(18:16) Trưởng lão: Thầy nói giữ, đó bây giờ thì các con thấy yên tâm rồi, thấy hiểu biết rồi. Thì ráng lo tu, chứ đừng có cứ mở băng, cứ đọc kinh sách Thầy hoài thì nó cũng không có gì đâu. Thầy nói thực ra thì chỉ là mình giải trí mua vui vậy thôi để nó an ủi cái tánh mình, trong khi đó mình thấy mình buồn buồn. Mình buồn chừng nào, tu luôn chừng ấy, chứ đừng có đọc, đừng có nghe, nói thực sự ra ba cái băng này dẹp hết đi. Cho nên Thầy khi giảng sáu mươi mấy cuộn băng rồi, Giáo án tu tập của Phật giáo cho nó làm sống lại rồi thì Thầy không giảng nữa. Thầy giảng nữa đây Thầy là đào kép, cứ hát nó thu âm nó nghe hoài.
Các con đã hiểu rồi thì bây giờ chỉ còn cứu mình, thắp đuốc lên mà đi, còn ba cái này thì thôi lỉnh kỉnh lắm, bỏ xuống. Sách vở Thầy đọc để hiểu, hiểu rồi dẹp hết, không đọc nữa. Nắm gọn được cái gì tu trước, cái gì tu sau. Cho nên Thầy nói thực sự ra, nếu mà cái người nào tin Thầy, đừng có thèm kinh sách gì hết, lại đây Thầy dạy bây giờ ra lệnh nè, ngồi xuống ra lệnh đứng dậy nè, ra lệnh hít thở này, ra lệnh đi nè. Cứ như vậy làm vậy đi. Rồi Thầy dạy tới dạy tới chắc chắn là chắc ăn rồi. Còn bây giờ đọc kinh sách cho nhiều rồi, Thầy hay quá, cái này là tuyệt diệu, đủ thứ hết. Nó làm cho trong bụng này một bụng, cuối cùng không biết cái pháp nào tu hết. Có phải không mấy con?
Bây giờ thì mấy con phải ráng tập. Rồi ngày mai buổi sáng 7 giờ gặp Thầy, rồi Thầy sẽ dạy về pháp Tứ Niệm Xứ. Thầy dạy cho cách thức biết tu pháp Tứ Niệm Xứ. Để rồi lúc nào mà tu Tứ Niệm Xứ đâu phải mình về. Cũng như bây giờ con về gia đình của mình; mình sống ở trong nhà của mình, thì mình tu pháp nào, rồi bắt đầu cái giờ phút nào, giờ nào mình tu. Chứ đâu phải con tập nó để rồi sau khi nó có đủ duyên, mình mới khép chặt mình trong cái khuôn khổ, một tháng, nửa tháng nào đó, mình thực hiện Tứ Niệm Xứ, tức là như con gà ấp trứng á, hoàn toàn ra con sẽ được nở hết.
Phật tử: Mô Phật! Con cảm ơn Thầy.
(20:13) Trưởng lão: Thì mấy con nhớ lời Thầy dạy thì ráng tập đi, về tập cái này cho thuần. Rồi Thầy sẽ giảng từ cái pháp hướng nó sẽ đi vào, từ cái giai đoạn nào mình nương vào cái Pháp hướng nào. Chứ còn mình chưa có tỉnh thức, mình lo mình hướng những cái tâm ly tham, sân, si. Sức tỉnh thức nó chưa có đủ để mà nó tiếp nhận các ác pháp bên ngoài để nó ly tham, sân, si. Chưa nổi đâu. Cho nên mình cần tập tỉnh thức trước đã. Tập tỉnh thức tức là mình tập mình phá cho được cái buồn ngủ của mình, các con hiểu không? Phá cho được cái buồn ngủ hôn trầm rồi, bắt đầu bây giờ mới có câu: “Tâm như cục đất, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã”.
Rồi nó mới biết nhiếp phục theo chứ còn bây giờ nó chưa có tỉnh thức, nó còn gục tới gục lui đây mà, biểu nó ly tham, sân si sao được? Nó ngu quá mà, làm sao nó ly! Phải không, các con hiểu không? Tu nó phải vậy. Mình phải ly cái si của mình ra, thì mình mới tham với sân nó mới diệt được, chứ còn si nó còn thì tham, sân nó làm sao diệt được. Cho nên tu tập phải có từng bước, cũng như lớp Một mình phải học cho hết rồi đến lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn. Còn đây Lớp Một chưa rồi muốn lên Lớp Ba, lớp Bốn. Nhưng mà đại khái chúng ta phải biết rằng, chúng ta có những thì giờ mà chúng ta có thể học thêm, học thêm để chuẩn bị cho mình bước lên cái lớp khác, mà mình có căn bản chứ gì.
Đó là những cái học thêm, học thêm mà thì nó đâu phải là cái chuyên môn của chúng ta học tại cái lớp đó đâu. Bây giờ Thầy phải học thêm cái gì cái gì để sau này Thầy lên cái Lớp Hai này đỡ Thầy được bao nhiêu chuyện. Coi như là ông Thầy giáo, ông cho cái bài đó. Thầy là học trò giỏi. Thôi xá Thầy thôi! Con còn hỏi gì nữa con? Hết rồi hả con. Rồi…
(21:54) Mà ở trong Bát Chánh Đạo á, gọi là Chánh Niệm, này có thể quan trọng bởi vì nó còn cái nẻo thứ bảy và một cái nẻo thứ mười là Chánh Định. Thì Chánh Niệm là cái phương pháp dùng để cho người tu sĩ tu, chứ không phải cho người cư sĩ. Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp rất là tuyệt vời người tu sĩ còn nếu mà người cư sĩ mà không biết tu á vào trong thất chừng ba bữa là cái pháp đó nó cũng đuổi đi ra chứ không cho ở. Cho nên cái pháp mà Tứ Niệm Xứ là một cái người phải “im lặng như Thánh” mới tu được, cái người mà không im lặng như Thánh…
Cho nên các con nhớ kỹ những cái điều mà quan trọng. Nếu mình là tu sĩ tu pháp Tứ Niệm Xứ tức là Chánh Niệm, còn nếu là cư sĩ á, chúng ta có những giờ tu hay chứ không phải không tu Tứ Niệm Xứ được. Nghĩa là chúng ta không tu liên tục hằng ngày, suốt ngày được hoặc là ngày này qua ngày khác được. Nhưng chúng ta có giờ tu. Ví dụ như buổi khuya, buổi tối trong gia đình yên tĩnh.
(23:13) Tất cả những cái hoàn cảnh thuận tiện, trong cái cảnh yên tĩnh. Còn trong những cái cảnh động á thì chúng ta luôn …. Cho nên khi mà hiểu được những cái cách thức và phương pháp tu nó đúng, đúng cái thời của nó, thì nó mới có kết quả. Còn mình hiểu pháp mà tu không đúng thời, và không đúng cái đối tượng tu nữa. Cái thời tu ví dụ như giờ ở giữa chợ mà đem Tứ Niệm Xứ tu thì chắc không được rồi. Cho nên vì vậy ở giữa chợ thì chúng ta chỉ có tu Tứ Chánh Cần là tốt nhất, cho nên nó hợp với cái pháp đó, chứ không hợp với cái pháp kia được. Mà Tứ Chánh Cần mà đem vô rừng thanh vắng một mình ngồi tu á thì tu cũng không được. Nó cũng sai pháp rồi. Cái thời của, cái thời gian mà tu nó phải hợp.
Cho nên hôm nay Thầy nói như vậy thì các con biết cái phương pháp, áp dụng pháp môn của Phật phải đúng cách, đúng thời. Cho nên đức Phật nói mình tu tập đúng thời thì có kết quả, mà không đúng thời thì không kết quả. Cho nên đúng thời của Phật muốn nói là áp dụng đúng với hoàn cảnh mình.
(24:18) Vậy thì hôm nay các con sẽ học cái pháp mà Thầy dạy là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ nó có bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nhưng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật dạy là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Bây giờ chúng ta học cái pháp đó rồi, chúng ta quan sát lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình.
Cho nên Đức Phật nói: "Trên Thân quán Thân” trên cái Thân của Pháp mà đức Phật dạy, mình hiểu cái Thân của Pháp này là khổ, là vô thường. Bây giờ đó, mình quán lại cái thân của mình, quán lại cái thân của mình xem coi nó có phải là khổ thật vậy không? Nó có phải là vô thường không? Khi mình đem nó ra mình quán xét mình thấy pháp Tứ Niệm Xứ nó nói rất đúng. Rất đúng cái Thân Thọ Tâm Pháp của mình, không có chỗ nào sai hết. Vậy thì từ đây mình mới ôm, mình mới nương vào bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình đây, mà mình nương vào cái pháp, pháp Tứ Niệm Xứ, cái pháp Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Phật dạy á để quan sát trên bốn cái chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình. Rồi hàng ngày hàng giờ, hàng phút, hàng giây không có biếng trễ được, nghĩa là phải là Chánh Tinh Tấn, luôn phải là tinh tấn, siêng năng luôn luôn quan sát lại bốn chỗ này.
Mà hễ thấy nó có một cái chướng ngại pháp nào á chúng ta mau mau đẩy lui nó, không có cho nó ở lại trên bốn chỗ này. Chỉ vậy thôi. Đó là Tứ Niệm Xứ. Chứ không phải ngồi đây mà Quán Bất Tịnh, ngồi đây mà quán Xương Trắng, ngồi đây mà quán thân sình trương hôi thối. Hoặc Quán cái này, Quán cái kia. Không phải đâu.
(25:54) Bởi vì trong cái bài Tứ Niệm Xứ của Phật nó có gồm chung cho nên bài nó không có cụ thể, nó làm cho chúng ta rất khó hiểu. Đức Phật bảo mình Quán Bất Tịnh thì nó cũng nằm trong bài Tứ Niệm Xứ; bảo Quán bất tịnh rồi Quán hơi thở, đủ thứ hết, rồi Quán Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, Thân Hành Niệm, đều là nó đã dạy tùm lum trong đó rồi, đều gọi là Tứ Niệm Xứ.
Cho nên người ta đọc Tứ Niệm Xứ, người ta không hiểu. Thực sự ra, thì trong khi đó, trước khi mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã trở thành một con người rất là thanh tịnh, cái thô nó không còn nữa, cái tâm tham dục, tham ái nó không còn nữa. Chứ bây giờ nếu như mà cái tâm chúng ta còn tham ái, mà ngồi đó Quán Bất Tịnh thì làm sao mà chúng ta ở đây chúng ta quét sạch những chướng ngại nho nhỏ trên thân của chúng ta ra được. Cho nên Tứ Niệm Xứ không phải là cái chỗ mà để cho các người mà còn thô, mà còn tâm tham ăn, tham uống, tham vui, tham dục lạc, tham xe cộ, tham chùa to, Phật lớn mà tu Tứ Niệm Xứ được.
Cho nên quán gì cũng không được hết. Mà đây là cái tâm của chúng ta đã hoàn toàn thanh tịnh, cái thô đã hết rồi, nó còn cái vi tế lăn tăn, nhỏ trong tâm chúng ta thôi. Cho nên chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ. Coi như là cái thời khoá tu tập của đức Phật là cái thời khoá để dạy cho người ta tu chứng chứ không phải là…. Không phải ngồi đó mà Quán Bất Tịnh nữa. Mà đây gọi là quét, quét những cái rác rến ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nó đang bị nhiễm. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
(27:24) Như vậy Tứ Niệm Xứ là lúc nào mà người cư sĩ như các con mà muốn tu thì lúc đó là khuya, một - hai giờ khuya, trong gia đình ai cũng ngủ hết rồi, chỉ có mình thức dậy, rồi mình mới tập thể thao cho cơ thể giãn gân, giãn cốt, cho nó tươi tỉnh, nó không còn buồn ngủ nữa, nó không còn lười biếng nữa. Lúc bây giờ thấy nó tỉnh táo xong rồi, bắt đầu chúng ta mới vào, ngồi kiết già hoặc ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế, rồi chúng ta tập quan sát bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của chúng ta.
Thứ nhất chúng ta quán thân, quán thân chúng ta xem xét từ trên đầu chúng ta tới dưới cái chân, coi nó có cái gì còn cái chướng ngại pháp gì ở trên cái thân không? Nếu không có thì chúng ta tiếp tục chúng ta quán Thân, Thọ, bây giờ cái Thọ của cái Thân có không? Nãy mình quan sát từ đầu tới chân rồi không thấy có cái gì hết, không thấy có một cái vật gì. Bây giờ ví dụ như bây giờ mình quan sát từ ở trên thân của mình tới dưới chân, mình không thấy một cái chướng ngại nào hết.
Bây giờ, mình mặc cái áo rách, bây giờ gió nó lạnh, thì tức là cái áo gió nó bắt buộc mình hoặc là mình mặc cái áo ngắn, hay hoặc là mình ở trần đi, mình không có mặc áo. Thì mình quan sát từ ở trên này thấy, kỳ này mình tu Tứ Niệm Xứ là mình nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh chứ không thể nào mặc áo thun, mặc cái áo ngắn hoặc là ở trần mà ngồi quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, như vậy là thiếu đức hạnh, thiếu đức hạnh ăn mặc. Bởi vì trong giới luật của Phật có dạy đạo đức về ăn mặc mà. Mình phải ăn mặc kín đáo. Trong khi mình ngồi tu như vậy, thân tâm mình thanh tịnh, tức là mình phải ăn mặc thanh tịnh chứ không thể nào như một võ sĩ mà vận công, hay vận nội công hoặc là khí công bằng cách ở trần để mà gồng, để mà vận công. Như vậy mình là một võ sĩ chứ không phải một tu sĩ đạo Phật.
Người tu sĩ đạo Phật, khi quan sát thấy như thế này mặc cái áo này là mình thấy không hợp rồi, thân mình phải mặc cái này không hợp, thôi bây giờ mình mặc cái áo kín đáo. Cái áo đơn giản như cái bình thường, như cái áo vạt mĩa của mấy con như cái áo bà ba vậy nhưng dứt khoát đừng để hở hang, tức là mình tránh những cái gió lạnh này kia. Do đó mình quan sát, thấy lạnh thì mình mặc đàng hoàng, ăn mặc đàng hoàng. Vô mình ngồi lại, mình quan sát từ trên đầu chí xuống, thấy như vậy là được rồi. Mà giờ nghe gió nó thổi lạnh, do đó mình lấy cái khăn mình quấn lên cổ, hoặc lấy cái nón mình đội lên đầu cho nó ấm áp, đàng hoàng. Mình quan sát, mình thấy cái sự thiếu, thiếu ở trên cái thân của mình.
Cho nên do đó gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Thấy không? Cái hành động làm như vậy nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ chứ gì. Bảo vệ được cái thân của mình nó không bị chướng ngại pháp. Chứ lát đây mình ngồi đây cái gió lạnh quá, chạy đi xách cái nón thì như vậy là mình bị động nhiều rồi. Cho nên mình chuẩn bị được cái thân của mình cho nó yên ổn, thanh thản được, không có bị động. Cho nên gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Bây giờ trên Thân, quán Thân rồi, rồi bây giờ Thân nó đã yên rồi, áo y đồ này kia ăn mặc đàng hoàng rồi, nghiêm chỉnh rồi. Bây giờ mới Quán cái Thọ xem nó có cái Thọ như nào, có đau có nhức chỗ chân này, đau nhức chỗ kia, mỏi chỗ nọ không, hoàn toàn không có Thọ. Thấy không?
(30:40) Rồi bắt đầu bây giờ mình quán xét cái Tâm. Mình biết được Thân, Thọ, Tâm mà. Bây giờ tới cái Tâm, quán xét cái Tâm coi nãy giờ mình đã tác ý ra hay hoặc là nó tự phóng ra. Nãy giờ mình hoàn toàn mình chủ động mình tác ý ra để mình quan sát, thì đây là đúng, mà nãy giờ tự động nó phóng ra cái niệm này phóng ra, thì cái Tâm này nó còn phóng dật. Tự nó, nó phóng ra, như vậy là sai. Như vậy mình phải cảnh giác….
Cho nên vì vậy mình phải nỗ lực ngăn ác, diệt ác hơn nữa. Nghĩa là mình tiếp duyên ban ngày, bây giờ mình ngồi lại có hay lăng xăng nè. Phải không? Bởi vì cái người cư sĩ mà còn tiếp duyên, mà giờ mình tu Tứ Niệm Xứ, thì đâu có yên được cho mình. Bây giờ tu sĩ cũng chưa chắc yên nữa. Cho nên nó lăng xăng. Vì vậy mình thấy cái tâm của mình nó lăng xăng như vậy, như vậy hằng ngày là sống tiếp duyên với các pháp cần phải ngăn ác diệt ác rốt ráo hơn nữa. Vì vậy cho nên quan sát rồi mình thấy nhắc cái tâm từ đây về sau phải nỗ lực tu Tứ Chánh Cần nhiều hơn. Nhắc nó như vậy để cho nó nhớ.
Rồi kế đó mình tiếp tục mình quan sát thấy cái Tâm của mình, khi mình biết nó phóng thì nó không phóng nữa. Bắt đầu bây giờ mình mới nhắc nó, cái Tâm mà nếu muốn không phóng ra nữa thì cái Tâm phải định vô hơi thở. Bởi vì nó có chỗ nó định. Mình kêu nó: "Cái tâm phải định vô hơi thở". Bắt đầu mình dặn nó: "Tâm phải định vô hơi thở, nhớ kỹ nha". Bắt đầu mình bảo nó định trên hơi thở của nó định. Thì không phải bây giờ như mình ngồi mình tu Định Niệm Hơi Thở mình nhắc nó, biết hơi thở ra, hơi thở vô rồi. Bây giờ mình ngồi đó mình biết. Không phải đâu, bắt đầu mình lại nhắc nó rồi, mình không có chú ý hơi thở đâu.
(32:13) Bây giờ mình quan sát các Pháp, bây giờ các pháp cái nhà nè có tiếng gió không nè? Tất cả các âm thanh, sắc tướng gì bên ngoài nè, có có ai làm động không? Nghe mọi người im ngủ ngáy khò, im phăng phắc, lặng lẽ là như vậy tốt. Các pháp không làm động mình nữa rồi.
Như vậy các pháp đều rất tốt không có tiếng động lớn, không có tiếng động nhỏ, hoàn toàn là giúp cho mình yên tĩnh. Như vậy các pháp này không có xâm chiếm mình rồi. Do đó, chứ bây giờ khi mình đương ngồi mà nghe hát radio, hát ti vi, nó la um sùm. Thì tức là mình bị các pháp đánh mình rồi. Thôi bây giờ mình không ngồi trên Tứ Niệm Xứ được mà mình ngồi chơi để mà tu Tứ Chánh Cần để mà ngăn ác, diệt ác. Không có gì khó. Tu Tứ Niệm Xứ khi mình quan sát nó không có tiếng động, nó không có, nó yên tĩnh.
(33:11) Rồi bây giờ đó, thì khi bắt đầu bây giờ đó mình nhắc lại một lần nữa: "Tâm phải định lại hơi thở". Khi mình quan sát các pháp nó không làm động mình nữa, tức là không làm chướng ngại trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình rồi. Do đó mình mới nhắc: "Tâm định trên hơi thở đi", bắt đầu bây giờ mình mới thở ra thở vô. Thì trong khi đó thở ra, thở vô, mình độ chừng, chứ không đếm. Độ chừng khoảng thời gian hoặc 10 hoặc là 5 hoặc là 20 hơi thở để cho nó yên tĩnh. Nhưng mà phải nhớ, nhớ nhắc bây giờ quan sát trở lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp để xem coi.
Rồi bắt đầu bây giờ mình cũng quan sát cái thân của mình từ đầu chí cuối, rồi cái Thân mình thấy hoàn toàn yên lặng, rồi bắt đầu bây giờ mình vừa quan sát thì nó có Thọ và Thân ở đó nó một lượt. Nếu có cái Thọ con muỗi cắn, hoặc con kiến cắn, hoặc con vật gì, nó làm cho chúng ta đau nhức hoặc ngứa ngáy gì đó thì nó hiện ra liền. Vì khi mà quan sát tới nó thì nó sẽ thấy được những cái vi tế ở trong thân của chúng ta. Ngay liền, ngay liền nó có những chướng ngại pháp đó, chúng ta quán. Bắt đầu mở ra một cái mặt trận, mặt trận tức là cái mặt trận Định Vô Lậu, quán xét coi nó lậu hoặc gì? Dục Lậu, hữu Lậu, vô minh Lậu. Khi mà quán xét những lậu hoặc đó, chúng ta đã biết được cái này là hữu Lậu, cái này là vô minh Lậu. Rồi cái gì là nhân quả, cái gì là không nhân quả, cái gì là duyên hợp, cái gì không duyên hợp.
Chúng ta thông suốt được cái lý này rồi, chúng ta đẩy lui nó bằng cách nào? Nếu Thọ thì đẩy lui theo kiểu Thọ. Mà bây giờ nó lỡ nó bị đau nhức cái đầu hoặc là nhức cái tay. Thì cái Thọ nó nằm ở trong thân nó bệnh, nó đau nhức, chúng ta phải dùng pháp hướng mà đẩy lui. Rồi bắt đầu chúng ta gọi cái tâm tập trung, tức là định vào hơi thở, khi mà cái tâm nó bám vào hơi thở thì cái Thọ nó sẽ đẩy lui đi.
(34:46) Nghĩa là chúng ta có cái mục đích là cách ly khỏi cái Thọ. Cái Tâm với cái Thọ nó rời nhau, bằng cách nó trụ vào cái chỗ khác. Và đồng thời cái pháp hướng ra lệnh cho Thọ rời khỏi Thân, cái Thân của nó hay là cái Tâm của nó để hoàn toàn nó được trở về sự thanh thản an lạc và vô sự của nó. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ, cho nên nó rất khoẻ, người biết tu Tứ Niệm Xứ rồi, suốt 1 ngày 1 đêm người ta ngồi, người ta giữ bốn chỗ này thanh tịnh, người ta quét. Nếu mà mình chịu khó mà quét, Thầy nói thực sự trong 7 ngày là chúng ta đã chứng đạo. Nó không có khó, bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là sẽ sung mãn, nó làm cho tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp rất trọn vẹn và đầy đủ. Siêng năng hằng ngày siêng năng tập luyện thì trong cái thời gian rất ngắn để chúng ta chứng được đạo quả giải thoát hoàn toàn.
Cho nên đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ là 7 ngày, 7 tháng, 7 năm thì nó sẽ viên mãn, nó sẽ thành tựu. Mà đúng cái lời đức Phật nói. Nghĩa là Đức Phật nói 7 ngày chứ không có nghĩa là 7 ngày, bây giờ chúng ta ngồi tu mà tới chiều, tới sáng ngày hôm nay. Nội mà ở trong cái vòng thời gian là 7 ngày. Một ngày hoặc hai ngày, ba ngày là chúng ta thành tựu, chứ đâu phải bảy ngày mới đúng, mới giải thoát được sao, mới chứng đạo được sao. Nó chỉ trong cái thời gian đó có chuyên cần hay không chuyên cần thôi.
Mà chuyên cần mà suốt cái thời gian 24 tiếng đồng hồ hoàn toàn không có một cái chướng ngại gì mà xảy ra trên thân của nó được hết, thì lúc bấy giờ là nó là chứng đạo, chớ không phải gì. Cho nên vì vậy đâu phải mình tu tới bảy ngày, chỉ cần 24 tiếng đồng hồ là chúng ta tập đủ là chúng ta sẽ chứng đạo.
(36:23) Mà nếu mà trong suốt bảy ngày mà chúng ta vẫn còn bị chướng ngại pháp trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp đó thì chúng ta sẽ tiếp tục, tiếp tục tu nữa, thì không có nghĩa là 7 tháng mà chỉ cần có 15 ngày hoặc là 1 tháng là chúng ta đã xong. Chớ đâu phải là phải căn cứ vào tu phải 7 tháng mới được đâu. Mà nếu suốt bảy tháng mà chúng ta chưa làm xong, thì cái người này có tệ nhất đi nữa là phải bảy năm. Nhưng mà đâu có nghĩa là bảo phải đúng bảy năm mới thành tựu. Nhưng có thể một năm hay chín mười tháng. Một năm nó hơn cái số 7 tháng thì nó cũng có thể thành tựu. Đó là cái điều đức Phật đưa ra điều kiện để mà chúng ta thấy. Nhưng mà chúng ta có tệ nào đi nữa, bảy năm là quá sức tưởng tượng rồi, quá lâu rồi. Vậy mà người ta tu bây giờ hai ba chục năm mà chưa làm chủ mà vẫn tu, mà vẫn hi vọng. Thiệt là nuôi hy vọng ảo.
Bởi vì cái thời gian xác định của đức Phật có bảy năm à. Nghĩa là tối đa chúng ta bỏ ra bảy năm. Thế mà có vị Tổ tu hai chục năm, ba chục năm. Như ngài Diệu Cao Phong phải tu ba chục năm. Mà ba chục năm không biết là đúng không nữa. Thực sự ra cái tu của ngài là tu tưởng rồi đâu có chắc gì đúng. Bởi vì ngài đâu có làm chủ sinh già bệnh chết được. Ngài đâu có thực hiện được Tam Minh, cho nên đâu có chắc gì ngài đã được, phải ba chục năm trời tu như vậy. Ngài Đại An phải mười hai năm mới gọi là kiến tánh thành Phật, mười hai năm ông mới kiến tánh không, thực ra Thầy chỉ dạy một chút xíu thì quý thầy đã kiến tánh liền tức khắc. Thấy được cái Tâm biết đó. Nhưng mà cái tâm tham, sân, si, chúng ta còn.
Cho nên vì vậy sự thực ra tu thì rất vất vả cực khổ. Cuối cùng thì trở về. Còn cái này, đằng này chúng ta tu, thực sự ra nếu mà chúng ta giữ gìn được cái tâm mình thanh thản, an lạc vô sự như vậy. Ly tham, sân, si thì tham, sân, si phải hết chứ. Thì tham, sân, si hết tức là giải thoát chứ còn gì nữa. Chứ đòi cái gì nữa? Đòi cái gì nữa? Bây giờ Thầy có đòi Thiền Định gì đâu. Mà Thiền Định ngay chỗ cái tâm không tham, sân, si chứ đâu phải định ngoài tham, sân, si mà được. Tâm tham, sân, si ly hết rồi, Thiền Định ngay tại đó. Cho nên nó quá đơn giản, quá dễ, và cái thời gian đâu có phải kéo dài tới mấy chục năm. Bảy năm là tối đa, nhưng mà bảy năm đó thực sự ra Thầy nói cái người đó vô chắc chơi, chứ không phải tu.
(38:41) Chứ còn thiệt tu, thiệt quyết tu thì dốt đặc như ông Bàn Đặc, học chẳng biết cái gì hết. Ông dốt ông học câu kệ hoài bốn câu kệ mà không thuộc, thiệt là ông tối thật tối. Thế mà Phật dạy ông Tứ Niệm Xứ, tức là ông ngồi ông quét tâm chứ gì. Các con đọc đến cái bài kinh mà nói về ông Bàn Đặc, thực sự ra khi ông quét sạch cái tâm ông không phóng dật nữa tới chừng đó người ta thỉnh mọi thầy, mọi vị Tỳ kheo đi với Phật đi thọ trai, còn ông ấy là người tu không ra gì, có ai thèm mời ông ăn đâu.
Cho nên ông ở lại cái khu rừng đó. Hôm đó thì ông quét sạch tâm ông rồi, cho nên ai cũng đi vắng hết. Ông ra lệnh thân ông biến ra cả ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng. Nhưng mà chỉ có ông Phật, ông (Phật) đi thọ trai là ông (Phật) biết thôi. Cho nên ông (Phật) mới bảo với ông chủ nhà đó: "Gia chủ hãy đến rừng, kêu ông Bàn Đặc đến đây thọ trai, nói đức Phật mời". Cái ông chủ nhà, ông mới đến khu rừng chỗ đức Phật ở, sao mà dòm sao chỗ nào cũng có một ông cái mặt giống nhau, cái ông vị Tỳ kheo giống nhau cứ ở dưới gốc cây, ngồi đầy rừng hết trơn, biết ông nào là ông Bàn Đặc mà kêu.
Cho nên ông này mới trở về nói với Phật: "Bây giờ con vào cái khu rừng đó thấy, tu sĩ ngồi đặc hết, gốc cây nào cũng có hết. Như vậy biết kêu ông nào giờ". Đức Phật mới nói: "Bây giờ gọi tên: "Ông nào là ông Bàn Đặc ôm bát đi xuống thọ trai, đức Phật mời". Thì ngay đó, cái ông nào mà đi ra khỏi rừng thì ông hướng dẫn ông ấy về đây". Thì lúc bấy giờ ông ta đến cái đầu rừng ông ta đứng kêu: "Vị Tỳ kheo nào là Bàn Đặc thì đức Phật mời đi thọ trai." Thì tất cả những ông Bàn Đặc đều mất hết, chỉ còn có một ông ôm bình bát đi ra.
(40:22) Đó thấy như vậy rõ ràng cái năng lực của người ta khi quét sạch cái tâm tham, sân, si rồi thì nó có năng lực màu nhiệm, một thân biến ra hàng vạn thân mà. Thế mà sao chúng ta không tu. Để cái tâm tham, sân, si này nó khổ chứ làm gì? Thôi bây giờ giả dụ bây giờ ông Bàn Đặc ông ấy tu được như vậy đó, nói thôi bây giờ để mình, mình ra lệnh cho cái khu rừng này có một cái chùa đẹp nhất đẹp hơn các lâu đài vua Chúa, làm được không?
Các con thấy cái năng lực đó nó làm hơn cái gì nữa chứ đừng nói. Phải không? Cho nên vì vậy đó, cái khả năng đó có thể làm được tất cả hết. Tại sao chúng ta không tu mà chúng ta cứ ôm ấp cái tâm tham, sân, si mà nó trôi lăn ở trong lục đạo? Bởi vì cái tham, sân, si nó còn thì nó phải còn cái nghiệp của nó, nó phải đi tái sanh luân hồi. Nó làm cho chúng ta khổ đau mà cái pháp rất tuyệt vời, ngồi đây để mà xả những cái vi tế của tâm mình đến hết tham, sân, si chứ đâu phải là xả cái gì. Bởi vì nó chướng ngại là có tham, sân, si chứ.
(41:15) Mà nó không chướng ngại. Bây giờ con muỗi, nó cắn ở đây, mà biết ngứa là chướng ngại. Mà chướng ngại là do có tham, sân, si, chứ không tham, sân, si làm sao ngứa. Vậy thì phải xả tham, sân, si ra, thì xả cái ngứa ra thì nó sẽ hết chứ có gì đâu. Như vậy rõ ràng là chúng ta đã biết phải xả ra hết. Tới con muỗi mà nó còn ghét, nó cắn mình là vay nợ nhân quả như thế nào rồi.
Cho nên một người tu người ta ngồi một đống, muỗi nó không lại cắn là tại vì người ta hết nhân quả rồi, có nợ nó đâu mà nó đòi. Còn mình thử ngồi thử coi. Mấy con cứ ngồi đi, nhân quả nó còn hay hết là mấy con biết liền. Hết sao mà muỗi bu nó đòi máu mấy con. Đòi nợ máu đó. Phải không? Các con thấy rất rõ mà, chứ nếu là các con hết nợ rồi thì làm sao mà nó lại nó đòi. Tự nhiên cái từ trường của các con mà cái thiện, nó bảo vệ các con. Bởi vì đức Phật nói giới luật là Thần hộ mạng của chúng ta mà. Cho nên thiện pháp nó bảo vệ các con, cái từ trường bảo vệ, làm sao nó có cái nghiệp gì của ai mà đến đây đòi nợ nó được nữa. Phải không? Nó nợ nhân quả mà, rõ ràng mình ngồi đây, muỗi cắn tôi, rồi nói con muỗi cắn chứ không ngờ nó là con nợ của mình nó lại nó đòi nợ máu mình đó. Nó chích mình dù một chút máu đi nữa cũng là nợ máu. Nợ máu sao? mình ăn thịt nó, biết bao nhiêu máu người ta, mình ăn trong bụng mình, bây giờ trả nợ chút xíu mà mình rên à. Cha chút xíu cái la ngứa. Ta lấy có chút xíu.
Mà nhiều con như vậy, nó đòi nợ máu mình có bao nhiêu đâu. Rồi phải dùng cái này, dùng cái kia để tạo những nhân quả, giết hại nó thêm, để tạo cho cái nhân quả ác thêm, chứ làm gì? Có phải không các con nào là dùng thuốc, dùng này kia đủ thứ để ngừa con muỗi, để giết con muỗi vậy, không ngờ là tạo nhân quả ác. Không ngờ là con muỗi là hiện thân để đi đòi nợ máu của chúng ta. Đó bây giờ Thầy nói để mà thấy rõ, khi nào các con có đôi mắt nhân quả, suốt rõ cái đường đi của nhân quả, các con sẽ thấy chúng ta là những người vay nợ của nhân quả. Mỗi mỗi đều có vay nợ.
Nếu mà chúng ta sống toàn thiện, thì chúng ta chuyển hết nhân quả thì không có ai đòi nợ mình nữa thì không có con kiến lại cắn mình. Mình hết nợ rồi, nó đâu có lại nó đòi. Tự cái từ trường của mình, nó làm cho con kiến không đến đó cắn được mình. Từ trường thiện mà, nó có cái sự bảo vệ của từ trường đó. Cho nên vì vậy một người sống đúng giới luật nghiêm chỉnh thì nó sống hoàn toàn an ổn, không có một cái pháp trần nào mà có thể xâm chiếm họ được.
Cho nên Thầy nói cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định, cái từ trường nó bao bọc như cái lồng kiếng, mưa không ướt, nắng không nóng họ. Nó làm như có một cái lồng để che. Cho nên đời nay, Thầy nói dễ gì có người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mấy ông nói chuyện đâu phải chuyện dễ đâu, chuyện người ta có một từ trường như vậy như một cái lồng kính giữ gìn cái nhục thân của người ta ở trong này thì mấy ông phải biết làm gì mà có bụi bặm dính trong người ta được, làm gì có mưa gió mà huỷ hoại cơ thể của người ta được, giữ gìn ngàn đời nó không hư hoại hết. Nhưng mà đây là cái trò ảo thuật thôi. Như vậy mà nó còn màu nhiệm như vậy. Huống hồ là cái Tâm chúng ta hết tham, sân, si là nó đạt mục đích của chúng ta đạt rồi. Chúng ta đâu có cần cái thứ đó. Đó là cái trò ảo thuật để cho người ta biết sự màu nhiệm của đạo Phật như vậy đó. Cái lực nó như vậy đó. Chúng ta không phải vì đó mà chúng ta ham.
Mà vì cái mục đích giải thoát, vì cái sự làm chủ, chấm dứt luân hồi, nó không còn mang cái thân khổ đau này nữa. Đây là mục đích của đạo Phật. Chúng ta không ham Thần thông. Thầy muốn nói Thần thông để rồi Thầy bác Thầy thông là vì mục đích đó. Để không, chúng ta cứ chăm chú vào cái thần thông đó. Thấy nó huyền diệu, mầu nhiệm nhưng mà sự thực cái huyền diệu mầu nhiệm chỉ là cái ảo, trò ảo thuật. Còn cái chính của chúng ta là làm sao cái tâm chúng ta hết tham, sân, si nè? Làm sao chúng ta ly dục, ly ác pháp nè để cho chúng ta bất động trước các pháp trước các cám dỗ của dục lạc thế gian thì đó là chúng ta giải thoát.
Mà giải thoát rồi, thì tức là cái tâm của chúng ta ở chỗ nào, chúng ta biết. Nghĩa là chết chúng ta biết đường chúng ta về, sống chúng ta cũng biết đường chúng ta về. Còn bây giờ chúng ta chưa tới đó thì chúng ta thấy, nghe Thầy nói "Thanh Thản An Lạc Vô Sự" nhưng mà nó có chỉ một chút rồi nó mất. Còn người ta sống hằng ngày người ta sống ở trong đó hoài hoài, người ta sống trong đó, người ta không có mất cái chỗ đó. Cái Niết Bàn của người ta, cái thường hằng, vĩnh viễn đó. Tâm nó không tham, sân, si thì nó phải có trạng thái không tham, sân, si chứ.
(45:16) Trạng thái không tham, sân, si thì trạng thái không nghiệp lực thì nó đâu có làm sao mà tái sanh luân hồi được. Cho nên chúng ta chấm dứt luân hồi. Mà chấm dứt khổ đau ngay liền, chúng ta ở trong trạng thái đó là chấm dứt khổ đau rồi, không còn giận hờn, phiền não gì nữa. Không ai làm gì mình được.
(45:38) Bởi vì khi nào mà chúng ta sống đúng nghiêm chỉnh, giới luật hẳn hòi, đàng hoàng rồi. Thì bắt đầu chúng ta mới kiểm nghiệm từng phút, trước các ác pháp, tâm chúng ta bất động. Người ta chửi mắng, mình không có giận hờn, phiền não, không tham, sân, si nữa. Mình thấy rằng là mình đã ly dục, ly ác pháp. Bấy giờ cho nên ác pháp không có tác động mình nữa. Thấy không?
Cho nên do vì vậy đó, thì chúng ta biết rõ ràng, thì bây giờ chúng ta mới ngồi lại, chúng ta để cho cái tâm nó tự động nó ở trên hơi thở, mà chỉ có quyền nhắc chứ không có được tập trung. Mình không có tập trung trên hơi thở nữa, mà chỉ có quyền nhắc. Bây giờ chúng ta quan sát trên từng Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta xong rồi, bây giờ chúng ta nhắc: "Cái tâm định trên hơi thở". Rồi bắt đầu mình nhắc, cái tâm nó sẽ biết hơi thở ra, vô. Trải qua thời gian mình tu Định Niệm Hơi Thở tức là mình tu hít thở 5 hơi thở đi kinh hành, từ mình nhắc: "Thở ra tôi biết tôi thở ra, hít vô tôi biết tôi hít vô", hoặc "Tôi thở tôi biết tôi đang thở", cái sự tu tập của các con đã thuần quen với hơi thở cho nên khi mà nhắc nó, khi quan sát Thân- Thọ -Tâm- Pháp xong rồi bắt đầu mình nhắc: "Tâm phải định vô hơi thở, đừng có phóng dật ra bên ngoài", do đó bây giờ mới thấy nó biết hơi thở ra vô. Để tự nó biết chứ không có gom vô như hồi mình mới tu 5 hơi thở đi kinh hành, là phải gom cái tâm vô cái hơi thở. Còn bây giờ thì không gom chỉ nhắc, rồi tự động để cho nó biết, chớ không có. Bởi vậy khi mình nhắc vậy thì tự nó, nó định trên hơi thở.
Cho nên mình chỉ cần coi như mình là một người đứng để xem coi cái tâm của mình nó định hơi thở, chứ không phải là mình ngồi đó mà mình ôm ấp nó hoặc là tập trung gom cái tâm của mình vô hơi thở. Mà mình chỉ đứng quan sát để coi nó, cái tâm của mình nó quay vô hơi thở thôi. Coi như là mình người thứ ba để đứng coi tâm nó quay vô hơi thở. Hơi thở là cái đối tượng của cái tâm, coi thử coi nó có định lên không. Mình đứng đây mình xem thôi chứ mình không có tập trung
Phật tử: Vậy là chỉ xem hơi thở ra vào ạ?
(47:34) Trưởng lão: Chỉ xem hơi thở ra vào không có gom tâm trong tụ điểm. Gom tâm vô tụ điểm là khi chúng ta còn tu Định Niệm Hơi Thở, còn tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta sẽ tập trung gom lại còn bây giờ không có gom lại, mà chỉ nhắc nó rồi chúng ta chỉ quan sát coi thử coi nó có thở không đó. Nó thở nặng, thở nhẹ, thở chậm, thở dài, thì kệ nó, không có cần phải thở cho nó có vận dụng để cho nó tập trung. Không có, không có vận dụng bất cứ cái gì hết. Hơi thở sao cứ để vậy rồi coi thử coi cái Tâm của nó sao, có biết hơi thở không? Mình biết, tu một thời gian sau mình sẽ thấy mình đứng mình xem hơi thở, mình xem cái tâm nó bám vô hơi thở không? Hoặc là…
Bởi vì Thầy nói thực sự ra khi mình luyện rồi nó có một người thứ ba với mình. Bây giờ mình hướng tâm: "Tâm như cục đất", thì mai kia mốt nọ có sự kiện xảy ra thì thực sự ra ở trong tâm mình nó nhắc liền: "Tâm như cục đất", khi có chuyện tức giận là bắt đầu nó nhắc ra liền. Thì đó là mình đã tạo được người thứ hai của mình, ngoài mình ra nó còn có người thứ hai tức là người Niệm Xứ rồi.
Cho nên vì vậy khi mà tu Tứ Niệm Xứ, thì ngay đó mình nhắc, cái lệnh của mình nhắc thì mình chỉ nhắc nó là cái lệnh của mình là người chỉ huy rồi thì mình thử coi cái tâm có quay vô không. Thì mình thấy rõ ràng, cái tâm nó quay vô, nó biết hơi thở, cho nên mình không có tập trung, không có gì hết. Nó nhẹ nhàng ghê gớm lắm. Thầy nói thực sự ra tu đến đây là phần vi tế rồi.
Cho nên vì vậy nó không phải còn tập trung như các sư, các Thầy mà tu tập. Nó quá thô rồi, nó không phải đâu, ở đây nó khác. Tới cái giai đoạn của cái tâm nó tự nhiên. Rồi bây giờ nó tự nhiên như vậy, nhưng nó chưa hẳn hoàn toàn là nó kéo dài được, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc. Bây giờ khi mà nó đưa như vậy, không phải là chúng ta cứ để cho nó vậy hoài, mà chúng ta phải tác ý ra. Bây giờ phải quan sát lại Thân, thọ, tâm, pháp coi có chướng ngại không? Chứ không khéo cứ để cho nó biết hơi thở thì cái xúc tưởng hỷ lạc nó sẽ xuất hiện ra liền. Nó xuất hiện ra thì mình cảm giác ra như nó an ổn, chứ sự thực ra mình không có ý thức ở trên Thân- Thọ- Tâm- Pháp của mình.
Mà mục đích của Tứ Niệm Xứ là mình dùng ý thức, tức là Chánh Niệm mà, cái ý Chánh Niệm trên đó, chứ có phải là cái Tưởng ra đâu. Cho nên vì vậy, mình cứ ngồi yên lặng, nó tưởng. Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta lại nhắc: "Cái tâm bây giờ phải quay trở lại" nghĩa là lìa hơi thở đó, "phải quay trở lại quan sát Thân- Thọ- Tâm- Pháp" của mình nữa.
Bây giờ nó bắt đầu quay lại nó quan sát y như vậy lần lượt, lần lượt cho đến Pháp xong rồi, bắt đầu nó ra lệnh, tự nhiên nó phản xạ một cách, khi mà tu nó quen rồi, nó ra lệnh nó nhắc "Tâm định lên hơi thở liền", bắt đầu thì cứ mình quan sát Tâm nó quay vô nó biết hơi thở ra vô, cái hơi thở của mình. Khi mình nhắc rồi, thì cái hơi thở nhẹ chậm như thế nào, thì cái tâm bắt đầu nó quay vô, thì nó vẫn thấy biết như thường.
(50:13) Còn mình ra lệnh thì mình thấy cái lệnh của mình hoàn toàn nó đứng ở ngoài góc độ quan sát. Cho nên cái lệnh đó là lệnh của Pháp Như Lý Tác Ý, cái đạo lực của Pháp Như Lý. Mà mình tu tập được đến cái người thứ Ba ngoài đối tượng của Tâm, với Tâm rồi. Tức là cái người thứ Ba đó là đạo lực của mình. Khi nào nó hiện ra cái đạo lực nó mới đúng. Còn chưa có đạo lực là người phải tu tập Tứ Chánh Cần rất nhiều, chứ tu lơ mơ không được.
Cho nên vì vậy nhớ, là cư sĩ các con luôn luôn lúc nào những buổi tối trong gia đình mình, buổi tối thì nó sinh hoạt thì có hát ti vi, này kia. Chỉ có buổi khuya là tốt nhất cho quý vị tu. Không lẽ mình bây giờ mình lại còn ham ngủ nữa sao. Cho nên các con nhớ Thầy dặn con, khi nào về vợ con tối ngủ rồi kệ nó. Khuya mình ngủ chừng ít tiếng đồng hồ, thức dậy lúc đó khuya hai, ba giờ cũng được miễn là mình thức dậy mình tập cho nó tỉnh táo cho nó đàng hoàng. Rồi bắt đầu vô ngồi quyết định là ngồi tu một giờ Tứ Niệm Xứ. Rồi tu rồi đi ngủ, không cần nữa. Mà tu một giờ thôi rồi đi ngủ, mà tu rồi đi ngủ khoẻ lắm. Mà trước khi đi ngủ phải nhắc nó: "Tâm ngủ không có chiêm bao, mộng mị gì hết, ngủ cho ngon, ngủ cho tốt, ngày mai làm việc nữa".
Cứ như vậy, rồi ban ngày sống ngăn ác, diệt ác; ban đêm tu Tứ Niệm Xứ. Rồi tới lúc tự cái tâm nó quay vô rồi, thì bất kỳ ở nơi đâu cũng phải về đây hết để Thầy dạy nhập Định. Chứ còn Tâm nó quay vô, biết hơi thở ra vô mà không có về đây thì kể như là không biết các phương pháp hướng tâm để nhập các Định. Không phải là, giai đoạn này là giai đoạn tu Tứ Như Ý Túc. Bốn cái Như Ý của mình. Lúc bấy Thầy mới dạy cách thức tu Tứ Như Ý Túc.
Chứ bây giờ mình hướng bậy thì không được à, mình hướng bậy tới chừng đó nó đi lạc rồi vô đó không được. Ví dụ bây giờ mình thấy nó được vậy mình nhắc "Tịnh chỉ hơi thở đi. Vô đi", trong khi đó nó tịnh chỉ bất tử đó, mình không có thở nữa, bà con người ta xúm chôn mình đó, uổng của đó, tu tới đây rồi mà người ta chôn cất oan mạng đó. Phải không? Hồi đó cái tâm để nó định lên hơi thở, một thời gian bao lâu tuỳ theo nó, khi nó muốn hướng ra, ví dụ như độ khoảng chừng 10 hay 20 hơi thở, thì bắt đầu mình phải tác ý thì nó an lạc. Nhưng mà con phải tác ý.
Phật tử: Thưa hỏi
(52:35) Trưởng lão: Không được, cảm giác đó thuộc về tưởng rồi. Tiến trình bằng ý thức không được tiến trình bằng tưởng thức. Còn cái cảm giác đó là tưởng thức đưa đi.
Ờ! Đó là một cái năng lực của tưởng mà. Như vậy là con dùng cái pháp tưởng nó cũng hết nhưng mà không phải. Bởi vì cái pháp tưởng nó chỉ hà hơi cho con thôi. Bây giờ có người nói bệnh ma tà rồi rước tới ông Thầy phù thuỷ, ông cũng vẽ bùa, ông đọc Thần chú rồi ông tụng kinh tụng kệ gì đó, ông kệ một hơi, con ma nó xuất ra thì họ cũng thấy hết à.
Bởi vì nó có cái năng lực của tưởng. Nó giúp cho hết nhưng mà mai mốt nó trở lại. Còn cái này không, con nếu mà con trị bằng ý thức của con, bất kì nó đau ở chỗ nào đó, như ở cái lưng con. Bắt đầu con ra lệnh: "Cái Thọ là vô thường, cái lưng đau này phải rời khỏi cái thân này đi". Con ra lệnh như vậy bằng ý thức của con thôi, cái năng lực của ý thức của con sẽ mạnh, nó mạnh mà nó thực tế hơn. Còn cái kia tưởng thức, khi con điều khiển bằng cách con phải giữ tâm yên lặng vậy, mà con không có cái năng lực của cái pháp truyền lệnh.
Do đó, con không thể nào mà làm chủ được nó đâu. Bây giờ nó trị hết, mai mốt nó sanh bệnh khác nữa. Và cứ như vậy, nó chỉ chẳng qua là cái nhân quả thiện ác của nó giảm theo năng lực của tưởng thôi. Bởi vì dù là các pháp nào nó sinh diệt vì nó ở trên cái tâm của con nó khởi ra thì lúc bây giờ nó là chướng ngại pháp của con. Bởi vì hoàn toàn cái thật là thanh thản an lạc, vô sự ở trên bốn cái chỗ này. Mà nó có một cái gì khởi lên ra trên Tâm con, nó sanh diệt trên tâm con là sai hết.
(54:10) Cái đó con tu theo Thân Hành Niệm. Cái đó đúng theo cái pháp Thân Hành Niệm chứ không phải Tứ Niệm Xứ. Ờ! Rồi bây giờ bắt đầu Thân Hành Niệm thì cái thân của mình hành cái động nào đó, mình theo dõi nó. Bây giờ nó đau nhức, cũng là cái hành động thôi, mình biết. Đó là Thân Hành Niệm. Không phải Tứ Niệm Xứ con. Còn Tứ Niệm Xứ là hoàn toàn ngồi đây quan sát bốn chỗ để đẩy lui chướng ngại pháp thì Tứ Niệm Xứ. Còn cái đó là Thân Hành Niệm, bây giờ thân nó đưa lên, nó biết, hạ tay xuống nó biết.
Bây giờ cái mình cúi xuống mình lạy nghe nó đau cái lưng, mình biết. Thì đó là cái hành động của cái thân nó làm cho mình cảm giác. Gọi là mình biết từng chút, từng chút cái động dụng cái thân của mình lúc đó. Thì cái đó gọi là Thân Hành Niệm. Nó vừa là hành động nội, mà vừa là hành động ngoại. Cho nên hành động nội và hành động ngoại của nó, đó là nó thuộc về Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Bởi vì con không có hỏi rành. Bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó thực hiện nhiều cái pháp, cũng như bây giờ con tu cái Tứ Chánh Cần con cũng phải thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, chứ ngoài Tứ Niệm Xứ lấy gì con biết nó là ngăn ác, diệt ác ở đâu.
Cũng phải là ngăn ác diệt ác ở Tâm, Thân con chứ đâu. Thì đó cũng là Tứ Niệm Xứ nhưng mà ví dụ như con tu Định Niệm Hơi Thở, nó cũng là Tứ Niệm Xứ bởi vì nó là hành động của nội của Thân cho nên con tập trung ở trong hơi thở, con nhiếp tâm ở trong hơi thở. Con cũng đều tu Tứ Niệm Xứ gọi là tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải là tu Tứ Niệm Xứ. Thân Hành Niệm…
Phật tử: Thầy dạy dùm con về Tầm, Tứ.
(56:14) Trưởng lão: Tầm, tứ phải không? Tam Ấn, tứ Ấn, theo con nói cái
Phật tử: Con gọi là… Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã đó… tới mấy trăm … ngồi đó mà quán giống như Thầy dạy vậy đó…mình quán ở trên Thân … còn cái Thọ đó đến với mình nó lại ra đi chứ đâu phải nó ở hoài với mình đâu.
Trưởng lão: Không phải. Bây giờ Thầy nói như thế này, đức Phật đã xác định cho tam Ấn và tứ Ấn ở trên Tứ Niệm Xứ. Bây giờ đức Phật nói: "Thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã" là Tứ Ấn, mà nói: "Thân vô thường, khổ, vô ngã" thì nó là Tam Ấn. Thì đây là xác định gọi là Ấn là xác định cho chúng ta cái này là chắc chắn hễ cái gì vô thường là cái đó khổ, mà cái đó khổ là vô ngã thôi, không có cái ngã. Cho nên đây là cái xác định thôi. Vì vậy, mà chúng ta nắm được cái xác định này chúng ta biết các pháp là khổ, vô thường, vô ngã thôi.
Cho nên đó là để cho chúng ta xác định được các pháp như vậy, để mà chúng ta đừng có dính mắc. Nhưng mà sự thật chúng ta chỉ học cho nó suông. Chứ nó không phải vậy, mà trên con đường tu nó phải tu nó khác. Nó không phải theo cái kiểu, cái kiểu con hiểu, con hiểu như vậy nó thành ra Tưởng. Cho nên phải biết cái Pháp tu. Thí dụ như bây giờ trong cái giai đoạn con, con phải tu Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần, hoặc Tứ Niệm Xứ mà Tứ Bất Hoại Tịnh, hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà tu Tứ Niệm Xứ; hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà lại tu Tứ Thánh Định. Bởi vì trên cái thân này nó có Định ở trên này Thân nên tu Tứ Niệm Xứ. Cho nên vì vậy, thì cái hiểu biết của con nó có cái hiểu biết tổng quát mà nó kêu là nó tạp nhạp như ở trong bài kinh của kinh, nó lộn xộn lắm nó không có thứ tự.
Phật tử: Thưa hỏi
(58:22) Trưởng lão: Còn bây giờ Thầy dạy cho các con thì khi nào nó có những điều kiện gì cần thiết thì hỏi thêm thì Thầy dạy cái đó để mà tu. Còn bây giờ dạy Tứ Niệm Xứ trên thân này để đẩy lui chướng ngại pháp thôi. À con phải biết, cho nên vì vậy thứ nhất là thường xuyên để tác ý ra để dùng ý thức chứ không được dùng tưởng.
Nghĩa là đừng dùng cái tưởng, thí dụ như bây giờ cái hơi thở, thở ra thở vô chỗ mũi này mà mình thấy nó đi vô phổi của mình là mình tưởng. Thực sự ra con đường đi mình thấy nó vô phổi rồi nhưng mà đừng có tưởng theo nó, như vậy cho nên mình biết ra biết vô ở đây thôi. Một cách tự nhiên, hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô.
Bởi vì đức Phật không có dạy chúng ta dùng cái tưởng mà để đưa nó đi. Thành ra do vì vậy mà chúng ta theo cái lộ trình của đạo Phật nó thoát ra khỏi cái vọng tưởng bởi vì cái tưởng nó sẽ dẫn chúng ta đi vào cái lệch, cái lệch cho nên chúng ta đừng có dùng tưởng trong bước đường tu. Mà nếu mà muốn không dùng tưởng thì luôn luôn phải tác ý. Tác ý ra thì cái ý thức của chúng ta mới có, chứ nếu mà không tác ý thì cái tưởng nó sẽ làm cho ý thức mất đi, thì chúng ta tu không có đến đâu được hết đâu. Cho nên ở đây mục đích của chúng ta là đường đi chúng ta thấy rất rõ. Là tới cuối cùng nó phải là Định Hữu Sắc- Định của ý thức chứ không phải Định của tưởng thức. Cho nên chúng ta phải thực hiện tới Tứ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.
Vì vây cái Định này nó xác định cho con đường của chúng ta đi nó cụ thể rõ ràng mà cái Chánh Định này thì nó nằm cái nẻo thứ Tám của Bát Chánh Đạo. Cho nên vì vậy nó xác định được cái Tứ Thánh Định là con đường của đạo Phật. Là cái Định đó mới đúng. Cho nên vì vậy mà, chúng ta phải xả hết tất cả những cái tưởng của chúng ta ra thì chúng ta mới đi vào cái Định Hữu Sắc này. Mà nói Định Hữu sắc tức là định của ý thức, mà định Vô sắc là Định của tưởng thức.
Chúng ta phải hiểu như vậy. Chúng ta bây giờ là phải hoàn toàn lìa xa cái Định Tưởng- cái Định mà vô sắc, không có được để cho một chút xíu nào mà xen trong đó. Bởi vì nhiều khi chúng ta ngồi đây mà cái tâm không vọng tưởng mà lại là Định Vô sắc, chứ nó không phải thuộc ý thức. Ý thức của chúng ta là phải ly tham, sân, si, nó mới thuộc về định của ý thức. Nó như vậy nó mới là Sơ Thiền mới được.
Cho nên vì vậy luôn lúc nào chúng ta cũng phải luôn tác ý. Cho nên đức Phật nói phải tác ý mà, thiện xảo tác ý, khéo léo tác ý chứ không phải là dụng nó thì nó cũng không giải quyết được, nó sẽ bị tưởng xen vô. Cho nên phải khéo léo trên bước đường tu. Bây giờ, Thầy dạy thì các con cứ theo chỗ nào hiểu, chỗ nào tu, đừng bao nhiêu cái gì mà tới giờ hiểu, xả xuống, bỏ hết đi. Nó trật rồi, nó trật con đường rồi.
(1:01:00) Không có nên mà tu theo đó. Không phải là Thầy bác các pháp của các Thầy đâu nhưng mà vì nó không đưa các vị Thầy của chúng ta đi đến cái nơi cuối cùng, đến nơi làm chủ. Cho nên bây giờ coi như bây giờ chúng ta bỏ hết, coi như chúng ta bắt đầu đi trở lại. Bây giờ bắt đầu đi trở lại thì Thầy dạy sao cứ làm vậy. Bây giờ về tập ngồi 5 hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành. Ra lệnh từng hành động đứng lên ngồi xuống để chúng ta có cái quyền làm chủ nó. Đó là cách thức thứ nhất.
Cách thức thứ hai là hằng ngày chúng ta sống tiếp duyên với các pháp chúng ta phải luôn luôn thấy bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, không được thấy nó đúng sai. Đó là cách thức để mà cứu chúng ta để ngăn ác, diệt ác. Đó là cái phương pháp tu để mà sống trong các pháp. Gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, không bị dính mắc.
Cái thứ ba là trong những đêm khuya thanh vắng thì chúng ta phải tu, ngồi quan sát trên bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp có chướng ngại thì đẩy lui, mà không chướng ngại thì để cho nó thanh thản an lạc vô sự. Còn một niệm gì khởi ra đều là hoàn toàn tưởng hết. Chúng ta phá hết. Có như vậy thì chúng ta mới tu được. Và như vậy thì coi như là Thầy đã nói như vậy thì giờ chúng ta về cần phải thực tập. Rồi thực tập rồi thì còn phải thưa hỏi. Chớ đâu phải là nói mà về nó làm đúng được đâu. Nó còn sai. Cho nên vì vậy mà bây giờ về thực tập, về thực tập rồi mới thưa hỏi lại.
(1:02:13) Còn bây giờ con chuẩn bị con về. Thì lúc bấy giờ đó sẽ trình lại Thầy. Sau đó viết thơ gửi lên Thầy. Giờ con tu đêm như vậy, con tu như vậy con thấy nó thanh thản an lạc, rõ ràng. Bởi vì Thầy đã đặt cho các con những cái từ: "Thanh thản, an lạc, và vô sự". Mà cái Tâm hoàn toàn nó mất thanh thản, an lạc, vô sự. Bốn chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp này nó không có thanh thản an lạc vô sự thì nó sai. Mà có thanh thản an lạc vô sự là đúng. Con nhớ chưa? Cứ như vậy rồi sau đó viết thơ trình bày. Không phải nói bây giờ cái làm được liền đâu. Mà phải tu, rồi mới rút tỉa từng kinh nghiệm mới thấy được. Có những cái gì Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì còn Thầy, chứ nếu mà mất Thầy thì chắc chắn là không ai chỉnh cho.
Phật tử: Con về con tu rồi con kiếm được Thầy con mừng.
Trưởng lão: Chớ còn bây giờ các con hỏi lung tung đây, Thầy một mớ kinh sách, kêu là một mớ kinh sách, một mớ hiểu biết thì coi như là các con rối nữa. Cho nên Thầy không muốn cho các con thêm rối. Bởi vì nó nhiều quá, nó rối lắm. Tốt hơn các con cứ giữ đúng theo lời Thầy dạy, cái nào đã tập hôm nay thì phải làm cho đúng.
Phật tử: …Con quyết chí theo Thầy…
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con chuẩn bị đi về. Lo về tu, nói nhiều quá.