(18:26) Đạo đức thứ hai là cái giới cấm, đức Phật cấm không tham lam, trộm cắp. Tham lam, trộm cắp nghĩa là của không cho mình lấy. Người mất của thì khổ đau, còn người lấy của thì vui mừng. Nhưng mà về rồi thì ăn tiêu chút thì hết. Phải không? Nó cũng đâu còn! Bởi vì của đó là của để ngoài cổng, cho nên nó dễ bị mất.
Cho nên, cái của mà tham lam, trộm cắp, người ta tham lam rất dễ bị ở tù, của cải, tài sản bị nhà nước tịch thu. Cho nên chúng ta nghe những người rất giàu, nhưng mà cuối cùng thì bị tù. Còn những người tu mà, tuy nghèo nhưng mà rất được an ổn. Bởi vì, những cái gian xảo tức là tâm tham lam không có, không lấy của không cho.
Cũng như bây giờ Thầy làm giám đốc nè, mà mỗi một cái chú, một công nhân mà làm trong cái xưởng của Thầy, Thầy chỉ trả lương họ thay vì một triệu, Thầy chỉ trả họ tám trăm thôi. Phải không? Thầy ăn cướp cái công của họ hai trăm thôi. Nhưng mà một ngàn công nhân vậy, Thầy giàu không? Giàu chứ. Một tháng dư Thầy giàu chứ. Cho nên họ cứ trả lương cho công nhân rất rẻ mà họ làm giàu rất dễ.
Họ giàu đó để làm gì? Quý vị Phật tử biết không? Họ cũng đi nhậu, họ ăn chơi đây đó cũng tiêu hết không bao giờ có. Họ còn phong kiến nữa, nghĩa là đi kiếm vợ bé về, họ làm cho vợ con ghen tuông nữa. Tiền bạc nó nhiều, nó sai tầm bậy.
Cho nên do đó, bóc lột người này để sử dụng cho cá nhân của mình thì mình cũng phải (…) Cuối cùng cái ông này, đều là ông giám đốc đều là bị đi tù, bị bắt. Phải không? Đó là do cái tham lam, là tâm tham.
(20:00) Cho nên, đạo Phật dạy chúng ta không tham lam, của ngoài đường nhất định không lượm. Của người ta, để người ta rớt đó lát nữa người ta trở lại người ta lượm. Mình cứ nghĩ là người này không lượm thì người khác cũng lượm. Thôi, mình lượm bỏ túi chắc ăn hơn. Phải không?
Bây giờ của đó mà mình không lượm thì người khác người ta cũng lượm, thôi mình lượm bỏ túi mình. Thì như vậy là không được. Người nào lượm thì tội người ta chịu, còn riêng mình, nhất định là không lượm. Như vậy mới thật sự là đệ tử của Phật, mới thọ cái giới đó chứ.
Cho nên, khi mà đức Phật dạy cho chúng ta cái giới không tham lam, trộm cắp, cấm không được lấy của không cho. Người ta cho mà thấy người ta nghèo, thì mình phải tìm cách nào mà trả lại người ta. Bởi vì người ta nghĩ người ta thương mình, người ta giúp mình trong khi hoạn nạn. Mà mình thấy rằng, người ta giúp mình vừa đủ với cái chỗ mình thiếu hụt thôi. Chứ mình không nên lấy toàn bộ cái số tiền như vậy.
Chẳng hạn bây giờ Thầy thiếu nợ. Bây giờ, Phật tử cúng dường tiền nhiều quá (…) bây giờ quý Phật tử cúng dường hai tỷ, Thầy bỏ túi Thầy (…) để nó về nó cúng nữa (…) Thầy ở trong chùa cũng tham như thường, chớ đâu phải.
Cho nên, cuối cùng Thầy cất cái chùa quá đẹp. Hỏi tiền đâu? Nói tiền người ta cúng dường, chứ không dám nói tiền in kinh sách. Nói tiền người ta in kinh sách, Phật tử cúng dường tiền in kinh sách sao cất chùa? Họ có chịu không? Phải không?
Do đó, khi mà vừa đủ rồi, tuyên bố là tôi đã trả nợ xong rồi. Rồi bắt đầu bây giờ Phật tử cúng dường in kinh sách thì in kinh nào, nói cho rõ. Để rồi chúng ta tiếp tục chúng ta làm đâu nó ra đó. Chứ không khéo chúng ta (…)
Thầy là Thầy dạy cái sáng suốt để nhận định.
Ông thầy hư là do vật chất nhiều, ông thầy hư là do tiền nhiều. Cho nên nó sẽ sai khiến ông thầy. Nếu mà ông thầy tu chưa chứng thì nó sẽ sai khiến ông thầy, ông thầy sẽ làm tất cả mọi cái được. Bởi vì không có ông nào mà điên. Họ sẽ phục vụ cá nhân của họ, cái thân của họ (…) bởi vì họ còn dục lạc.
(22:09) Cho nên ở đây, cái ông thầy mới tu hành (…) Tu riết lâu một thời gian sau thì lại có đủ thứ hết thì thật sự ông thầy này chưa tới đâu, ổng bị nhiễm rồi. Cho nên (…) mà chúng ta biết cái sai và cái đúng nghĩa. Cho nên, giới luật là cái căn bản, gò bó họ trong cái khuôn khổ, không được (…), biết được cái gì tốt, cái gì xấu để theo giới luật.
Bởi vậy không tham lam tức là buông xả mấy con. Cái người không tham lam, buông xả, luôn buông xả, cần lao. Cái đức đó là đức buông xả. Cái đức không tham lam là đức buông xả, biết buông xả. Còn cái người mà tham lam là người không biết buông xả. Cái gì họ cũng huân, góp nhặt vào cho họ. Họ làm phục vụ cho họ. Nhưng mà họ nói hay lắm, họ nói cho xã hội, họ nói cho mọi người. Sự thật họ đang góp nhặt. Đó là một cái sai.
Tu ở đây, tu giới không lấy của không cho, cái giới tham lam, trộm cắp này đức Phật cấm chúng ta không làm điều đó. Nhưng cái đức của nó là đức buông xả. Mà cái người buông xả là cái người không tham lam.
Nghĩa là Thầy xả Thầy còn ba y một bát, Thầy còn tham lam làm gì? Thầy xả, Thầy không có nhà cửa, không có gia đình. Thầy còn cần chi, Thầy còn cất chi một cái chùa? Thầy còn làm chi cái phòng sang đẹp làm gì nữa? Thân của mình rốt cuộc rồi cũng nằm dưới đất, người ta cũng chôn, người ta cũng đốt rồi có gì đâu mà nghĩ nó còn. Cho nên đó là đức buông xả.
Một người tu sĩ của Phật giáo là buông xả. Các con nghe đức Phật nói như thế này. Một vị tu sĩ thì phải “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa”. Áo cà sa (…) đẹp lắm. Chứ áo cà sa của đức Phật xấu lắm mấy con, vải thây ma mà gột kết lại từng miếng. Mà vải thây ma ngày xưa nó không có tốt đẹp gì hết, nó thưa lắm. Nó như cái rây vậy. Phải không?
Các con, vải tám vải gì ngày xưa, thì bây giờ vải này vải thây ma, họ (…) tốt lắm. Vải bây giờ để mà mà bảo quấn cái thây ma, nếu mà được vải bây giờ, người ta tu thì cũng tốt lắm. Mà Thầy lượm, kể như là Thầy cũng mừng nữa. Còn cái vải hồi xưa nó rất xấu, nó thưa, nó thô, vải ta đó.
(24:09) Cho nên ngày xưa đức Phật mặc cái y đó gọi là y phấn tảo. Thầy nói thật lòng, bây giờ mà còn Thầy mặc vậy cũng tốt rồi. Thầy nói thật sự, Thầy không ham mặc cái này, nó mang nợ nhiều, mặc cái đó nó ít nợ.
Cho nên trong khi đó, một cái người mà “đắp áo cà sa, xuất gia sống không gia đình, không nhà cửa, ba y một bát, thiểu dục tri túc. Đời sống tinh thần phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc”, đó chính là một vị tu sỹ. Không nhà cửa, nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác. Mà có ở một chỗ đi nữa, cũng chòi tranh vách lá mà thôi.
Các con thấy Thầy có chòi tranh, vách lá không không? Thầy ở cái nhà tường kia kìa, tốt lắm chứ gì? Nhưng mà sự thật không phải nhà Thầy ở đâu, nhà của máy ở, cái máy vi tính Thầy ở trỏng, Thầy chỉ là một người ở tạm để mà làm công việc với nó mà thôi.
Nó chẳng qua, có một người nói với Thầy như thế này, Thầy xin nhắc lại, họ nói ngày xưa ông Phật có được ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên. Còn Thầy bây giờ, mấy đệ tử của Thầy mà như ông Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, mà con nghĩ Thầy có ông Xá Lợi Phất làm đủ công việc cho Thầy hết, đó là cái máy vi tính của thầy.
Bây giờ nó, ngày xưa ông Xá Lợi Phất ông thuyết giảng cho chúng tu tập, bây giờ cái máy vi tính của Thầy nó thuyết giảng bài này, bài khác cho Phật tử. Có đúng không? Mấy con đọc kinh sách của Thầy có phải là ông Xá Lợi Phất bằng cái máy vi tính của Thầy không? Nó làm ra những cái trang sách chứ Thầy có làm được không? Phải không? Bây giờ nó làm ông Xá Lợi Phất của Thầy chứ Thầy có ông Xá Lợi Phất chỗ nào nữa đâu. Phải không? Phải đúng không?
Cái ông này ổng đến đây, ông nhìn cái phòng của Thầy làm việc, ổng nói, ông Xá Lợi Phất ông ngồi đây mà ổng làm việc với Thầy để mà hướng dẫn cho chúng tu học. Phải không? Cái máy cũng là một cái người, nó làm những cái chuyện. Đó, thì hôm nay Thầy mới nhắc như vậy.
Còn một cái ông mà thần thông, mà Mục Kiền Liên đó, thì thật sự cái máy vi tính nó cũng thần thông ghê gớm lắm đó. Chứ không phải là không thần thông đâu. Nó dám nói chuyện với các con ở bên Tây phương đó. Phải không? Bên Mỹ đó! Không, Thầy nói đúng mà, đó là thần thông, đó là ông Mục Kiền Liên đó. Chứ không phải không đâu.
(26:08) Cho nên, nó có đủ thần thông, mà nó có đủ trí tuệ để nó làm việc, để nó giúp cho mọi người hiểu biết được chánh pháp. Như vậy, rõ ràng là trong cái thời đại mà nếu không có máy vi tính thì chắc chắn là một mình Thầy, thì không có ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên. Mà hiện giờ Thầy có ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên. Có không?
Bởi vì, cái ông này nói với Thầy như thế này này, ngày xưa, nói về vấn đề mà tu Phật đó, thì người nào cũng có ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên hết chứ không phải ông Phật Thích Ca không. Ông Phật Thích Ca cũng có hai người đại đệ tử. Còn Thầy bây giờ, con nhìn trước nhìn sau thì không thấy, nhưng mà con thấy Thầy có hai ông này. Cho nên làm công việc này rất cần (…).
Cái ông này ổng nói như vậy, Thầy thấy rằng ông tưởng tượng cũng có hơi đúng. Nhưng mà đây là tưởng thôi. Nhưng mà sự thật, dùng những cái máy này giúp đỡ để phổ biến và (…) chân lý của Phật (…).
Bây giờ Thầy trở về vấn đề là cái giới mà cấm, không tham lam, trộm cắp, tức là đức buông xả, nhưng mà luôn luôn chúng ta cần lao mấy con. Chúng ta ở trong vị trí nào mà làm ra được tiền bạc thì mấy con hãy cố gắng mà làm. Làm cho lương thiện, làm giúp cho những người bất hạnh. Những người bất hạnh là do nhân quả ác của họ, họ sanh ra trong cuộc đời này (…) Chúng ta hãy an ủi những người đó.
Mà chúng ta an ủi những người đó, chúng ta sống bằng đạo đức của chúng ta, làm cho họ trở về với đạo đức, làm cho họ sống đúng đạo đức để cho nhân quả họ được tốt hơn. Đó thì chúng ta hãy cố gắng, không tham lam của ai.
Nhưng chúng ta phải siêng năng, đứng ở trong vị trí của chúng ta làm ra tiền bằng cách lương thiện. Đừng làm tiền có nhiều cái mà người ta làm khổ người khác, còn làm tiền có nhiều cái mà không làm khổ người thì chúng ta hãy làm.
Nếu chúng ta thấy gia đình của mình được yên vui, hạnh phúc mà còn những người bất hạnh, thì chúng ta hãy giúp những người bất hạnh. Mặc dù đó là phước hữu lậu, nhưng chúng ta an ủi được mọi người để giúp cho cái hành tinh, cái sự sống ở trên hành tinh chúng ta có một sự an ủi với nhau. Vì vậy mà mọi người nghèo khổ đó họ hiểu rằng họ không có bị bỏ rơi, còn có những người tốt khác.
Đó là điều mà chúng ta cần phải hiểu. Chứ không lẽ bây giờ mình vô cảm, họ chết thì họ chết, không cần giúp cho ai hết, ai chết thì chết, mặc ai, thì điều đó không phải. Đó thì là một người đệ tử của Phật, thì chúng ta phải sáng suốt những cái việc này.