĩ lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là cái đức Thánh, cái giới cấm chúng ta không được nằm giường cao rộng lớn, cái đức Thánh nó ở chỗ nào? Cái đức Thánh của nó là cái Đức Thiểu Dục Tri Túc, một người mà nằm giường cao rộng lớn là người không thiểu dục tri túc.
Cho nên, đời sống của đức Phật ngày xưa lấy gốc cây mà làm giường nằm, Ngài tu mà thành Phật thì ngồi dưới gốc cây mà thành Phật, mà đến khi ngài chết Ngài không chết ở trong cái chùa đẹp, trong cái bệnh viện, mà Ngài chết trên cục đá giữa hai cây Sa La Song Thọ, Ngài chết dưới tàn cây. Ngài tu thành đạo dưới cội bồ đề, Ngài chết dưới cây Sa La Song Thọ, Ngài không chết ở trong nhà. Đời sống của Ngài là Du Tăng Khất sĩ cho nên Ngài không có giường cao rộng lớn được, vì vậy mà Ngài nay ở đây, mai ở đó cho nên lấy gốc cây làm giường nằm.
(51:29) Tiếc vì trong thời chúng ta những cái hạnh cao quý ấy, những cái hạnh giải thoát ấy đã mất đi. Chúng ta trở thành toàn Trụ Thế Tăng, vì vậy mà hôm nay ở tại Tu viện này Thầy đã có tuyên bố trước Tu viện này không phải của Thầy. Nhưng người ta cứ nghĩ rằng đây là cái Tu viện của Thầy, sự thật không phải Thầy đã nói trước rồi. Đây là của cô Diệu Quang, của chú cư sĩ Minh Tâm, của Chơn Tâm, của Như Kỳ, Như Lý… của những người này họ bỏ tiền ra, rồi họ làm những cái điều kiện mà hôm nay chúng ta có những cái phương tiện mà chúng ta ngồi trong cái mái nhà này, tiền bạc của họ bỏ chứ Thầy không bỏ, Thầy có làm đồng bạc nào đâu ra mà gọi là của Thầy. Của họ!
Nhưng với sự điều khiển của Thầy, ở đây không được cất tường cao, mà phải cất bằng tầm vông trúc tre tạm để giữ gìn mưa gió và nắng để mà chúng ta sống mà thôi, chứ đừng có cất xa. Cái nền mà chúng ta đang ngồi đây là do chú Chơn Tâm chú bỏ tiền ra chú định xây dựng ở ngay chỗ này là cái chùa, ngay chỗ này là cái giảng đường, nhưng khi chú kêu thợ đến đây mà làm cái nền cao như thế này, thì ngay liền Thầy hay được Thầy cấm liền, không được xây cất. Sau này, chặt tầm vông trúc tre làm lên cũng được.
Cho nên cái nền này có một thời gian rất dài, sau đó mới làm được, có lẽ là khi mà thầy Chơn Giác mà về đây, thì thầy cũng thấy cái nền bỏ trống thầy cũng…(. . .).
Thì ở đây, các phật từ và các thầy đều biết rằng nhất định Thầy phải sống đúng giới hạnh. Cho nên ở đây, nhiều khi có một điều kiện mà làm, nhưng Thầy thấy người cư sĩ của họ làm, Thầy không làm cái điều đó, nghĩa là đối với Thầy xây cất hay làm gì, không làm. Nhưng hiện giờ, Thầy chỉ có làm điều duy nhất là Thầy nói lên một sự thật, viết ra những cuốn sách nói sự thật Phật giáo cái nào đúng, cái nào sai. Như nãy giờ Thầy giảng về 10 giới Sa Di đó, để cho thấy được cái đức Thánh của nó, đó là nói cái đúng cái sai của đạo Phật.
(53:38) Thầy dám nói, tất cả những cái điều kiện này chưa ai dám nói, tại sao Thầy dám nói trong chùa tụng niệm là Bà La Môn? Là sai? Tại vì giới luật của đức Phật cấm, đời sống Thánh hạnh phải trầm lặng, độc cư, ngăn ác diệt ác không thể nào mà tối ngày tụng niệm tứ thời như vậy. Tụng niệm tứ thời như vậy là do Ngọc Lâm quốc sư trong thời nhà Thanh của Trung Hoa chế ra những thời công phu đó, chứ không phải là trước kia nó có những cái điều kiện này. Chúng ta cũng phải biết nó lưu xuất từ đâu chứ không phải là không biết, cho nên cái sai lệch là cái sai lệch của người sau chế biến ra làm lệch con đường Phật giáo, làm cho chúng ta lập lại cái lối mòn của Bà La Môn.
Cho nên, chúng ta là một Du Tăng Khất Sĩ là điều kiện là điều kiện quyết tốt nhất, còn Trụ Thế Tăng là chúng ta coi chừng chúng ta sẽ sai lệch đường lối của đạo Phật ngày xưa. Đó là cái giới cấm rất rõ ràng để chúng ta trở thành Du Tăng Khất Sĩ, cho nên cấm không cho nằm giường cao rộng lớn, đó là Thánh hạnh của chúng ta.
Bây giờ tới cái giới không ăn phi thời, không ăn phi thời là đức Thánh nó cái gì? Đức Thánh Ly Dục. Bởi vì, chúng ta còn dục tức là còn ham ăn, còn ăn nhiều bữa, còn ăn phi thời, cho nên ăn ngày một bữa tức là Đức Thánh Ly Dục.
(54:54) Như vậy rõ ràng một người muốn ly dục là phải ăn ngày một bữa, mà chúng ta không ly dục thì làm sao ly ác pháp được!? Rõ ràng, là trong cuộc đời tu hành một người tu sĩ sống đúng giới luật như vậy, 10 giới vừa rồi Thầy kể ra như vậy là tới cái giới mà không ăn phi thời, thật sự ra chúng ta nhìn tu sĩ chúng ta hiện giờ có ai sống đúng chưa? Có chớ, một hai người có chớ, chứ còn nhiều thì chắc chưa có, hầu hết đều là phạm giới này.
(55:24) Kế nữa, thì chúng ta lại tìm thấy cái giới nữa là cái giới không cất giữ tiền bạc. Tại sao người cư sĩ khi Thọ Bát Quan Trai thì còn được cất giữ tiền bạc, còn chúng ta lại không cất giữ tiền bạc? Là tu sĩ cất giữ tiền bạc thì hoàn toàn không ly tâm tham của chúng ta. Cho nên, cái giới không cất giữ tiền bạc thì cái Đức Thánh nó là Ly Tham. Người mà còn cất giữ một đồng ở trong túi thôi, thì người ấy vẫn còn tâm tham. Bởi vì, tham là tham muốn chứ không phải tham lam, trộm cắp ai hết, còn tham muốn tức là tham dục. Do một đồng thì nó vẫn xúi chúng ta sẽ mua một cái gì, sẽ làm một cái gì đây. Mà còn muốn, còn làm thì tức là còn tham, phải hiểu!
Cho nên giới luật giúp chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn, nếu mà chúng ta không giữ gìn giới luật thì đừng mong chúng ta tu thiền định gì mà có tiền định cả. Và cũng đừng mong chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết được!
Quý vị cứ nhớ rằng ăn ngày bữa chúng ta thiếu chất mà chúng ta sẽ bệnh đau, không bao giờ có điều đó, ăn ngày một bữa ít bệnh đau hơn là người ăn nhiều bữa. Bởi vì, ăn nhiều bữa là cơ thể chúng ta phải hoạt động nhiều, ăn vô cũng cực khổ, rồi vô rồi bao tử chúng ta phải hoạt động để tiêu hóa cái đồ ăn đó, mà ăn ba bữa nó phải hoạt động ba lần, còn chúng ta ăn một bữa nó hoạt động có một lần, và từng đó buổi chiều tới buổi sáng chúng ta vẫn nghỉ ngơi, cơ thể chúng ta không hoạt động nữa, nó an nghỉ cho nên nó ít đau bệnh.
(56:58) Bởi vì, cái miệng chúng ta nó sẽ vào thân chúng ta có hai ngõ. Ngõ thứ nhất là do ăn uống, nó đem đến những bệnh tật làm cho chúng ta có nhiều đau khổ, cho nên người ăn nhiều có bệnh tật nhiều, còn người ăn ngày bữa ít bệnh tật, như Thầy bảy mươi mấy tuổi rồi vẫn thấy khỏe khoắn, không bệnh đau một cái gì, không đi nhà thương, không uống thuốc, không cái gì cả hết. Thời tiết thay đổi thì bị cảm thì đẩy lui nó, viêm phế quản thì ho một vài tiếng đẩy lui nó, thì tất cả những cái điều này đều là do ảnh hưởng của thời tiết và cơ thể của chúng ta là cơ thể duyên hợp, cơ thể của nhân quả, cho nên nó vô thường, vì vậy mà nó ảnh hưởng để sự hoại diệt vô thường nó tiến diễn. Do đó biết điều khiển, thì cái cơ thể chúng ta vẫn không đến nỗi mà chúng ta phải lo lắng.
Nhưng một người ăn ngày một bữa thì Thầy thấy rất tiện lợi về vấn đề làm chủ được sự bệnh đau của nó. Đó là cái điều kiện mà ở đây quý thầy đã từng sống ngày một bữa mới thấy kinh nghiệm của nó, mới thấy thực tế của nó. Còn ở xa nghe lời những người mà tham ăn, thì ăn phải nhiều, ăn mới có sức khỏe, ăn mới có mạnh, sự thật ra mấy nhà giàu có tiền của họ ăn rất nhiều mà họ có mạnh đâu, họ cũng uống thuốc, họ cũng bệnh đau rề rề, như một ông vua đâu có ông vua nào mà không bệnh. Sự thật không chứng minh được lời đó là đúng. Còn những người tu sĩ theo đạo Phật thân vô thường thì có bệnh, mà ăn ít đâu có nghĩa là bệnh đau nhiều đâu, cho nên thực sự ở đây bệnh là do nhân quả, vì vậy mà chúng ta có những điều kiện để đẩy lui những cái cơn đau đó. Cho nên, giới luật chúng ta càng nghiêm chỉnh bao nhiêu thì chúng ta lại càng tu tập dễ bấy nhiêu.
(58:45) Cho nên vì vậy, mà Thầy kêu gọi quý phật tử nên cố gắng và tu sĩ nên cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh. Do đó, thì giới luật chúng ta mới thực hiện được thiền định, còn giới luật không nghiêm chỉnh thì chúng ta không thực hiện được thiền định. Vậy thì trong cuộc đời tu hành của mình thì giới luật là hàng đầu, cho nên đức Phật nói: Giới - Định - Tuệ. Giới luật là ba pháp môn tu tập, giới luật là pháp môn Tam Vô Lậu học, ba pháp môn vô lậu. Cho nên, ba pháp môn mà tu học để giúp chúng ta không còn lậu hoặc thì do đó Giới là pháp môn trong ba pháp môn. Hãy cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đó là điều kiện mà cần thiết nhất là bước vào cái giai đoạn tu sĩ của đạo Phật thì chúng ta phải giữ gìn cho nghiêm chỉnh những giới luật.
Vậy thì bây giờ, tới cái giai đoạn mà các pháp tu tập, giới luật chưa xong thì các pháp tu tập không thể xong. Nhưng, các pháp tu tập thì gồm có 37 phẩm trợ đạo của Phật, trong 37 phẩm trợ đạo của Phật thì chúng ta thấy rằng từ Định Niệm Hơi Thở, rồi Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu, Định Thư Giãn và Tứ Niệm Xứ, rồi Thân Hành Niệm tất cả phương pháp này chúng ta đều phải trải qua tập luyện.
Vậy thì bây giờ, quý vị đã được nghe Thầy nói nãy giờ thì còn những gì mà chưa hiểu, cần những gì muốn thông hiểu thì cứ thưa hỏi Thầy.
(01:00:48) Thầy Chơn Giác: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy! Chúng con nhân duyên đọc được quyển sách Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm do Thầy biên soạn và giảng dạy, qua những trang đầu của lời tựa có một đoạn Thầy đã dạy: “Thập Thiện giúp cho chúng ta không trở thành kẻ hung ác, sát nhân, trộm cướp, hiếp dâm, nhờ thế tâm hồn chúng ta không còn lo sợ tù tội thế gian và đọa vào ba đường ác”, trong đoạn này tới cuối trang có phần chú thích ba đường ác là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
Chúng con kính xin Thầy giảng dạy chúng con hiểu rõ về ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Vì từ trước tới nay chúng con khi nghe nhắc tới ba đường ác chúng con chỉ hiểu đó là Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh, kính xin Thầy từ bi giảng dạy chúng con được rõ. Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Trường lão: Bây giờ, Thầy giải thích cho nghe ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Dục giới, chữ dục tức là lòng ham muốn của mình, cho nên khi còn ở trong lòng ham muốn, mọi người còn ở trong lòng ham muốn thì đó là đang sống ở trong Dục giới.
(01:02:33) Sắc giới, là mọi người, sắc là cái hình tướng của nó, mọi người mà có hình tướng thì gọi là Sắc giới.
Cho nên, ví dụ như: Từ cỏ cây, đất, đá tất cả những gì có cái tướng…
(…) gọi là Địa Ngục.
Ngạ Quỷ là cái trạng thái đói khác ở trong ta gọi là Ngạ Quỷ. Còn Súc Sanh là cái trạng thái mà ở trong tà, Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh.
Thì như vậy, rõ ràng là Thầy có giảng ba dạng con người, nghĩa là còn mang bản chất của loài động vật chưa hẳn thoát ra làm con người. Do vậy, mà chúng ta xét chúng ta có xứng đáng làm người chưa? Và chúng ta có sống đúng Thập Thiện chưa?
Khi một con người chúng ta sống đúng Thập Thiện thì chúng ta đã luân hồi vào cái cảnh giới Thiên rồi. Cũng như bây giờ, Thầy ở trong trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự; không tham, sân, si; không ham muốn gì hết, thì đó là cảnh giới Thiên tức là luân hồi vào thế giới Chư Thiên rồi, cái trạng thái đó gọi là thế giới Chư Thiên.
(01:03:48) Rồi bây giờ, chúng ta sống trong ở trong cõi người thì trạng thái chúng ta giữ gìn năm giới có trọn vẹn không thì đó là tiêu chuẩn làm người, trạng thái giữ gìn 5 giới đó là luân hồi vào cảnh giới đó.
Bây giờ, chúng ta đang sống ở đó mà tâm chúng ta bắt đầu sân lên, có cái gì làm chúng ta giận tức là chúng ta luân hồi vào cảnh A Tu La, cái cõi giới A Tu La. Ngay liền tức khắc, bởi vì sáu nẻo luân hồi liên tục ở trong con người chúng ta.
Nếu chúng ta ở cõi Trời thì chúng ta cũng nhận ra biết được cái trạng thái mình đang ở cõi Trời, nhưng cái thời gian ở cõi Trời chúng ta thấy thanh thản, an lạc, vô sự.
Rồi bắt đầu bây giờ, chúng ta ở cõi người thì chúng ta thấy chúng ta không hề phạm một cái giới gì ở trong năm cái giới này: Không vọng ngữ, không tà dâm, không sát hại, không uống rượu… thì chúng ta sẽ thấy chúng ta ở cõi người. Nhưng rồi nó không ở đó kéo dài mà nó sẽ vào cõi giới khác, bây giờ trong khi mình đang bình thường có người đến mắng chửi mình, tâm mình sân lên liền, ngay đó là A Tu La, cái cảnh giới A Tu La.
Rồi ngay đó thì, ngay bây giờ chúng ta bình thường như thế này lát nữa thì cái thân chúng ta nó đau đớn, nó làm chúng ta đau nhức, khổ sở, rên la thì lúc bây giờ chúng ta đã luân hồi vào cõi Địa Ngục. Đó là sáu nẻo luân hồi, mà chúng ta thường xuyên luân hồi.
Rồi ngay đó thì chúng ta thấy bây giờ sao đói bụng quá muốn đi ăn, thì đó là chúng ta đang ở trong trạng thái của Ngạ Quỷ, thì nó luân hồi vào trạng thái đó chúng ta thấy đói bụng.
Cho nên, thường xuyên là có thể chúng ta luân hồi liên tục trong 6 nẻo, chứ không phải là đợi chúng ta chết rồi chúng ta mới luân hồi, không phải có cảnh giới. Cảnh giới mà chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta phải đọa xuống Địa Ngục bằng cách này, cách khác đó là cảnh giới tưởng của chúng ta thôi, chứ không phải có cảnh giới. Bởi vì, đức Phật nói là tưởng tri chứ không phải liễu tri, thì đó là không có cảnh giới đó.
(01:05:32) Cho nên tại sao, bắt đầu bây giờ chúng ta đang ngồi như thế này thì chúng ta lại thấy cái tâm mình rất ích kỷ, nhỏ mọn thì đó là chúng ta là loài chúng sanh. Cho nên, chúng ta đâu phải là con người hoàn toàn chúng ta rộng lượng hết đâu, cho nên có những người rất là ích kỹ, nhỏ mọn.
Bây giờ, mình có một cái vật gì có người khác muốn đến mượn mình, mà mình sợ hư vật của mình mình không cho, thì đó là mình nhỏ mọn. Hoặc là mình thấy một món ăn đó, mình muốn ăn món ăn đó thì mình trở thành loài chúng sanh rồi.
Mà thường thường con người chúng ta thật sự ra trong sự ăn uống, trong sự sống của họ họ tranh với nhau thì con người đó hoàn toàn họ luân hồi ở trong loài chúng sanh, chứ không phải là còn ở trong con người, con người thì không có ích kỹ, không có nhỏ mọn, không có tranh giành nhau từng cái món ăn. Chúng ta thấy những loài vật, hai con chó nó tranh nhau món ăn. Còn chúng ta bây giờ là con người chúng ta không có nên tranh cái điều đó, thế mà con người chúng ta không hiểu.
Không, Thầy nói vậy quý phật tử cứ suy ngẫm coi có phải là chúng ta luân hồi trong cái giới chúng sanh đó không? Nghĩa là chúng ta luân hồi là chúng ta phải giống cái loài chúng sanh như thế nào thì chúng ta sẽ giống như vậy. Đó, cho nên vì vậy mà khi đó sáu nẻo luân hồi chúng ta thường xuyên luân hồi.
Còn trong những cảnh giới mà chúng ta đang sống, bây giờ chúng ta có sống ở trong dục không? Có! Có dục thì đó là chúng ta đang ở trong cảnh giới dục.
Bây giờ, chúng ta đang có thân sắc của chúng ta tức là chúng ta đang ở trong cái Sắc giới.
Nhưng mà Vô Sắc giới thì ở đâu mấy con biết không? Ban đêm chúng ta nằm mộng đó là Vô Sắc giới đó, nó là cảnh giới tưởng, do tưởng uẩn. Bây giờ, Thầy nói về tưởng các con đừng có hiểu, tưởng nó có hai phần rất rõ:
(01:07:28) Ý thức tưởng, chúng ta ngồi đây mà chúng ta tưởng nhớ cái này, nhớ cái kia,… bây giờ Thầy đi mua vé số rồi Thầy cứ tưởng nghĩ rằng chiều nay là xổ số Thầy sẽ trúng, đây là Thầy tưởng ý thức tưởng chứ không phải tưởng đâu.
Còn tưởng khác nữa, bây giờ trong thân chúng ta thì đức Phật đã xác định có năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì cái Tưởng uẩn đó nó sẽ làm việc theo cái tưởng của nó. Cái tưởng uẩn của nó, nó làm việc thường thường nó câu hữu với ý thức của nó nó làm việc, để rồi chúng ta có chiêm bao, cái giấc chiêm bao của chúng ta là sáu căn chúng ta hoàn toàn nó ngưng nghỉ, cho nên nó thực hiện qua cái giấc mộng của nó, nó cũng nghe, cũng thấy mà cái nghe, cái thấy, cái hiểu biết của nó đó là cái nghe, cái hiểu biết của tưởng, chứ không phải ý thức.
Còn ý thức của chúng ta mà ý thức tưởng chúng ta vẫn dùng ý thức của chúng ta mà chúng ta tưởng ra gọi là ý thức tưởng. Tưởng cái không có mà chúng ta tưởng ra có, cái mà không trúng chúng ta tưởng ra cho nó trúng, đó là ý thức tưởng. Chúng ta phải biết phân biệt điều này.
(01:08:27) Còn cái giấc mộng của chúng ta là nó câu hữu với ý thức của chúng ta, ban ngày chúng ta muốn một cái gì đó mà nó thực hiện không được, cho nên ban đêm cái tưởng uẩn của chúng ta nó hoạt động, cái bối cảnh làm chúng ta thấy chúng ta thỏa mãn được ước muốn đó. Đó là cái tưởng của chúng ta làm, chứ còn cái ý thức chúng ta làm không được, ý thức chúng ta chỉ có tưởng thôi, ý thức tưởng chúng ta chỉ có dùng ý thức để mà tưởng ra thôi, đó là tưởng uẩn chúng ta làm ra giấc mộng chứ không phải là ý thức chúng ta làm ra, nhưng nó cộng với ý thức là vì ý thức chúng ta muốn một cái điều gì mà không thỏa mãn được, hay là nhớ thương cha mẹ mình quá thương, cho nên đêm đó nằm thấy mẹ mình, hay hoặc là thấy cha mình mặc dù ông đã mất, đó là cái tưởng của chúng ta nó giao cảm nó tạo thành những cái hình sắc đó nó làm cho chúng thấy được cha mẹ mình, đó là cái tưởng làm.
(01:09:15) Nhưng cái tưởng nó còn vi diệu hơn nữa, nó ngồi đây mà cách đây 5 năm hay là 10 năm có một người chết thắt cổ ở đây, mọi người đến đây không bao giờ thấy những cái hình ảnh đó hết, nhưng mà cái hình ảnh của người chết đó nó lưu lại trong không gian, từ trường đó nó lưu lại trong không gian, cái hình ảnh, cái âm thánh đó, tiếng thét đó còn cho nên cái tưởng uẩn nó bắt gặp, nó giao cảm nó bắt gặp. Vì vậy mà, lúc bây giờ nó bắt gặp thì cái người này nó mất bình thường, ý thức của nó không còn hoạt động nữa, cho nên nó có cái vẻ hơi khác lạ, nó nói cái lời nói giống như cái người chết đó, nghĩa là cái âm thanh nó phát ra nó nói bây giờ nó không còn bình thường của ý thức của nó điều khiển, cái âm thanh của nó bình thưởng như chúng ta nói lời nói như thế này, nhưng mà khi cái tưởng chúng ta hoạt động thì khi mà nó bắt gặp cái hình ảnh náo đó thì nó phát ra âm thanh gần giống như là tiếng nói của người chết đó. Cho nên chúng ta cứ nghĩ rằng cái người chết đó có cái linh hồn nhập cho người đó, người đó mới nói lại gọi là Đồng cốt hay là các Nhà ngoại cảm.
(01:10:13) Cho nên ở đây, chúng ta không ngờ rằng đức Phật nói trong thân ngũ uẩn chúng ta chết rồi thì ngũ uẩn nó không còn một vật gì còn lại hết, nó tan hoại hết. Cho nên, cái mà còn lại thì cái đó là cái hình ảnh lưu giữ ở trên,… hình ảnh đó nó lưu giữ ở trên từ trường ở trong không gian, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm cái hình ảnh đó nó không tan hoại. Như ngày xưa đức Phật cách đây 2545 năm, những hình ảnh đó nó còn lưu lại ở trong không gian, hôm nay có một người có trạng thái có trạng thái Tam Minh thì họ bắt gặp lại những hình ảnh ngày xưa đức Phật đang thuyết giảng, và âm thanh thuyết giảng vẫn còn trong không gian của chúng ta. Nó rất lâu, mà nó vẫn còn nó không mất. Nhưng mà cái đó là cái hình ảnh, chứ không phải là thật đức Phật đã còn như vậy đâu, cái hình ảnh nó lưu lại.
(01:11:00) Cho nên ở đây, chúng ta nên nhớ rằng cái thế giới mà đức Phật gọi là thế giới 33 cõi trời đó là cái thế giới tưởng, tưởng tri chứ không phải liễu tri, bị vì danh từ này thật ra thì người ta rất khó hiểu. Cho nên, có người giải thích về cái tưởng tri, là người ta mới có ghi nhận thôi, còn cái liễu tri là cái mình đọc thấy rõ người ta hiểu như vậy sai. Tưởng tri có nghĩa là cái đó tưởng, mà ở đây chúng ta thấy đức Phật cho rằng cái thế giới hữu hình của chúng ta là cái thế giới tưởng, chúng ta có thân, có nhà, có cửa đức Phật vẫn cho nó là thế giới tưởng, tại sao? Chúng ta tưởng nó là có thật, nghĩa là bây giờ ai cũng cho nó là chắc rằng có thật, có thân tôi nè, có tâm tôi nè, có nhà tôi nè, có cha tôi nè, có mẹ tôi nè, có con tôi nè,… ai cũng chấp nó là thật, nhưng mà sự thật nó không có thật.
Nó do duyên hợp mà thành, cũng như cái bàn này muốn có cái bàn này thì phải lấy ván, lấy đinh này kia kết nó lại nó thành cái bàn. Cái nhà này nó phải có tôn, có thiết, có cây này kia… ghép lại mới dựng lên làm cái nhà, thì cái nhà là do cái duyên nó hợp lại thành. Cho nên, đức Phật nhìn qua cái thế giới hữu hình chúng ta là cái thế giới tưởng thật chứ không phải thật, mặc dù chúng ta thấy mình có thân, có này kia thật, nhưng mà sự thật nó đâu có thật, nó do duyên hợp mà thành.
Cho nên, với cái đôi mắt của đức Phật thì nó là cái tưởng, thế mà nó còn một cái hình ảnh, một cái giả thứ hai nữa là cái hình bóng của cái thế giới hữu hình này nè, cái thế giới tưởng này là cái đầu tiên là bị tưởng mà chúng ta cứ ngỡ nó thật, cho nên chúng ta bị lầm lạc một lần là ở trong cái thế giới mà hiện chúng ta đang thấy có nhà, có cửa, có mình nè chúng ta đã lầm một lần là chúng ta nghĩ nó có thật. Cho nên, chúng ta cứ dính mắc ai động đến mình mình giận, mình hờn, mình phiền não. Làm cái gì cũng lo tích lũy vào cho nó, cho đó là cái có thật, nhà này của tôi tức là có thật, đất này là của tôi có thật, cho nên cái này là cái sai của chúng ta. Cho nên, đó là tưởng chứ không phải thật đâu.
(01:13:05) Bây giờ, cái hình ảnh đó nó lại thải ra không gian, nó giữ hình ảnh đó trên không gian, rồi bắt đầu bây giờ có một cái gì đó bắt gặp những hình ảnh đó chúng ta gọi đó là thế giới siêu hình, thế giới linh hồn con người. Thì đó là chúng ta lại sai một lần nữa rồi, nghĩa là cái thế giới của chúng ta đã là không thật rồi, thì những cái hình ảnh của cái thế giới của chúng ta nó lưu giữ ở trong không gian, như bây giờ Thầy đưa cánh tay nó lưu giữ ở trong không gian, rồi bây giờ có một người nào đó bắt được cái hình ảnh mà đưa cánh tay của Thầy thì nói đây là cái thế giới siêu hình, cái ông đó ông đưa tay đó. Thì như vậy, quý vị đã thấy rõ ràng là chúng ta đã tưởng một lần thứ hai nữa rồi, cái hình bóng.
Bây giờ, đem một cái ví dụ cho thấy một cái băng video người ta thu lại những hình ảnh của đào kép nó hát cách đây là 10 năm rồi, bây giờ chúng ta mở lên chúng ta thấy nó đánh đấu đá ở trong đó, rồi nó khóc, nó than, nó rên la chúng ta nói đây là thế giới linh hồn ở trong đó sao? Có đúng không? Nó làm thành sự thật ra một cái thế giới, thế giới linh hồn.
Do đó, mà Thầy cố gắng bởi vì mình biết rõ cho nên mình cố gắng mình nói ra để cho người ta đừng có chấp cái thế giới linh hồn là có thật, 33 cõi trời đức Phật nói thế giới tưởng. Nghĩa là đã có những cõi trời mà ngày xưa đạo Bà La Môn đã xây dựng nó, ông Phật lại bác sạch xuống. Như hồi nãy bài kinh Sonadanda, đức Phật đã bác sạch, từ đẹp trai 32 tướng tốt mà chúng ta thấy trong kinh Đại thừa thường ca ngợi Phật là 32 tướng tốt chứ gì, nhưng mà kinh Nguyên Thủy đức Phật bác sạch 32 tướng tốt. Rồi tụng niệm đức Phật cũng bác luôn và dòng giống cũng bác luôn, tức giai cấp cũng bác luôn không bao giờ đạo Phật có giai cấp, chỉ có người tu chưa chứng mà giữ giới nghiêm túc thì gọi là Hiền giả, người tu chứng đạo gọi là Thánh giả hay là Trưởng lão.
Trong đạo Phật chỉ có hai cái giai cấp, nhưng mà sự ra nói giai cấp thì không đúng, là vì người mới tu và người tu lâu mà thôi, người tu chứng là người tu lâu, mà người mới tu là người mới bắt đầu vào giữ giới. Cho nên, mới bước đầu vào tu theo đạo Phật giới luật nghiêm chỉnh gọi là Hiền giả, còn người tu lâu mà chứng đạo có Tam Minh hẳn hòi, chứng quả A La Hán - Vô Lậu đó gọi là Trưởng lão hay là Thánh giả, đó là bậc Thánh rồi.
(01:15:25) Cho nên ở đây, nó rõ ràng là đạo Phật không có giai cấp, không có chia ra nhiều mà chỉ có cái chỗ tu chứng hay là không tu chứng thôi. Mà chỗ không tu chứng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì vẫn xem người đó là bậc Hiền giả. Cho nên, ở trong kinh sách chúng ta nghe cái danh từ gọi là Hiền giả Xá Lợi Phất hay Hiền giả, vị tu sĩ này gọi vị tu sĩ kia đó, gọi là Hiền giả, Hiền giả Xá Lợi Phất, Hiền giả Mục Kiền Liên hay hoặc là Thánh giả, thì tất cả chỉ cho những bậc tu chứng hoặc là tu chưa chứng mà thôi. Trong để mà chỉ, nhưng mà giới luật người ta phải nghiêm chỉnh, cho nên mới được dùng những danh từ đó.
Cho nên, đối với đạo Phật khi mà chúng ta xưng hô với nhau chúng ta phải biết cách xưng hô, một vị tu chứng chúng ta có thể gọi Trưởng lão hay là Thánh giả, một vị tu chưa chứng mà giới luật nghiêm chỉnh chúng ta gọi là Hiền giả, thưa Hiền giả. Còn một vị tu chứng thì chúng ta thưa Thánh giả hay hoặc thưa Trưởng lão, nghĩa là đạo Phật chỉ có giai cấp đó thôi chứ không có gọi là Thượng tọa, Hòa thượng gì hết.
Theo Thầy thấy ngày xưa không có gọi Hòa thượng Xá Lợi Phất hay hoặc là Hòa thượng Mục Kiền Liên Thầy đâu có nghe danh từ đó, mà nghe Hiền giả hoặc là Trưởng lão, Trưởng lão Xá Lợi Phất, Trưởng lão Mục Kiền Liên danh từ đó Thầy có thấy trong kinh sách Nguyên Thủy. Phải không? Ai có đọc thì thấy cái điều đó rất rõ chứ không có gọi Hòa thượng.
Hòa thượng đây là những cái giới phẩm để mà tôn xưng cho một vị tu hành như thế nào đó, nhưng mà bây giờ Thầy thấy Hòa thượng vẫn phạm giới, cho nên cái danh từ Hòa thượng nó không còn giá trị nữa, mà danh từ Trưởng lão nó mới còn giá trị tại vị người tu chứng mới gọi Trưởng lão. Mà bây giờ, cái người tu chứng chưa có cho nên vì vậy mà không có ai mà gọi Trưởng lão. Chứ không phải Trưởng lão là một cái ông già, không phải đâu, một cái người tu chứng. Dù một chú Sa Di mới 8, 9 tuổi, 10, 12 tuổi mà đã tu chứng vẫn gọi Trưởng lão, chứ không phải đợi già mới gọi Trưởng lão, chúng ta nghe chữ lão là tưởng ông già chứ không phải đâu, là một bậc đã tu chứng.
Đó, thì ba nẻo sáu đường chúng ta luôn thường xuyên luân hồi ở trong đó mà chúng ta tưởng là đợi mình chết rồi mới luân hồi ở trong sáu nẻo đó, không phải đâu. Đó là cõi tưởng, tưởng ra chứ còn sự thật không có điều đó.
Cho nên, kinh sách tưởng nó dạy chúng ta hiểu lầm lạc, chứ sự thật ra đức Phật muốn dạy chúng ta một cái trạng thái đó tâm của chúng ta, nó đang ở trong trạng thái đó đau khổ hay là hạnh phúc hay là an vui, an lạc thì nó là luân hồi vào những cái…
(01:18:01) Vì vậy mà, Vô Sắc giới thì như hồi nãy Thầy giải thích cho biết thì đó là thế giới tưởng của chúng ta, nó Vô Sắc giới. Cho nên nó không có hình ảnh, nó không có gì hết, nó thực tế và cụ thể. Còn những thứ khác thì coi chừng nó lầm lạc. Bởi vì, cái thế giới tưởng của chúng ta nó rất rõ ràng và cụ thể, rõ ràng là khi nằm chiêm bao là chúng ta đã rơi vào cái thế giới tưởng. Một người mà nhập Nhị thiền, Nhị thiền tức là diệt tầm tứ, diệt tầm tứ tức là diệt sáu căn…
(…) Có những con bò ở gần đó thế mà hỏi đức Phật, đức Phật có nghe gì, đức Phật không nghe tiếng con gì hết. Tức là trong khi mà không nghe…
(…) Tứ thiền là như thế nào quý vị biết không? Tứ thiền là hơi thở hoàn toàn ngưng bặt không còn thở nữa, cơ thể ngồi bất động đó như một cục đá không còn hoạt động chút nào, không còn rung động chút nào hết, cho nên muốn nhập Tứ thiền…
(…) báu thân. Không, đức Phật nhập tới Tứ thiền mà bỏ báu thân.
Đó thì chúng ta thấy những bài kinh mai là nó còn để lại cho chúng ta biết được, xác định được cái phương pháp nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết rõ ràng và cụ thể. Và cách thức phải tu tập, luyện tập như thế nào thì cái Pháp Như Lý Tác Ý là cái pháp tuyệt vời nhất ở trong các phương pháp, để tạo thành một cái nội lực, nội lực tu tập của chúng ta.
Đó, bây giờ thầy Chơn Giác còn hỏi Thầy gì nữa không?
(01:19:25) Thầy Chơn Giác: Nam mô bổn sư thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch thầy! Trong những bài giảng hoặc kinh sách khi nói đến nhân quả thiện ác, Thầy thường dạy chúng con sinh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và ra đi cũng từ nhân quả. Chúng con đến với đạo Phật luôn luôn lúc nào cũng có niềm tin về nhân quả. Hôm nay, trong vấn đề liên quan đến bài học về nhân quả thiện ác, chúng con xin Thầy hoan hỉ giảng dạy chúng con việc tái sanh luân hồi hay đầu thai.v.v.
Theo khoa học hiện nay việc sinh ra một con người là sự giao hợp giữa nam và nữ sau 9 tháng 10 ngày là sinh con. Ngày nay, họ còn tiến bộ hơn là có khả năng thụ tinh trong ống nghiệm.v.v. còn trên lĩnh vực về Tôn giáo của đạo Phật về việc nhân quả tái sanh luân hồi Thầy có giảng cho chúng con về bốn cách nhập thai.
Thứ nhất, người phàm phu nhập thai không biết mình nhập thai trong bụng mẹ, không biết mình trụ trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ hai, người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác định họ có đủ sức thức tỉnh, sau khi chết đi họ biết mình nhập thai trong bụng mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ ba, người tu tập Định Vô Lậu tâm tỉnh thức rất cao và Ngũ Triền Cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ, an trú trong bụng mẹ, nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ tư, người đã ly dục, ly bất thiện pháp thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ và biết mình ra khỏi bụng mẹ.
(01:21:26) Như vậy, là khi một con người khi tắt hơi thở cuối cùng và do nhân quả liền nhập thai nơi nào đó, mà do nhân quả mình đã tạo (. . .). Trong khi đó, có một số thầy, cô và cả tài liệu họ cũng giảng dạy người vừa chết ở nơi này là đã sanh về nơi khác do nghiệp lực luân hồi. Nhưng có một điểm dẫn chứng việc tái sanh chúng con nghe thật là mâu thuẫn. Họ giảng, ví dụ có một sản phụ đang chuyển bụng chờ sanh, họ đau đớn cùng cực kéo dài hàng mấy tiếng đồng hồ là vì họ phải chờ một cái nhân của một con người nào đó đang trên giường bệnh hấp hối đau đớn, cùng cực cũng kéo dài mấy tiếng đồng hồ như vậy đến khi tắt hơi mới nhập cho người sản phụ, lúc đó người sản phụ mới sanh được. Kính bạch Thầy, như vậy có đúng không?
Kính thưa Thầy, rồi họ còn luận tiếp về cả ngày giờ sanh, cả người chết và khi tái sanh rất trùng hợp.v.v. kính xin được Thầy từ bi giảng dạy cho chúng con!
Trưởng lão: Vấn đề mà luận của các Ngài đó là sai, tại sao sai?
Bởi vì, chúng ta không một cái Thần thức, một ý nghĩ chúng ta nó thải ra không gian, thiện ác. Rồi bây giờ, tới cái miệng của chúng ta nó lại phát ra cái lời nói của nó, cái lời nói của nó lại phóng ra cái từ trường trong không gian, nếu mà là thiện đẩy ác. Thì cái từ trường đó vẫn là từ trường thiện ác gọi là nghiệp lực của chúng ta.
(01:23:05) Bây giờ cái thân của chúng ta, cái hành động của chúng ta đánh ở trên đầu người ta, đánh người ta hay hoặc là chúng ta giết người ta, hay cầm cái dao cắt cổ con gà, hay hoặc là đập đầu con cá để mà giết để làm thịt…
của nó, để mà nó hợp bởi vì đức Phật nói thân chúng ta sinh ra là do duyên hợp, các duyên hợp lại. Cho nên, bây giờ nó do một cái duyên này tương ưng mà nó hợp lại với tinh trùng cha và noãn châu của mẹ, bởi vì hai cái phần này là hai cái phần vật chất, mà cái phần kia nó là từ trường là nó thuộc về cái tinh thần nó vô hình, phải không?
Cho nên, khi đó nó tương ưng là nó ở bất kỳ ở trong không gian này, nơi nào chớ không phải nó đi. Bởi vì, nó thải ra nó nằm ở trong không gian nó tương ưng, cái thiện với ác nó tương ưng, nó ở trong không gian này nó tương ưng với người cha, mẹ đó, cái người đó nó có cái bản chất tham, sân, si cũng như những cái từ trường của mình đã thải ra.
Do đó, khi đó nó tương ưng thì lúc bây giờ nó hợp thì nó sẽ thành, nó đủ duyên nó hợp khi cái người này chết thì tất cả những cái từ trường này nó hợp lại với những duyên khác, tức là như Thầy nói từ cái tinh trùng, noãn châu nó hợp lại thì nó mới thành một đứa bé nằm ngay ở trong bụng mẹ của nó. Liền ngay đó đã là, khi đức Phật nói Thập nhị nhân duyên, chúng ta nghe nói: “Vô minh sanh Hành, Hành sanh Thức”. Nghĩa là Vô minh như thế nào? Do Vô minh của hai vợ chồng của người này vô minh, không thấy được cái nẻo sanh tử luân hồi, cho nên vì vậy mà hai người mới giao hợp. Phải không? Đó là Hành, Hành là giao hợp chứ gì. Mà giao hợp thì nó sanh cái Thức. Thì do đó nó tương ưng, ngay đó hai chất của người nam và người nữ tức là tinh trùng và noãn châu nó hợp lại, và đồng thời nó tương ưng với cái nhân quả chúng ta chết. Phải không? Do đó nó hợp lại, do những cái duyên này nó hợp lại ngay đó thì nó đã có một cái mầm của một cái con người chúng ta rồi.
Mà cái mầm này…
HẾT BĂNG