ĐỘC CƯ - ĐỘC BỘ - ĐỘC HÀNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời gian: (01:30:20)
(00:00) Trưởng lão: Tức là không có hai người đi. Toàn bộ là bước, là đường đi. Có nghĩa là mình đi ở trên đường có một mình mình thôi. Ờ! "Nhất bái tam bộ" đó. Thì ráng, ráng cố gắng.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Con cứ có thất rồi, con cứ sống độc cư thôi con, nỗ lực tu đi con. Chứ đừng có nghĩ lăng xăng, đừng có nghĩ chuyện gì, đủ thứ chuyện hết. Bởi vì…
Phật tử: Con có điều thắc mắc muốn hỏi, xin Thầy giải đáp.
Trưởng lão: Thì cứ hỏi, Thầy chỉ. Cái gì về vấn đề thực hành ấy, còn cái vấn đề mà linh tinh ở ngoài thì thôi con hãy giải quyết.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Thì cứ hỏi về cái thực hành. Nó không mất thì giờ.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Cứ hễ… cái sự tu á, Thầy nói như thế này các con, đừng có vội tin Thầy, mà hãy thực hiện, mà thấy có kết quả thì tin, mà không có kết quả thì coi như đừng có tin. Phải nói như vậy.
Phật tử: Thưa hỏi. Con thực hành thấy có kết quả ạ
Trưởng lão: Rồi. Bây giờ mấy con còn hỏi thêm gì nữa không con? Con, cái gì mà có hỏi thêm gì…Hết rồi phải không? Cố gắng. Cố gắng thực hành.
Phật tử: Chúng con đội ơn Thầy… Chúc Thầy có nhiều sức khoẻ.
(01:56) Trưởng lão: Tới nơi tới chốn…Khi nào mà Thầy còn mà Thầy dẫn dắt mấy con tới Tam Minh rồi, ờ bây giờ mấy con lậu Tận Minh rồi. Mấy con biết đường về, mấy con thấy được cái nơi về rồi. Thì đó là Thầy đã dẫn dắt mấy con đến chỗ rồi, Thầy xong rồi, đừng có kéo níu Thầy nữa. Phải không? Bây giờ Thầy đi á. Ráng mà tu, mà Thầy dẫn cho tới nơi con.
Phật tử: Chúng con sẽ ráng tu đến nơi đến chốn ạ.
Trưởng lão: Ờ lẽ đương nhiên, mấy con không tu thì mai mốt Thầy cũng đi. Bởi không lẽ Thầy chờ hoài sao. Mang cái thân này khổ lắm, chứ đâu sung sướng gì. Đối với Thầy là tịch nay là năm 1980 á. Tức là 1980 là Thầy tịch năm đó, năm mà Thầy tu xong là Thầy tịch. Thầy không muốn sống, mang cái thân này khổ lắm mấy con. Thầy, ai ham sống chứ Thầy không ham nữa đâu. Nhưng mà vì, Thầy vì lợi ích chúng sinh mà hôm nay Thầy còn kéo dài thêm đó. Rồi vì bộ sách Đạo Đức mà Thầy còn sống thêm mấy năm nữa. Thì các con liệu mấy năm nữa mà mấy con tu. Đức Phật nói: "Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm". Mà Thầy sống tới nay là bao lần bảy năm rồi, mà các con chưa tu xong.
Phật tử: Dạ. ba lần rồi Thầy. Từ năm 1980 đến nay 2001 là ba lần rồi ạ.
(02:57) Trưởng lão: Thì đó mấy con lượng. Chớ mà Thầy viết bộ sách Đạo Đức rồi, đứa nào mà tu được, không được, Thầy phủi tay Thầy đi chứ Thầy không dẫn đâu. Ở đó mà sau này, có người khác thay Thầy, họ dẫn đi.
Phật tử: Sao Thầy giảng cái pháp tu nó ngắn gọn dễ hiểu lắm mà Thầy viết được mấy trăm trang ạ!
Trưởng lão: Thôi giờ mấy con nghỉ con. Tắt máy con.
(3:24) Trưởng lão: Mình có cái nghiệp, mình phải vui vẻ mình trả nghiệp. Còn bây giờ nó bỏ ăn thì nó chết.
Phật tử: Tại vì vấn đề nó ung rồi, mà mổ cũng chết.
Trưởng lão: Chúng ta coi như là mình cái phần nào mà mình uống thuốc được mình uống. Coi như là mục đích của mình là trị bệnh.
Phật tử: Nó là ung thư gan. Uống cũng chết.
(3:59) Trưởng lão: Trong khi đó theo Thầy…coi như nó uống nước mà nó có thể nó giảm bớt. Mình sống bình thường vui vẻ. Bây giờ đó, mình phải lấy cái tâm của của mình để đối trị bệnh đau. Cho nên khi đức Phật mà bệnh đau. Đức Phật nói: “Ông có thấy cái thân là vô thường không? Thọ là vô thường.” Vị tỳ kheo nói: “Vô Thường …. Như vậy thì chết sống ông có còn ngại gì nữa không? có đau bệnh ông có còn ngại nữa không?” Ta chấp nhận cái điều đó.
Cho nên vì vậy đó, do vì vậy đó trong cái vấn đề mà tu tập, khi có cái thọ, mà biết cái bệnh của mình sẽ không có sống được nữa, mình vui vẻ, chấp nhận hoàn toàn thì cái bệnh của chúng ta. Đức Phật có nói mà: "Khi mà cái thọ nó tận cùng cái sức sinh mạng chịu đựng của thân chúng ta, thì cái thọ sẽ hoàn toàn mát lạnh". Chúng ta đừng sợ, tâm dao động thì bệnh nó tăng mà tâm không dao động thì bệnh nó giảm. Dù là bệnh ung thư. Thầy nghĩ rằng, khi một cái cơn đau mà nó đến, người ung thư khi mà họ đau, họ đau dữ lắm, cho nên khi mà đến, thì nhất định có những cái pháp hướng: "Thọ là vô thường, ta không hề sợ". Thì khi mình nhắc được cái tâm vậy, nó vững vàng lắm.
Sống chết là cái sự vô thường, không phải là tôi, con người ai cũng có sống chết. Ta không ngao ngán, đừng có sợ, cứ hướng tâm làm sao cho cái tâm nó bất động, nó đừng có sợ, nó đừng có lo, đừng có nghĩ rằng phải uống thuốc này, phải ăn cái kia. Bây giờ thấy nó không cần uống thuốc, không cần ăn. Thì cái tâm giữ cho vững, cái tâm nó bình thường và pháp hướng: "Thọ phải đi", cứ nhắc nó đi thôi. Nếu mà cái nhân quả chúng ta nó còn, tất cả các bệnh này sẽ đi, ung thư cũng đi. Thầy nói cứ về đây mà Thầy dạy mà nghe lời Thầy bây giờ bệnh ung thư nè cũng đi nữa, cũng hết chứ không phải.
Bởi vì cái tâm lực của chúng ta, mà cái tâm không sợ hãi thì nó hết. Mà bây giờ chúng ta vừa sợ hãi mà vừa dùng tâm lực thì không hiệu quả. Tại sao? tại vì vừa uống thuốc để cho nó hết bệnh tức là sợ rồi, mà vừa lại dùng tâm lực tức là chúng ta kết hợp hai ba cái, nó không có hiệu quả. Nhất định bây giờ sống chết, nhất định là lấy tâm mình trị bệnh, chứ không lấy thuốc nữa. Bởi vì thuốc không thể trị hết được. Cho nên đừng có uống thuốc nữa. Mà chỉ lấy tâm trị. Với cái bệnh ung thư là có thể trị hết. Nhưng mà uống nó làm giảm đau hoặc khi nó đỡ vậy thôi. Chứ sự thật ra.
Cho nên vì vậy mà cứ dùng pháp hướng: "Thọ là vô thường, ta không sợ hãi nó". Để nhắc như vậy, để tâm mình nó vững vàng, nó không rung động. Và đồng thời: "Thọ là phải đi khỏi thân này đi", ta sẽ chuyển hoá tất cả những cái nghiệp khổ này, nhất định phải giữ giới luật, không ăn phi thời. Khi đau như vậy, bắt ăn nhiều bữa nhất định là không ăn, ăn chỉ một bữa mà thôi, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không nghe ca hát, không giải trí để cho nó quên cái đau đó. Không nói chuyện với ai hết, sống một mình. Hoàn toàn độc cư, bệnh nó hết. Thầy nói nghe tin Thầy đi bởi vì Thầy đã có những trường hợp Thầy trị hết bệnh. Tâm lúc nào cũng thanh thản để chiến đấu.
Phật tử: Nó đau nhức quá thì mình thì làm sao thanh thản được Thầy?
(6:53) Trưởng lão: Thì nó đau nhức quá mình có pháp hướng mà: "Thọ là vô thường. Không có sợ hãi. Tâm phải thanh thản an lạc." Cứ nhắc như vậy
Phật tử: Nhắc thầm hay lớn tiếng ạ?
Trưởng lão: Mình nhắc thầm, chứ không cần nhắc lớn tiếng.
Phật tử: Mình cứ định tâm, coi như là cái đó nằm chứ đâu còn ngồi được hả Thầy?
Trưởng lão: À lúc bấy giờ mình bệnh, mình đâu có ngồi. Đây nè các con sẽ đọc tới cái cuốn 4, cuốn 3 của "Giáo án tu tập của người tu sĩ", có cô Liễu Kim ở ngoài Hà Nội, cô ấy bị ung thư mà bảy lần mổ đó. Mà mỗi lần mổ, tâm cô rất là tỉnh. Cô nhờ vô cái pháp hướng của Thầy, tâm không hề sợ hãi, con không hề sợ hãi. Mà con vẫn sống, vẫn sống bình thường, chồng con, nó thấy con sao mà gan dạ kinh khủng, cô nói thực sự ra nhờ pháp của Thầy, mà con bình tĩnh trước mọi sự đau khổ, mọi sự sống chết như là sợi chỉ mành treo chuông.
Bây giờ cô viết cái bài ra cô gửi cho Thầy, bây giờ cô sẽ còn đi mổ một lần nữa, nếu nó hết là nó hết, nếu nó không hết là cô sẽ vui vẻ mà cô sẽ bỏ thân cô đi, cô không sợ. Thầy nhắc lại cái quá trình mà cô dùng Như Lý Tác Ý thì tâm cô bình tĩnh. Trước khi đến ca mổ, ai cũng sợ, cô không sợ. Cô coi thường tất cả những cái điều đó.
Phật tử: Thưa hỏi. Thì Bây giờ cũng dùng pháp hướng ạ?
Trưởng lão: Thì cũng dùng pháp hướng à, nó bình tĩnh. Cô nói coi như là cô chết mấy lần chứ không phải một lần.
Phật tử: Một giây phút nào khi mình tỉnh táo là cứ dùng pháp hướng hả Thầy?
Trưởng lão: Cứ dùng pháp hướng.
Phật tử: Đến khi nào hết biết thì thôi
Trưởng lão: Hết biết thì thôi. Cho nên…Ví dụ như cô chết mất đi, thì trong khi cô chết nhưng cô vẫn ở trong cái tâm thanh thản, cho nên mọi người ở trong nhà mới chở cô đi vào viện để mà người ta hô hấp, mà người ta cứu cô sống lại. Rồi cô sống lại. Hỏi cô lúc bây giờ đến mà cái giờ phút mà nó đau đến cái mức độ như vậy đấy, thì cô vẫn giữ cái tâm thanh thản, không hề dao động trước cái sự đau khổ, nhắc lại mà. Do đó đến bệnh viện mà cứu thì khi mà cô thấy tỉnh lại cô cũng thanh thản, an lạc, vô sự. Cô không thấy sợ hay mừng hoặc cái gì…
Phật tử: Mình tự lực chứ không cầu tha lực nữa hả Thầy.
(8:53) Trưởng lão: Không có cầu tha lực, không có… nghĩa là bây giờ coi như là không có kêu Quan Âm mà cứu khổ. Con sẽ thấy là cô Liễu Kim, Thầy nói thật đúng là Thầy bảo khi mà Thầy viết bức thơ ra đó, Thầy khuyên cô hãy sử dụng cái thanh Thư Hùng Kiếm, mà cô sẽ thoát sạch tất cả những cái Thọ mà cô đã gánh chịu cái nhân quả của cô. Bởi vì đây là nhân quả của cô, là không phải người nào gánh đâu mà chính cô phải gánh. Mà chỉ có cái thư hùng kiếm là cái pháp hướng tâm sẽ giúp cô đi trong an ổn đi trong sự sống chết của mình. Nếu cô sống thì cô cũng bình an, mà cô chết thì cũng thanh thản. Và khi đó, cô sẽ gặp Thầy.
Nghĩa là lúc nào mà tâm thanh thản an lạc là lúc bây giờ con sẽ gặp Thầy ở đó. Cho nên vì vậy mà cái cô Liễu Kim này, cô rất vững tâm, là cô cái giờ phút cuối cùng mà cô, cô sắp sửa mà cô chết, thì cô ấy nói như thế này, khi mà cô ….chết, cô kêu Thầy: "Con sẽ sống mãi bên thầy". Nghĩa là tâm con đang thanh thản an lạc trước cái thọ khổ nhất đời con mà con vẫn thấy an lạc là con sẽ sống bên Thầy. Thì cô nói vậy cái cô đi mất. Rồi người ta đem cứu cô sống lại. Cô bây giờ cô viết lại cô mới thuật như vậy. Nghĩa là cô đang sống ở trong lòng chư Phật chứ không phải là riêng Thầy đâu. Thầy đã viết bức thư ra Thầy đã dặn cô mà, từ cái giờ phút nào, này nào chứ không cần ai mà hộ niệm cho mình. Phải tự cứu mình.
Phật tử: Đó cũng là một phương pháp chuyển đổi nhân quả.
Trưởng lão: Một phương pháp và cái bài này của cô sẽ giúp cho các con, là cách thức để các con sống được trong lúc mà quá khổ đau. Mấy con biết cái bệnh ung thư mà, mà cô là ung thư ở tử cung, ở buồng trứng.
Phật tử: Con bạch thưa Thầy, con…con bỏ hết coi như là …. Xin Thầy hướng dẫn cho cuối cuộc đời còn lại của con.
(11:06) Trưởng lão: Thầy nói bây giờ mấy con đừng có nghĩ gì hết, mà cứ từ cuộc sống các con giữ được tâm thanh thản, ly dục ly ác pháp. Không ai làm được động tâm con, không dễ giận hờn, mỗi mỗi vật chất nó không làm cho con ham muốn. Con giữ được cái tâm đó. Cho đến khi cái giờ phút chết, con vẫn giữ được tâm thanh thản an lạc, không hề sợ hãi bất động tâm, thì lúc bấy giờ các con bỏ thân này các con sẽ gặp được chư Phật. Sẽ ở nơi chư Phật đang ở. Ở mãi mãi, không còn tái sinh nữa bởi vì cái tâm đó là cái tâm không còn cái nhân để đi tái sinh.
Cho nên các con đừng nghĩ rằng phải tu tới Tứ Thiền làm chủ được. Đúng là để chứng minh cho chúng ta biết cái năng lực của tâm chúng ta có được sự màu nhiệm làm chủ được sự sống chết như vậy, biết được Tam Minh, như vậy. Nhưng mà sự thật đó chứng được Sơ Thiền là đủ, ích lợi chúng ta là tâm bất động.
Cho nên chúng ta chỉ cần giữ được cái tâm bất động. Mà cái pháp hướng, cái pháp Như Lý, thì nó giúp cho chúng ta giữ được tâm bất động mà, có cái gì đau khổ thì chúng ta cứ nhắc nó thôi, thì nó vẫn giữ được sức bình thường, nó không hề sợ hãi đâu. Mà nó không sợ hãi thì nó bất động. Nó bất động thì lúc bấy giờ chúng ta có chết đi, thì chúng ta ở chỗ bất động đó. Tức là “Giới Bất Tử" đó, Đức Phật gọi trong Kinh đó là "Giới Bất Tử". Cái chỗ cái giới đó là nó giữ được nó là không có chết, không có sống chết nữa rồi. Gọi là Giới Bất Tử, các con nghe cái Giới Bất Tử, thiện hạ hỏi: “Thầy cái Giới Bất Tử là gì?”. Thầy nói: “Tâm bất động”. Có vậy thôi. Cái giới mà. Mà đã Giới thì phải giữ. Giữ được cái tâm vô đó thì nó là bất động rồi, cho nên nó là Bất Động Tâm Định
Phật tử: Con thưa Thầy, cái lúc mà nó cuối cùng, nó đuối quá, không còn dùng pháp hướng được nữa thì…
(12:44) Trưởng lão: Nó sẽ lạc vào, coi như đuối quá là nó lạc, tỉnh đến cái giờ phút mình phải tập tỉnh cho tới cái giờ phút khi mà hơi thở dừng.
Phật tử: Đó nghe hơi thở ra vô hoài
Trưởng lão: Được nhưng mà điều kiện là phải luôn luôn phải có pháp hướng tâm.
Phật tử: Chứ nếu mà cái lúc mà hết hướng nổi rồi mà thì còn nghe được hơi thở.
Trưởng lão: Ờ! Nó còn cái biết hơi thở là nó. Thực sự ra thì theo đúng là cái phương pháp mà cái tâm bất động, đến khi mà hơi thở dừng, thì cái tâm thanh thản của nó vẫn biết, cái tâm bất động của nó vẫn biết. Còn mình chỉ còn tập trung ở trong hơi thở. Thì đó cũng là cái biết ở trong hơi thở. Cái biết hơi thở thì nó cũng tốt đó nhưng không tốt bằng cái chỗ giữ tâm sức tỉnh. Nghĩa là mọi người xung quanh, và đồng thời mình vẫn giữ được cái tâm của mình. Bởi pháp hướng đó là pháp giữ tâm bất động. Mà mình lìa cái pháp đó thì mình nương vào cái chỗ nào để bám trụ vào chỗ đó? Định cái chỗ hơi thở là định vào Thân của mình chứ gì, cái Tâm… Khi mà cái hơi thở mất thì nó mất Định rồi là nó tan hoại.
Cái đó cũng tốt nhưng mà khi đó thì chúng ta còn cái giờ phút cuối, ví dụ như bây giờ chúng ta vừa hướng cái câu tâm: "Tâm nhiếp vào hơi thở". Nhắc nó thêm để nó vào hoặc là "Tâm bất động, không có dao động trước cái thọ". Mình còn biết, vừa nhắc rồi thì biết hơi thở ra vô chừng ba, hai, ba hơi thở thì nó tắt thở. Thì đó là cái pháp hướng đó kèm theo với cái tâm đó thì nó hay nhất. Còn bây giờ mình kéo dài mình nằm 1 ngày 2 ngày, mình biết hơi thở ra vô thì coi như là cái sức tỉnh của mình nó còn trong hơi thở, nhưng mà mình bị mê. Sợ nó lọt vào cái định tưởng rồi. Nó mê, nó không còn nhớ tác ý ra nữa.
Phật tử: ở nhà con tập chết …. Bây giờ con gặp được Thầy, con hết sợ chết nữa.
Trưởng lão: Bởi vậy, Thầy căn dặn cho mấy con là cái chỗ cho mấy con biết chỗ bám chặt, đừng có để cái tâm dao động. Sớm muộn rồi mình cũng chết, cái đau nhức thì ai cũng đau nhức. Mà điều kiện của mình phải thọ cái đau nó quá tận cùng. Còn cái nghiệp người ta đau sơ, giống như người ta bị cảm rồi người ta chết. Còn mình bị ung thư nó đau quá, quá sức. Nhưng mà đau tối đa cách nào nó cũng là Thọ. Mà nó đau sơ nó cũng là Thọ. Cái đó là cái Thọ thôi. Cho nên đau ít cũng Thọ, đau nhiều cũng là Thọ. Nhất định là tâm bất động. Có vậy thôi. Không có sợ hãi nó. Thì như vậy đức Phật đã xác định cho chúng ta biết là: "Thọ là vô thường mà". Mà vô thường là khổ cho nên vì vậy mà chúng ta không có ngại, không có sợ Thọ. Do đó, mà chúng ta lấy cái chuẩn đó. Cuộc đời chúng ta đối với Thọ, cứ vững tâm. Thành ra lúc bây giờ chúng ta yên tâm ra đi với cái trạng thái tâm đó không còn tái sinh luân hồi, chấm dứt đi để nó khổ lắm.
(15:35) Nó còn tái sinh là còn khổ. Mà nó còn cái nghiệp thiện, nghiệp ác của nó, nó còn cái nghiệp mà ham muốn của nó, thì tức là nó phải tái sinh, còn mình bất động trước các cái ham muốn, trước các đau khổ này, thì nó không tái sinh. Bị Nghiệp đi tái sanh chứ đâu phải mình đi tái sanh đâu. Mà cái Nghiệp nó còn là nó phải đi tái sanh. Mà bây giờ cái Nghiệp đó nó hết thì nó làm sao tái sanh. Mà bây giờ Nghiệp nó hết thì nó tạo ra thành cái Nghiệp, cái Nghiệp không tái sanh, là Nghiệp không tham, sân, si, cái Nghiệp tâm thanh thản thì cái này vẫn còn cho mình, chứ đâu phải là cái thân hay linh hồn mình còn đâu.
Hai cái này, một cái thì tham, sân, si thì nó luôn luôn nó mãi đi tái sanh luân hồi; một cái nghiệp không tham, sân, si, thì cái này nó chấm dứt tái sanh luân hồi. Cái này cũng phải còn chứ. Cho nên mà Thầy tu thì Thầy cũng phải có chứ không lẽ Thầy tu thì Thầy bị đơ sao.
Mà có là có gì đây. Không lẽ giờ có Phật tánh được ở trong này sao? Hoặc có cái kia. Nhờ cái pháp hướng này mà Thầy huân thành cái nghiệp không tham, sân, si. Phải không? Cho nên cái này nó còn. Cho nên làm sao, cho nên đức Phật nói: "Một cái cây mà chúng ta gọt vỏ, bỏ cái vát đi thì nó còn cái lõi chứ". Nhưng mà cái cây mới mọc có lõi được không? Nếu nó không do cái công phu mà đối trị với cái ác pháp thì làm sao có cái lõi này được, phải không?
Nó thành ra cái này là cái Nghiệp đi tái sanh, còn cái này là cái Nghiệp không tái sanh. Thì bây giờ mình muốn cái Nghiệp không tái sanh thì phải huân tập Nghiệp không đi tái sanh thì nó mới không đi tái sanh chứ. Cái nào nó cũng còn chứ. Cái này thì nó tái sanh, nó khổ hoài; còn cái này nó không tái sanh thì nó không khổ. Mà mình không có tạo ra cái nghiệp này thì phải có cái nghiệp này.
Hai cái, bây giờ hai con đường, nếu con đường tái sanh luân hồi thì cứ đi theo cái nghiệp này thì nó sẽ tái sanh luân hồi; mà cái đường này là không tái sanh luân hồi, thì cứ huân cái nghiệp này đi. Thì cái nào nó cũng còn chứ đâu phải mà nó mất. Cho nên tu vẫn còn.
Phật tử: Con bạch Thầy con có một ước nguyện, ý chí như vậy. Bổ sung cho con đầy đủ
(17:26) Trưởng lão: Ờ! Bây giờ con nghĩ một điều nhưng còn cái hiểu pháp là một điều, rồi còn cái tu là một điều nó đòi hỏi. Bây giờ mình hiểu mà không tu tới chừng đó, cái Nghiệp lực mình, nó lôi cuốn ra, nó không có đủ cái năng lực chống lại nó đâu. Cho nên trong cái đời sống, mình hiểu rồi, thì mình nỗ lực mình biết tu, biết tu. Thành ra từ cái Nghiệp tham, sân, si nó sẽ trở thành cái Nghiệp không tham, sân, si. Mà cái Nghiệp không tham, sân, si này có rồi nó mới đối trị được Nghiệp tham, sân, si.
Do đó chừng mà mình sắp sửa mà mình chết, cái Nghiệp tham, sân, si này nó rất mạnh, nó lôi mình đi, mà mình có cái lực của Nghiệp không tham, sân, si này, nó mới chống lại. Do đó mình mới hoàn toàn mình giữ được cái này. Còn cái này nó mới tan hoại, mất hết. Tức là nó chuyển hết rồi cái khổ đau rồi, không tái sanh.
Phật tử: Con nghe lời Thầy để con cố gắng con tu.
(18:16) Trưởng lão: Thầy nói giữ, đó bây giờ thì các con thấy yên tâm rồi, thấy hiểu biết rồi. Thì ráng lo tu, chứ đừng có cứ mở băng, cứ đọc kinh sách Thầy hoài thì nó cũng không có gì đâu. Thầy nói thực ra thì chỉ là mình giải trí mua vui vậy thôi để nó an ủi cái tánh mình, trong khi đó mình thấy mình buồn buồn. Mình buồn chừng nào, tu luôn chừng ấy, chứ đừng có đọc, đừng có nghe, nói thực sự ra ba cái băng này dẹp hết đi. Cho nên Thầy khi giảng sáu mươi mấy cuộn băng rồi, Giáo án tu tập của Phật giáo cho nó làm sống lại rồi thì Thầy không giảng nữa. Thầy giảng nữa đây Thầy là đào kép, cứ hát nó thu âm nó nghe hoài.
Các con đã hiểu rồi thì bây giờ chỉ còn cứu mình, thắp đuốc lên mà đi, còn ba cái này thì thôi lỉnh kỉnh lắm, bỏ xuống. Sách vở Thầy đọc để hiểu, hiểu rồi dẹp hết, không đọc nữa. Nắm gọn được cái gì tu trước, cái gì tu sau. Cho nên Thầy nói thực sự ra, nếu mà cái người nào tin Thầy, đừng có thèm kinh sách gì hết, lại đây Thầy dạy bây giờ ra lệnh nè, ngồi xuống ra lệnh đứng dậy nè, ra lệnh hít thở này, ra lệnh đi nè. Cứ như vậy làm vậy đi. Rồi Thầy dạy tới dạy tới chắc chắn là chắc ăn rồi. Còn bây giờ đọc kinh sách cho nhiều rồi, Thầy hay quá, cái này là tuyệt diệu, đủ thứ hết. Nó làm cho trong bụng này một bụng, cuối cùng không biết cái pháp nào tu hết. Có phải không mấy con?
Bây giờ thì mấy con phải ráng tập. Rồi ngày mai buổi sáng 7 giờ gặp Thầy, rồi Thầy sẽ dạy về pháp Tứ Niệm Xứ. Thầy dạy cho cách thức biết tu pháp Tứ Niệm Xứ. Để rồi lúc nào mà tu Tứ Niệm Xứ đâu phải mình về. Cũng như bây giờ con về gia đình của mình; mình sống ở trong nhà của mình, thì mình tu pháp nào, rồi bắt đầu cái giờ phút nào, giờ nào mình tu. Chứ đâu phải con tập nó để rồi sau khi nó có đủ duyên, mình mới khép chặt mình trong cái khuôn khổ, một tháng, nửa tháng nào đó, mình thực hiện Tứ Niệm Xứ, tức là như con gà ấp trứng á, hoàn toàn ra con sẽ được nở hết.
Phật tử: Mô Phật! Con cảm ơn Thầy.
(20:13) Trưởng lão: Thì mấy con nhớ lời Thầy dạy thì ráng tập đi, về tập cái này cho thuần. Rồi Thầy sẽ giảng từ cái pháp hướng nó sẽ đi vào, từ cái giai đoạn nào mình nương vào cái Pháp hướng nào. Chứ còn mình chưa có tỉnh thức, mình lo mình hướng những cái tâm ly tham, sân, si. Sức tỉnh thức nó chưa có đủ để mà nó tiếp nhận các ác pháp bên ngoài để nó ly tham, sân, si. Chưa nổi đâu. Cho nên mình cần tập tỉnh thức trước đã. Tập tỉnh thức tức là mình tập mình phá cho được cái buồn ngủ của mình, các con hiểu không? Phá cho được cái buồn ngủ hôn trầm rồi, bắt đầu bây giờ mới có câu: “Tâm như cục đất, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã”.
Rồi nó mới biết nhiếp phục theo chứ còn bây giờ nó chưa có tỉnh thức, nó còn gục tới gục lui đây mà, biểu nó ly tham, sân si sao được? Nó ngu quá mà, làm sao nó ly! Phải không, các con hiểu không? Tu nó phải vậy. Mình phải ly cái si của mình ra, thì mình mới tham với sân nó mới diệt được, chứ còn si nó còn thì tham, sân nó làm sao diệt được. Cho nên tu tập phải có từng bước, cũng như lớp Một mình phải học cho hết rồi đến lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn. Còn đây Lớp Một chưa rồi muốn lên Lớp Ba, lớp Bốn. Nhưng mà đại khái chúng ta phải biết rằng, chúng ta có những thì giờ mà chúng ta có thể học thêm, học thêm để chuẩn bị cho mình bước lên cái lớp khác, mà mình có căn bản chứ gì.
Đó là những cái học thêm, học thêm mà thì nó đâu phải là cái chuyên môn của chúng ta học tại cái lớp đó đâu. Bây giờ Thầy phải học thêm cái gì cái gì để sau này Thầy lên cái Lớp Hai này đỡ Thầy được bao nhiêu chuyện. Coi như là ông Thầy giáo, ông cho cái bài đó. Thầy là học trò giỏi. Thôi xá Thầy thôi! Con còn hỏi gì nữa con? Hết rồi hả con. Rồi…
(21:54) Mà ở trong Bát Chánh Đạo á, gọi là Chánh Niệm, này có thể quan trọng bởi vì nó còn cái nẻo thứ bảy và một cái nẻo thứ mười là Chánh Định. Thì Chánh Niệm là cái phương pháp dùng để cho người tu sĩ tu, chứ không phải cho người cư sĩ. Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp rất là tuyệt vời người tu sĩ còn nếu mà người cư sĩ mà không biết tu á vào trong thất chừng ba bữa là cái pháp đó nó cũng đuổi đi ra chứ không cho ở. Cho nên cái pháp mà Tứ Niệm Xứ là một cái người phải “im lặng như Thánh” mới tu được, cái người mà không im lặng như Thánh…
Cho nên các con nhớ kỹ những cái điều mà quan trọng. Nếu mình là tu sĩ tu pháp Tứ Niệm Xứ tức là Chánh Niệm, còn nếu là cư sĩ á, chúng ta có những giờ tu hay chứ không phải không tu Tứ Niệm Xứ được. Nghĩa là chúng ta không tu liên tục hằng ngày, suốt ngày được hoặc là ngày này qua ngày khác được. Nhưng chúng ta có giờ tu. Ví dụ như buổi khuya, buổi tối trong gia đình yên tĩnh.
(23:13) Tất cả những cái hoàn cảnh thuận tiện, trong cái cảnh yên tĩnh. Còn trong những cái cảnh động á thì chúng ta luôn …. Cho nên khi mà hiểu được những cái cách thức và phương pháp tu nó đúng, đúng cái thời của nó, thì nó mới có kết quả. Còn mình hiểu pháp mà tu không đúng thời, và không đúng cái đối tượng tu nữa. Cái thời tu ví dụ như giờ ở giữa chợ mà đem Tứ Niệm Xứ tu thì chắc không được rồi. Cho nên vì vậy ở giữa chợ thì chúng ta chỉ có tu Tứ Chánh Cần là tốt nhất, cho nên nó hợp với cái pháp đó, chứ không hợp với cái pháp kia được. Mà Tứ Chánh Cần mà đem vô rừng thanh vắng một mình ngồi tu á thì tu cũng không được. Nó cũng sai pháp rồi. Cái thời của, cái thời gian mà tu nó phải hợp.
Cho nên hôm nay Thầy nói như vậy thì các con biết cái phương pháp, áp dụng pháp môn của Phật phải đúng cách, đúng thời. Cho nên đức Phật nói mình tu tập đúng thời thì có kết quả, mà không đúng thời thì không kết quả. Cho nên đúng thời của Phật muốn nói là áp dụng đúng với hoàn cảnh mình.
(24:18) Vậy thì hôm nay các con sẽ học cái pháp mà Thầy dạy là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ nó có bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nhưng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật dạy là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Bây giờ chúng ta học cái pháp đó rồi, chúng ta quan sát lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình.
Cho nên Đức Phật nói: "Trên Thân quán Thân” trên cái Thân của Pháp mà đức Phật dạy, mình hiểu cái Thân của Pháp này là khổ, là vô thường. Bây giờ đó, mình quán lại cái thân của mình, quán lại cái thân của mình xem coi nó có phải là khổ thật vậy không? Nó có phải là vô thường không? Khi mình đem nó ra mình quán xét mình thấy pháp Tứ Niệm Xứ nó nói rất đúng. Rất đúng cái Thân Thọ Tâm Pháp của mình, không có chỗ nào sai hết. Vậy thì từ đây mình mới ôm, mình mới nương vào bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình đây, mà mình nương vào cái pháp, pháp Tứ Niệm Xứ, cái pháp Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Phật dạy á để quan sát trên bốn cái chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình. Rồi hàng ngày hàng giờ, hàng phút, hàng giây không có biếng trễ được, nghĩa là phải là Chánh Tinh Tấn, luôn phải là tinh tấn, siêng năng luôn luôn quan sát lại bốn chỗ này.
Mà hễ thấy nó có một cái chướng ngại pháp nào á chúng ta mau mau đẩy lui nó, không có cho nó ở lại trên bốn chỗ này. Chỉ vậy thôi. Đó là Tứ Niệm Xứ. Chứ không phải ngồi đây mà Quán Bất Tịnh, ngồi đây mà quán Xương Trắng, ngồi đây mà quán thân sình trương hôi thối. Hoặc Quán cái này, Quán cái kia. Không phải đâu.
(25:54) Bởi vì trong cái bài Tứ Niệm Xứ của Phật nó có gồm chung cho nên bài nó không có cụ thể, nó làm cho chúng ta rất khó hiểu. Đức Phật bảo mình Quán Bất Tịnh thì nó cũng nằm trong bài Tứ Niệm Xứ; bảo Quán bất tịnh rồi Quán hơi thở, đủ thứ hết, rồi Quán Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, Thân Hành Niệm, đều là nó đã dạy tùm lum trong đó rồi, đều gọi là Tứ Niệm Xứ.
Cho nên người ta đọc Tứ Niệm Xứ, người ta không hiểu. Thực sự ra, thì trong khi đó, trước khi mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã trở thành một con người rất là thanh tịnh, cái thô nó không còn nữa, cái tâm tham dục, tham ái nó không còn nữa. Chứ bây giờ nếu như mà cái tâm chúng ta còn tham ái, mà ngồi đó Quán Bất Tịnh thì làm sao mà chúng ta ở đây chúng ta quét sạch những chướng ngại nho nhỏ trên thân của chúng ta ra được. Cho nên Tứ Niệm Xứ không phải là cái chỗ mà để cho các người mà còn thô, mà còn tâm tham ăn, tham uống, tham vui, tham dục lạc, tham xe cộ, tham chùa to, Phật lớn mà tu Tứ Niệm Xứ được.
Cho nên quán gì cũng không được hết. Mà đây là cái tâm của chúng ta đã hoàn toàn thanh tịnh, cái thô đã hết rồi, nó còn cái vi tế lăn tăn, nhỏ trong tâm chúng ta thôi. Cho nên chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ. Coi như là cái thời khoá tu tập của đức Phật là cái thời khoá để dạy cho người ta tu chứng chứ không phải là…. Không phải ngồi đó mà Quán Bất Tịnh nữa. Mà đây gọi là quét, quét những cái rác rến ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nó đang bị nhiễm. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
(27:24) Như vậy Tứ Niệm Xứ là lúc nào mà người cư sĩ như các con mà muốn tu thì lúc đó là khuya, một - hai giờ khuya, trong gia đình ai cũng ngủ hết rồi, chỉ có mình thức dậy, rồi mình mới tập thể thao cho cơ thể giãn gân, giãn cốt, cho nó tươi tỉnh, nó không còn buồn ngủ nữa, nó không còn lười biếng nữa. Lúc bây giờ thấy nó tỉnh táo xong rồi, bắt đầu chúng ta mới vào, ngồi kiết già hoặc ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế, rồi chúng ta tập quan sát bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của chúng ta.
Thứ nhất chúng ta quán thân, quán thân chúng ta xem xét từ trên đầu chúng ta tới dưới cái chân, coi nó có cái gì còn cái chướng ngại pháp gì ở trên cái thân không? Nếu không có thì chúng ta tiếp tục chúng ta quán Thân, Thọ, bây giờ cái Thọ của cái Thân có không? Nãy mình quan sát từ đầu tới chân rồi không thấy có cái gì hết, không thấy có một cái vật gì. Bây giờ ví dụ như bây giờ mình quan sát từ ở trên thân của mình tới dưới chân, mình không thấy một cái chướng ngại nào hết.
Bây giờ, mình mặc cái áo rách, bây giờ gió nó lạnh, thì tức là cái áo gió nó bắt buộc mình hoặc là mình mặc cái áo ngắn, hay hoặc là mình ở trần đi, mình không có mặc áo. Thì mình quan sát từ ở trên này thấy, kỳ này mình tu Tứ Niệm Xứ là mình nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh chứ không thể nào mặc áo thun, mặc cái áo ngắn hoặc là ở trần mà ngồi quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, như vậy là thiếu đức hạnh, thiếu đức hạnh ăn mặc. Bởi vì trong giới luật của Phật có dạy đạo đức về ăn mặc mà. Mình phải ăn mặc kín đáo. Trong khi mình ngồi tu như vậy, thân tâm mình thanh tịnh, tức là mình phải ăn mặc thanh tịnh chứ không thể nào như một võ sĩ mà vận công, hay vận nội công hoặc là khí công bằng cách ở trần để mà gồng, để mà vận công. Như vậy mình là một võ sĩ chứ không phải một tu sĩ đạo Phật.
Người tu sĩ đạo Phật, khi quan sát thấy như thế này mặc cái áo này là mình thấy không hợp rồi, thân mình phải mặc cái này không hợp, thôi bây giờ mình mặc cái áo kín đáo. Cái áo đơn giản như cái bình thường, như cái áo vạt mĩa của mấy con như cái áo bà ba vậy nhưng dứt khoát đừng để hở hang, tức là mình tránh những cái gió lạnh này kia. Do đó mình quan sát, thấy lạnh thì mình mặc đàng hoàng, ăn mặc đàng hoàng. Vô mình ngồi lại, mình quan sát từ trên đầu chí xuống, thấy như vậy là được rồi. Mà giờ nghe gió nó thổi lạnh, do đó mình lấy cái khăn mình quấn lên cổ, hoặc lấy cái nón mình đội lên đầu cho nó ấm áp, đàng hoàng. Mình quan sát, mình thấy cái sự thiếu, thiếu ở trên cái thân của mình.
Cho nên do đó gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Thấy không? Cái hành động làm như vậy nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ chứ gì. Bảo vệ được cái thân của mình nó không bị chướng ngại pháp. Chứ lát đây mình ngồi đây cái gió lạnh quá, chạy đi xách cái nón thì như vậy là mình bị động nhiều rồi. Cho nên mình chuẩn bị được cái thân của mình cho nó yên ổn, thanh thản được, không có bị động. Cho nên gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Bây giờ trên Thân, quán Thân rồi, rồi bây giờ Thân nó đã yên rồi, áo y đồ này kia ăn mặc đàng hoàng rồi, nghiêm chỉnh rồi. Bây giờ mới Quán cái Thọ xem nó có cái Thọ như nào, có đau có nhức chỗ chân này, đau nhức chỗ kia, mỏi chỗ nọ không, hoàn toàn không có Thọ. Thấy không?
(30:40) Rồi bắt đầu bây giờ mình quán xét cái Tâm. Mình biết được Thân, Thọ, Tâm mà. Bây giờ tới cái Tâm, quán xét cái Tâm coi nãy giờ mình đã tác ý ra hay hoặc là nó tự phóng ra. Nãy giờ mình hoàn toàn mình chủ động mình tác ý ra để mình quan sát, thì đây là đúng, mà nãy giờ tự động nó phóng ra cái niệm này phóng ra, thì cái Tâm này nó còn phóng dật. Tự nó, nó phóng ra, như vậy là sai. Như vậy mình phải cảnh giác….
Cho nên vì vậy mình phải nỗ lực ngăn ác, diệt ác hơn nữa. Nghĩa là mình tiếp duyên ban ngày, bây giờ mình ngồi lại có hay lăng xăng nè. Phải không? Bởi vì cái người cư sĩ mà còn tiếp duyên, mà giờ mình tu Tứ Niệm Xứ, thì đâu có yên được cho mình. Bây giờ tu sĩ cũng chưa chắc yên nữa. Cho nên nó lăng xăng. Vì vậy mình thấy cái tâm của mình nó lăng xăng như vậy, như vậy hằng ngày là sống tiếp duyên với các pháp cần phải ngăn ác diệt ác rốt ráo hơn nữa. Vì vậy cho nên quan sát rồi mình thấy nhắc cái tâm từ đây về sau phải nỗ lực tu Tứ Chánh Cần nhiều hơn. Nhắc nó như vậy để cho nó nhớ.
Rồi kế đó mình tiếp tục mình quan sát thấy cái Tâm của mình, khi mình biết nó phóng thì nó không phóng nữa. Bắt đầu bây giờ mình mới nhắc nó, cái Tâm mà nếu muốn không phóng ra nữa thì cái Tâm phải định vô hơi thở. Bởi vì nó có chỗ nó định. Mình kêu nó: "Cái tâm phải định vô hơi thở". Bắt đầu mình dặn nó: "Tâm phải định vô hơi thở, nhớ kỹ nha". Bắt đầu mình bảo nó định trên hơi thở của nó định. Thì không phải bây giờ như mình ngồi mình tu Định Niệm Hơi Thở mình nhắc nó, biết hơi thở ra, hơi thở vô rồi. Bây giờ mình ngồi đó mình biết. Không phải đâu, bắt đầu mình lại nhắc nó rồi, mình không có chú ý hơi thở đâu.
(32:13) Bây giờ mình quan sát các Pháp, bây giờ các pháp cái nhà nè có tiếng gió không nè? Tất cả các âm thanh, sắc tướng gì bên ngoài nè, có có ai làm động không? Nghe mọi người im ngủ ngáy khò, im phăng phắc, lặng lẽ là như vậy tốt. Các pháp không làm động mình nữa rồi.
Như vậy các pháp đều rất tốt không có tiếng động lớn, không có tiếng động nhỏ, hoàn toàn là giúp cho mình yên tĩnh. Như vậy các pháp này không có xâm chiếm mình rồi. Do đó, chứ bây giờ khi mình đương ngồi mà nghe hát radio, hát ti vi, nó la um sùm. Thì tức là mình bị các pháp đánh mình rồi. Thôi bây giờ mình không ngồi trên Tứ Niệm Xứ được mà mình ngồi chơi để mà tu Tứ Chánh Cần để mà ngăn ác, diệt ác. Không có gì khó. Tu Tứ Niệm Xứ khi mình quan sát nó không có tiếng động, nó không có, nó yên tĩnh.
(33:11) Rồi bây giờ đó, thì khi bắt đầu bây giờ đó mình nhắc lại một lần nữa: "Tâm phải định lại hơi thở". Khi mình quan sát các pháp nó không làm động mình nữa, tức là không làm chướng ngại trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình rồi. Do đó mình mới nhắc: "Tâm định trên hơi thở đi", bắt đầu bây giờ mình mới thở ra thở vô. Thì trong khi đó thở ra, thở vô, mình độ chừng, chứ không đếm. Độ chừng khoảng thời gian hoặc 10 hoặc là 5 hoặc là 20 hơi thở để cho nó yên tĩnh. Nhưng mà phải nhớ, nhớ nhắc bây giờ quan sát trở lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp để xem coi.
Rồi bắt đầu bây giờ mình cũng quan sát cái thân của mình từ đầu chí cuối, rồi cái Thân mình thấy hoàn toàn yên lặng, rồi bắt đầu bây giờ mình vừa quan sát thì nó có Thọ và Thân ở đó nó một lượt. Nếu có cái Thọ con muỗi cắn, hoặc con kiến cắn, hoặc con vật gì, nó làm cho chúng ta đau nhức hoặc ngứa ngáy gì đó thì nó hiện ra liền. Vì khi mà quan sát tới nó thì nó sẽ thấy được những cái vi tế ở trong thân của chúng ta. Ngay liền, ngay liền nó có những chướng ngại pháp đó, chúng ta quán. Bắt đầu mở ra một cái mặt trận, mặt trận tức là cái mặt trận Định Vô Lậu, quán xét coi nó lậu hoặc gì? Dục Lậu, hữu Lậu, vô minh Lậu. Khi mà quán xét những lậu hoặc đó, chúng ta đã biết được cái này là hữu Lậu, cái này là vô minh Lậu. Rồi cái gì là nhân quả, cái gì là không nhân quả, cái gì là duyên hợp, cái gì không duyên hợp.
Chúng ta thông suốt được cái lý này rồi, chúng ta đẩy lui nó bằng cách nào? Nếu Thọ thì đẩy lui theo kiểu Thọ. Mà bây giờ nó lỡ nó bị đau nhức cái đầu hoặc là nhức cái tay. Thì cái Thọ nó nằm ở trong thân nó bệnh, nó đau nhức, chúng ta phải dùng pháp hướng mà đẩy lui. Rồi bắt đầu chúng ta gọi cái tâm tập trung, tức là định vào hơi thở, khi mà cái tâm nó bám vào hơi thở thì cái Thọ nó sẽ đẩy lui đi.
(34:46) Nghĩa là chúng ta có cái mục đích là cách ly khỏi cái Thọ. Cái Tâm với cái Thọ nó rời nhau, bằng cách nó trụ vào cái chỗ khác. Và đồng thời cái pháp hướng ra lệnh cho Thọ rời khỏi Thân, cái Thân của nó hay là cái Tâm của nó để hoàn toàn nó được trở về sự thanh thản an lạc và vô sự của nó. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ, cho nên nó rất khoẻ, người biết tu Tứ Niệm Xứ rồi, suốt 1 ngày 1 đêm người ta ngồi, người ta giữ bốn chỗ này thanh tịnh, người ta quét. Nếu mà mình chịu khó mà quét, Thầy nói thực sự trong 7 ngày là chúng ta đã chứng đạo. Nó không có khó, bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là sẽ sung mãn, nó làm cho tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp rất trọn vẹn và đầy đủ. Siêng năng hằng ngày siêng năng tập luyện thì trong cái thời gian rất ngắn để chúng ta chứng được đạo quả giải thoát hoàn toàn.
Cho nên đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ là 7 ngày, 7 tháng, 7 năm thì nó sẽ viên mãn, nó sẽ thành tựu. Mà đúng cái lời đức Phật nói. Nghĩa là Đức Phật nói 7 ngày chứ không có nghĩa là 7 ngày, bây giờ chúng ta ngồi tu mà tới chiều, tới sáng ngày hôm nay. Nội mà ở trong cái vòng thời gian là 7 ngày. Một ngày hoặc hai ngày, ba ngày là chúng ta thành tựu, chứ đâu phải bảy ngày mới đúng, mới giải thoát được sao, mới chứng đạo được sao. Nó chỉ trong cái thời gian đó có chuyên cần hay không chuyên cần thôi.
Mà chuyên cần mà suốt cái thời gian 24 tiếng đồng hồ hoàn toàn không có một cái chướng ngại gì mà xảy ra trên thân của nó được hết, thì lúc bấy giờ là nó là chứng đạo, chớ không phải gì. Cho nên vì vậy đâu phải mình tu tới bảy ngày, chỉ cần 24 tiếng đồng hồ là chúng ta tập đủ là chúng ta sẽ chứng đạo.
(36:23) Mà nếu mà trong suốt bảy ngày mà chúng ta vẫn còn bị chướng ngại pháp trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp đó thì chúng ta sẽ tiếp tục, tiếp tục tu nữa, thì không có nghĩa là 7 tháng mà chỉ cần có 15 ngày hoặc là 1 tháng là chúng ta đã xong. Chớ đâu phải là phải căn cứ vào tu phải 7 tháng mới được đâu. Mà nếu suốt bảy tháng mà chúng ta chưa làm xong, thì cái người này có tệ nhất đi nữa là phải bảy năm. Nhưng mà đâu có nghĩa là bảo phải đúng bảy năm mới thành tựu. Nhưng có thể một năm hay chín mười tháng. Một năm nó hơn cái số 7 tháng thì nó cũng có thể thành tựu. Đó là cái điều đức Phật đưa ra điều kiện để mà chúng ta thấy. Nhưng mà chúng ta có tệ nào đi nữa, bảy năm là quá sức tưởng tượng rồi, quá lâu rồi. Vậy mà người ta tu bây giờ hai ba chục năm mà chưa làm chủ mà vẫn tu, mà vẫn hi vọng. Thiệt là nuôi hy vọng ảo.
Bởi vì cái thời gian xác định của đức Phật có bảy năm à. Nghĩa là tối đa chúng ta bỏ ra bảy năm. Thế mà có vị Tổ tu hai chục năm, ba chục năm. Như ngài Diệu Cao Phong phải tu ba chục năm. Mà ba chục năm không biết là đúng không nữa. Thực sự ra cái tu của ngài là tu tưởng rồi đâu có chắc gì đúng. Bởi vì ngài đâu có làm chủ sinh già bệnh chết được. Ngài đâu có thực hiện được Tam Minh, cho nên đâu có chắc gì ngài đã được, phải ba chục năm trời tu như vậy. Ngài Đại An phải mười hai năm mới gọi là kiến tánh thành Phật, mười hai năm ông mới kiến tánh không, thực ra Thầy chỉ dạy một chút xíu thì quý thầy đã kiến tánh liền tức khắc. Thấy được cái Tâm biết đó. Nhưng mà cái tâm tham, sân, si, chúng ta còn.
Cho nên vì vậy sự thực ra tu thì rất vất vả cực khổ. Cuối cùng thì trở về. Còn cái này, đằng này chúng ta tu, thực sự ra nếu mà chúng ta giữ gìn được cái tâm mình thanh thản, an lạc vô sự như vậy. Ly tham, sân, si thì tham, sân, si phải hết chứ. Thì tham, sân, si hết tức là giải thoát chứ còn gì nữa. Chứ đòi cái gì nữa? Đòi cái gì nữa? Bây giờ Thầy có đòi Thiền Định gì đâu. Mà Thiền Định ngay chỗ cái tâm không tham, sân, si chứ đâu phải định ngoài tham, sân, si mà được. Tâm tham, sân, si ly hết rồi, Thiền Định ngay tại đó. Cho nên nó quá đơn giản, quá dễ, và cái thời gian đâu có phải kéo dài tới mấy chục năm. Bảy năm là tối đa, nhưng mà bảy năm đó thực sự ra Thầy nói cái người đó vô chắc chơi, chứ không phải tu.
(38:41) Chứ còn thiệt tu, thiệt quyết tu thì dốt đặc như ông Bàn Đặc, học chẳng biết cái gì hết. Ông dốt ông học câu kệ hoài bốn câu kệ mà không thuộc, thiệt là ông tối thật tối. Thế mà Phật dạy ông Tứ Niệm Xứ, tức là ông ngồi ông quét tâm chứ gì. Các con đọc đến cái bài kinh mà nói về ông Bàn Đặc, thực sự ra khi ông quét sạch cái tâm ông không phóng dật nữa tới chừng đó người ta thỉnh mọi thầy, mọi vị Tỳ kheo đi với Phật đi thọ trai, còn ông ấy là người tu không ra gì, có ai thèm mời ông ăn đâu.
Cho nên ông ở lại cái khu rừng đó. Hôm đó thì ông quét sạch tâm ông rồi, cho nên ai cũng đi vắng hết. Ông ra lệnh thân ông biến ra cả ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng. Nhưng mà chỉ có ông Phật, ông (Phật) đi thọ trai là ông (Phật) biết thôi. Cho nên ông (Phật) mới bảo với ông chủ nhà đó: "Gia chủ hãy đến rừng, kêu ông Bàn Đặc đến đây thọ trai, nói đức Phật mời". Cái ông chủ nhà, ông mới đến khu rừng chỗ đức Phật ở, sao mà dòm sao chỗ nào cũng có một ông cái mặt giống nhau, cái ông vị Tỳ kheo giống nhau cứ ở dưới gốc cây, ngồi đầy rừng hết trơn, biết ông nào là ông Bàn Đặc mà kêu.
Cho nên ông này mới trở về nói với Phật: "Bây giờ con vào cái khu rừng đó thấy, tu sĩ ngồi đặc hết, gốc cây nào cũng có hết. Như vậy biết kêu ông nào giờ". Đức Phật mới nói: "Bây giờ gọi tên: "Ông nào là ông Bàn Đặc ôm bát đi xuống thọ trai, đức Phật mời". Thì ngay đó, cái ông nào mà đi ra khỏi rừng thì ông hướng dẫn ông ấy về đây". Thì lúc bấy giờ ông ta đến cái đầu rừng ông ta đứng kêu: "Vị Tỳ kheo nào là Bàn Đặc thì đức Phật mời đi thọ trai." Thì tất cả những ông Bàn Đặc đều mất hết, chỉ còn có một ông ôm bình bát đi ra.
(40:22) Đó thấy như vậy rõ ràng cái năng lực của người ta khi quét sạch cái tâm tham, sân, si rồi thì nó có năng lực màu nhiệm, một thân biến ra hàng vạn thân mà. Thế mà sao chúng ta không tu. Để cái tâm tham, sân, si này nó khổ chứ làm gì? Thôi bây giờ giả dụ bây giờ ông Bàn Đặc ông ấy tu được như vậy đó, nói thôi bây giờ để mình, mình ra lệnh cho cái khu rừng này có một cái chùa đẹp nhất đẹp hơn các lâu đài vua Chúa, làm được không?
Các con thấy cái năng lực đó nó làm hơn cái gì nữa chứ đừng nói. Phải không? Cho nên vì vậy đó, cái khả năng đó có thể làm được tất cả hết. Tại sao chúng ta không tu mà chúng ta cứ ôm ấp cái tâm tham, sân, si mà nó trôi lăn ở trong lục đạo? Bởi vì cái tham, sân, si nó còn thì nó phải còn cái nghiệp của nó, nó phải đi tái sanh luân hồi. Nó làm cho chúng ta khổ đau mà cái pháp rất tuyệt vời, ngồi đây để mà xả những cái vi tế của tâm mình đến hết tham, sân, si chứ đâu phải là xả cái gì. Bởi vì nó chướng ngại là có tham, sân, si chứ.
(41:15) Mà nó không chướng ngại. Bây giờ con muỗi, nó cắn ở đây, mà biết ngứa là chướng ngại. Mà chướng ngại là do có tham, sân, si, chứ không tham, sân, si làm sao ngứa. Vậy thì phải xả tham, sân, si ra, thì xả cái ngứa ra thì nó sẽ hết chứ có gì đâu. Như vậy rõ ràng là chúng ta đã biết phải xả ra hết. Tới con muỗi mà nó còn ghét, nó cắn mình là vay nợ nhân quả như thế nào rồi.
Cho nên một người tu người ta ngồi một đống, muỗi nó không lại cắn là tại vì người ta hết nhân quả rồi, có nợ nó đâu mà nó đòi. Còn mình thử ngồi thử coi. Mấy con cứ ngồi đi, nhân quả nó còn hay hết là mấy con biết liền. Hết sao mà muỗi bu nó đòi máu mấy con. Đòi nợ máu đó. Phải không? Các con thấy rất rõ mà, chứ nếu là các con hết nợ rồi thì làm sao mà nó lại nó đòi. Tự nhiên cái từ trường của các con mà cái thiện, nó bảo vệ các con. Bởi vì đức Phật nói giới luật là Thần hộ mạng của chúng ta mà. Cho nên thiện pháp nó bảo vệ các con, cái từ trường bảo vệ, làm sao nó có cái nghiệp gì của ai mà đến đây đòi nợ nó được nữa. Phải không? Nó nợ nhân quả mà, rõ ràng mình ngồi đây, muỗi cắn tôi, rồi nói con muỗi cắn chứ không ngờ nó là con nợ của mình nó lại nó đòi nợ máu mình đó. Nó chích mình dù một chút máu đi nữa cũng là nợ máu. Nợ máu sao? mình ăn thịt nó, biết bao nhiêu máu người ta, mình ăn trong bụng mình, bây giờ trả nợ chút xíu mà mình rên à. Cha chút xíu cái la ngứa. Ta lấy có chút xíu.
Mà nhiều con như vậy, nó đòi nợ máu mình có bao nhiêu đâu. Rồi phải dùng cái này, dùng cái kia để tạo những nhân quả, giết hại nó thêm, để tạo cho cái nhân quả ác thêm, chứ làm gì? Có phải không các con nào là dùng thuốc, dùng này kia đủ thứ để ngừa con muỗi, để giết con muỗi vậy, không ngờ là tạo nhân quả ác. Không ngờ là con muỗi là hiện thân để đi đòi nợ máu của chúng ta. Đó bây giờ Thầy nói để mà thấy rõ, khi nào các con có đôi mắt nhân quả, suốt rõ cái đường đi của nhân quả, các con sẽ thấy chúng ta là những người vay nợ của nhân quả. Mỗi mỗi đều có vay nợ.
Nếu mà chúng ta sống toàn thiện, thì chúng ta chuyển hết nhân quả thì không có ai đòi nợ mình nữa thì không có con kiến lại cắn mình. Mình hết nợ rồi, nó đâu có lại nó đòi. Tự cái từ trường của mình, nó làm cho con kiến không đến đó cắn được mình. Từ trường thiện mà, nó có cái sự bảo vệ của từ trường đó. Cho nên vì vậy một người sống đúng giới luật nghiêm chỉnh thì nó sống hoàn toàn an ổn, không có một cái pháp trần nào mà có thể xâm chiếm họ được.
Cho nên Thầy nói cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định, cái từ trường nó bao bọc như cái lồng kiếng, mưa không ướt, nắng không nóng họ. Nó làm như có một cái lồng để che. Cho nên đời nay, Thầy nói dễ gì có người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mấy ông nói chuyện đâu phải chuyện dễ đâu, chuyện người ta có một từ trường như vậy như một cái lồng kính giữ gìn cái nhục thân của người ta ở trong này thì mấy ông phải biết làm gì mà có bụi bặm dính trong người ta được, làm gì có mưa gió mà huỷ hoại cơ thể của người ta được, giữ gìn ngàn đời nó không hư hoại hết. Nhưng mà đây là cái trò ảo thuật thôi. Như vậy mà nó còn màu nhiệm như vậy. Huống hồ là cái Tâm chúng ta hết tham, sân, si là nó đạt mục đích của chúng ta đạt rồi. Chúng ta đâu có cần cái thứ đó. Đó là cái trò ảo thuật để cho người ta biết sự màu nhiệm của đạo Phật như vậy đó. Cái lực nó như vậy đó. Chúng ta không phải vì đó mà chúng ta ham.
Mà vì cái mục đích giải thoát, vì cái sự làm chủ, chấm dứt luân hồi, nó không còn mang cái thân khổ đau này nữa. Đây là mục đích của đạo Phật. Chúng ta không ham Thần thông. Thầy muốn nói Thần thông để rồi Thầy bác Thầy thông là vì mục đích đó. Để không, chúng ta cứ chăm chú vào cái thần thông đó. Thấy nó huyền diệu, mầu nhiệm nhưng mà sự thực cái huyền diệu mầu nhiệm chỉ là cái ảo, trò ảo thuật. Còn cái chính của chúng ta là làm sao cái tâm chúng ta hết tham, sân, si nè? Làm sao chúng ta ly dục, ly ác pháp nè để cho chúng ta bất động trước các pháp trước các cám dỗ của dục lạc thế gian thì đó là chúng ta giải thoát.
Mà giải thoát rồi, thì tức là cái tâm của chúng ta ở chỗ nào, chúng ta biết. Nghĩa là chết chúng ta biết đường chúng ta về, sống chúng ta cũng biết đường chúng ta về. Còn bây giờ chúng ta chưa tới đó thì chúng ta thấy, nghe Thầy nói "Thanh Thản An Lạc Vô Sự" nhưng mà nó có chỉ một chút rồi nó mất. Còn người ta sống hằng ngày người ta sống ở trong đó hoài hoài, người ta sống trong đó, người ta không có mất cái chỗ đó. Cái Niết Bàn của người ta, cái thường hằng, vĩnh viễn đó. Tâm nó không tham, sân, si thì nó phải có trạng thái không tham, sân, si chứ.
(45:16) Trạng thái không tham, sân, si thì trạng thái không nghiệp lực thì nó đâu có làm sao mà tái sanh luân hồi được. Cho nên chúng ta chấm dứt luân hồi. Mà chấm dứt khổ đau ngay liền, chúng ta ở trong trạng thái đó là chấm dứt khổ đau rồi, không còn giận hờn, phiền não gì nữa. Không ai làm gì mình được.
(45:38) Bởi vì khi nào mà chúng ta sống đúng nghiêm chỉnh, giới luật hẳn hòi, đàng hoàng rồi. Thì bắt đầu chúng ta mới kiểm nghiệm từng phút, trước các ác pháp, tâm chúng ta bất động. Người ta chửi mắng, mình không có giận hờn, phiền não, không tham, sân, si nữa. Mình thấy rằng là mình đã ly dục, ly ác pháp. Bấy giờ cho nên ác pháp không có tác động mình nữa. Thấy không?
Cho nên do vì vậy đó, thì chúng ta biết rõ ràng, thì bây giờ chúng ta mới ngồi lại, chúng ta để cho cái tâm nó tự động nó ở trên hơi thở, mà chỉ có quyền nhắc chứ không có được tập trung. Mình không có tập trung trên hơi thở nữa, mà chỉ có quyền nhắc. Bây giờ chúng ta quan sát trên từng Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta xong rồi, bây giờ chúng ta nhắc: "Cái tâm định trên hơi thở". Rồi bắt đầu mình nhắc, cái tâm nó sẽ biết hơi thở ra, vô. Trải qua thời gian mình tu Định Niệm Hơi Thở tức là mình tu hít thở 5 hơi thở đi kinh hành, từ mình nhắc: "Thở ra tôi biết tôi thở ra, hít vô tôi biết tôi hít vô", hoặc "Tôi thở tôi biết tôi đang thở", cái sự tu tập của các con đã thuần quen với hơi thở cho nên khi mà nhắc nó, khi quan sát Thân- Thọ -Tâm- Pháp xong rồi bắt đầu mình nhắc: "Tâm phải định vô hơi thở, đừng có phóng dật ra bên ngoài", do đó bây giờ mới thấy nó biết hơi thở ra vô. Để tự nó biết chứ không có gom vô như hồi mình mới tu 5 hơi thở đi kinh hành, là phải gom cái tâm vô cái hơi thở. Còn bây giờ thì không gom chỉ nhắc, rồi tự động để cho nó biết, chớ không có. Bởi vậy khi mình nhắc vậy thì tự nó, nó định trên hơi thở.
Cho nên mình chỉ cần coi như mình là một người đứng để xem coi cái tâm của mình nó định hơi thở, chứ không phải là mình ngồi đó mà mình ôm ấp nó hoặc là tập trung gom cái tâm của mình vô hơi thở. Mà mình chỉ đứng quan sát để coi nó, cái tâm của mình nó quay vô hơi thở thôi. Coi như là mình người thứ ba để đứng coi tâm nó quay vô hơi thở. Hơi thở là cái đối tượng của cái tâm, coi thử coi nó có định lên không. Mình đứng đây mình xem thôi chứ mình không có tập trung
Phật tử: Vậy là chỉ xem hơi thở ra vào ạ?
(47:34) Trưởng lão: Chỉ xem hơi thở ra vào không có gom tâm trong tụ điểm. Gom tâm vô tụ điểm là khi chúng ta còn tu Định Niệm Hơi Thở, còn tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta sẽ tập trung gom lại còn bây giờ không có gom lại, mà chỉ nhắc nó rồi chúng ta chỉ quan sát coi thử coi nó có thở không đó. Nó thở nặng, thở nhẹ, thở chậm, thở dài, thì kệ nó, không có cần phải thở cho nó có vận dụng để cho nó tập trung. Không có, không có vận dụng bất cứ cái gì hết. Hơi thở sao cứ để vậy rồi coi thử coi cái Tâm của nó sao, có biết hơi thở không? Mình biết, tu một thời gian sau mình sẽ thấy mình đứng mình xem hơi thở, mình xem cái tâm nó bám vô hơi thở không? Hoặc là…
Bởi vì Thầy nói thực sự ra khi mình luyện rồi nó có một người thứ ba với mình. Bây giờ mình hướng tâm: "Tâm như cục đất", thì mai kia mốt nọ có sự kiện xảy ra thì thực sự ra ở trong tâm mình nó nhắc liền: "Tâm như cục đất", khi có chuyện tức giận là bắt đầu nó nhắc ra liền. Thì đó là mình đã tạo được người thứ hai của mình, ngoài mình ra nó còn có người thứ hai tức là người Niệm Xứ rồi.
Cho nên vì vậy khi mà tu Tứ Niệm Xứ, thì ngay đó mình nhắc, cái lệnh của mình nhắc thì mình chỉ nhắc nó là cái lệnh của mình là người chỉ huy rồi thì mình thử coi cái tâm có quay vô không. Thì mình thấy rõ ràng, cái tâm nó quay vô, nó biết hơi thở, cho nên mình không có tập trung, không có gì hết. Nó nhẹ nhàng ghê gớm lắm. Thầy nói thực sự ra tu đến đây là phần vi tế rồi.
Cho nên vì vậy nó không phải còn tập trung như các sư, các Thầy mà tu tập. Nó quá thô rồi, nó không phải đâu, ở đây nó khác. Tới cái giai đoạn của cái tâm nó tự nhiên. Rồi bây giờ nó tự nhiên như vậy, nhưng nó chưa hẳn hoàn toàn là nó kéo dài được, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc. Bây giờ khi mà nó đưa như vậy, không phải là chúng ta cứ để cho nó vậy hoài, mà chúng ta phải tác ý ra. Bây giờ phải quan sát lại Thân, thọ, tâm, pháp coi có chướng ngại không? Chứ không khéo cứ để cho nó biết hơi thở thì cái xúc tưởng hỷ lạc nó sẽ xuất hiện ra liền. Nó xuất hiện ra thì mình cảm giác ra như nó an ổn, chứ sự thực ra mình không có ý thức ở trên Thân- Thọ- Tâm- Pháp của mình.
Mà mục đích của Tứ Niệm Xứ là mình dùng ý thức, tức là Chánh Niệm mà, cái ý Chánh Niệm trên đó, chứ có phải là cái Tưởng ra đâu. Cho nên vì vậy, mình cứ ngồi yên lặng, nó tưởng. Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta lại nhắc: "Cái tâm bây giờ phải quay trở lại" nghĩa là lìa hơi thở đó, "phải quay trở lại quan sát Thân- Thọ- Tâm- Pháp" của mình nữa.
Bây giờ nó bắt đầu quay lại nó quan sát y như vậy lần lượt, lần lượt cho đến Pháp xong rồi, bắt đầu nó ra lệnh, tự nhiên nó phản xạ một cách, khi mà tu nó quen rồi, nó ra lệnh nó nhắc "Tâm định lên hơi thở liền", bắt đầu thì cứ mình quan sát Tâm nó quay vô nó biết hơi thở ra vô, cái hơi thở của mình. Khi mình nhắc rồi, thì cái hơi thở nhẹ chậm như thế nào, thì cái tâm bắt đầu nó quay vô, thì nó vẫn thấy biết như thường.
(50:13) Còn mình ra lệnh thì mình thấy cái lệnh của mình hoàn toàn nó đứng ở ngoài góc độ quan sát. Cho nên cái lệnh đó là lệnh của Pháp Như Lý Tác Ý, cái đạo lực của Pháp Như Lý. Mà mình tu tập được đến cái người thứ Ba ngoài đối tượng của Tâm, với Tâm rồi. Tức là cái người thứ Ba đó là đạo lực của mình. Khi nào nó hiện ra cái đạo lực nó mới đúng. Còn chưa có đạo lực là người phải tu tập Tứ Chánh Cần rất nhiều, chứ tu lơ mơ không được.
Cho nên vì vậy nhớ, là cư sĩ các con luôn luôn lúc nào những buổi tối trong gia đình mình, buổi tối thì nó sinh hoạt thì có hát ti vi, này kia. Chỉ có buổi khuya là tốt nhất cho quý vị tu. Không lẽ mình bây giờ mình lại còn ham ngủ nữa sao. Cho nên các con nhớ Thầy dặn con, khi nào về vợ con tối ngủ rồi kệ nó. Khuya mình ngủ chừng ít tiếng đồng hồ, thức dậy lúc đó khuya hai, ba giờ cũng được miễn là mình thức dậy mình tập cho nó tỉnh táo cho nó đàng hoàng. Rồi bắt đầu vô ngồi quyết định là ngồi tu một giờ Tứ Niệm Xứ. Rồi tu rồi đi ngủ, không cần nữa. Mà tu một giờ thôi rồi đi ngủ, mà tu rồi đi ngủ khoẻ lắm. Mà trước khi đi ngủ phải nhắc nó: "Tâm ngủ không có chiêm bao, mộng mị gì hết, ngủ cho ngon, ngủ cho tốt, ngày mai làm việc nữa".
Cứ như vậy, rồi ban ngày sống ngăn ác, diệt ác; ban đêm tu Tứ Niệm Xứ. Rồi tới lúc tự cái tâm nó quay vô rồi, thì bất kỳ ở nơi đâu cũng phải về đây hết để Thầy dạy nhập Định. Chứ còn Tâm nó quay vô, biết hơi thở ra vô mà không có về đây thì kể như là không biết các phương pháp hướng tâm để nhập các Định. Không phải là, giai đoạn này là giai đoạn tu Tứ Như Ý Túc. Bốn cái Như Ý của mình. Lúc bấy Thầy mới dạy cách thức tu Tứ Như Ý Túc.
Chứ bây giờ mình hướng bậy thì không được à, mình hướng bậy tới chừng đó nó đi lạc rồi vô đó không được. Ví dụ bây giờ mình thấy nó được vậy mình nhắc "Tịnh chỉ hơi thở đi. Vô đi", trong khi đó nó tịnh chỉ bất tử đó, mình không có thở nữa, bà con người ta xúm chôn mình đó, uổng của đó, tu tới đây rồi mà người ta chôn cất oan mạng đó. Phải không? Hồi đó cái tâm để nó định lên hơi thở, một thời gian bao lâu tuỳ theo nó, khi nó muốn hướng ra, ví dụ như độ khoảng chừng 10 hay 20 hơi thở, thì bắt đầu mình phải tác ý thì nó an lạc. Nhưng mà con phải tác ý.
Phật tử: Thưa hỏi
(52:35) Trưởng lão: Không được, cảm giác đó thuộc về tưởng rồi. Tiến trình bằng ý thức không được tiến trình bằng tưởng thức. Còn cái cảm giác đó là tưởng thức đưa đi.
Ờ! Đó là một cái năng lực của tưởng mà. Như vậy là con dùng cái pháp tưởng nó cũng hết nhưng mà không phải. Bởi vì cái pháp tưởng nó chỉ hà hơi cho con thôi. Bây giờ có người nói bệnh ma tà rồi rước tới ông Thầy phù thuỷ, ông cũng vẽ bùa, ông đọc Thần chú rồi ông tụng kinh tụng kệ gì đó, ông kệ một hơi, con ma nó xuất ra thì họ cũng thấy hết à.
Bởi vì nó có cái năng lực của tưởng. Nó giúp cho hết nhưng mà mai mốt nó trở lại. Còn cái này không, con nếu mà con trị bằng ý thức của con, bất kì nó đau ở chỗ nào đó, như ở cái lưng con. Bắt đầu con ra lệnh: "Cái Thọ là vô thường, cái lưng đau này phải rời khỏi cái thân này đi". Con ra lệnh như vậy bằng ý thức của con thôi, cái năng lực của ý thức của con sẽ mạnh, nó mạnh mà nó thực tế hơn. Còn cái kia tưởng thức, khi con điều khiển bằng cách con phải giữ tâm yên lặng vậy, mà con không có cái năng lực của cái pháp truyền lệnh.
Do đó, con không thể nào mà làm chủ được nó đâu. Bây giờ nó trị hết, mai mốt nó sanh bệnh khác nữa. Và cứ như vậy, nó chỉ chẳng qua là cái nhân quả thiện ác của nó giảm theo năng lực của tưởng thôi. Bởi vì dù là các pháp nào nó sinh diệt vì nó ở trên cái tâm của con nó khởi ra thì lúc bây giờ nó là chướng ngại pháp của con. Bởi vì hoàn toàn cái thật là thanh thản an lạc, vô sự ở trên bốn cái chỗ này. Mà nó có một cái gì khởi lên ra trên Tâm con, nó sanh diệt trên tâm con là sai hết.
(54:10) Cái đó con tu theo Thân Hành Niệm. Cái đó đúng theo cái pháp Thân Hành Niệm chứ không phải Tứ Niệm Xứ. Ờ! Rồi bây giờ bắt đầu Thân Hành Niệm thì cái thân của mình hành cái động nào đó, mình theo dõi nó. Bây giờ nó đau nhức, cũng là cái hành động thôi, mình biết. Đó là Thân Hành Niệm. Không phải Tứ Niệm Xứ con. Còn Tứ Niệm Xứ là hoàn toàn ngồi đây quan sát bốn chỗ để đẩy lui chướng ngại pháp thì Tứ Niệm Xứ. Còn cái đó là Thân Hành Niệm, bây giờ thân nó đưa lên, nó biết, hạ tay xuống nó biết.
Bây giờ cái mình cúi xuống mình lạy nghe nó đau cái lưng, mình biết. Thì đó là cái hành động của cái thân nó làm cho mình cảm giác. Gọi là mình biết từng chút, từng chút cái động dụng cái thân của mình lúc đó. Thì cái đó gọi là Thân Hành Niệm. Nó vừa là hành động nội, mà vừa là hành động ngoại. Cho nên hành động nội và hành động ngoại của nó, đó là nó thuộc về Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Bởi vì con không có hỏi rành. Bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó thực hiện nhiều cái pháp, cũng như bây giờ con tu cái Tứ Chánh Cần con cũng phải thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, chứ ngoài Tứ Niệm Xứ lấy gì con biết nó là ngăn ác, diệt ác ở đâu.
Cũng phải là ngăn ác diệt ác ở Tâm, Thân con chứ đâu. Thì đó cũng là Tứ Niệm Xứ nhưng mà ví dụ như con tu Định Niệm Hơi Thở, nó cũng là Tứ Niệm Xứ bởi vì nó là hành động của nội của Thân cho nên con tập trung ở trong hơi thở, con nhiếp tâm ở trong hơi thở. Con cũng đều tu Tứ Niệm Xứ gọi là tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải là tu Tứ Niệm Xứ. Thân Hành Niệm…
Phật tử: Thầy dạy dùm con về Tầm, Tứ.
(56:14) Trưởng lão: Tầm, tứ phải không? Tam Ấn, tứ Ấn, theo con nói cái
Phật tử: Con gọi là… Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã đó… tới mấy trăm … ngồi đó mà quán giống như Thầy dạy vậy đó…mình quán ở trên Thân … còn cái Thọ đó đến với mình nó lại ra đi chứ đâu phải nó ở hoài với mình đâu.
Trưởng lão: Không phải. Bây giờ Thầy nói như thế này, đức Phật đã xác định cho tam Ấn và tứ Ấn ở trên Tứ Niệm Xứ. Bây giờ đức Phật nói: "Thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã" là Tứ Ấn, mà nói: "Thân vô thường, khổ, vô ngã" thì nó là Tam Ấn. Thì đây là xác định gọi là Ấn là xác định cho chúng ta cái này là chắc chắn hễ cái gì vô thường là cái đó khổ, mà cái đó khổ là vô ngã thôi, không có cái ngã. Cho nên đây là cái xác định thôi. Vì vậy, mà chúng ta nắm được cái xác định này chúng ta biết các pháp là khổ, vô thường, vô ngã thôi.
Cho nên đó là để cho chúng ta xác định được các pháp như vậy, để mà chúng ta đừng có dính mắc. Nhưng mà sự thật chúng ta chỉ học cho nó suông. Chứ nó không phải vậy, mà trên con đường tu nó phải tu nó khác. Nó không phải theo cái kiểu, cái kiểu con hiểu, con hiểu như vậy nó thành ra Tưởng. Cho nên phải biết cái Pháp tu. Thí dụ như bây giờ trong cái giai đoạn con, con phải tu Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần, hoặc Tứ Niệm Xứ mà Tứ Bất Hoại Tịnh, hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà tu Tứ Niệm Xứ; hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà lại tu Tứ Thánh Định. Bởi vì trên cái thân này nó có Định ở trên này Thân nên tu Tứ Niệm Xứ. Cho nên vì vậy, thì cái hiểu biết của con nó có cái hiểu biết tổng quát mà nó kêu là nó tạp nhạp như ở trong bài kinh của kinh, nó lộn xộn lắm nó không có thứ tự.
Phật tử: Thưa hỏi
(58:22) Trưởng lão: Còn bây giờ Thầy dạy cho các con thì khi nào nó có những điều kiện gì cần thiết thì hỏi thêm thì Thầy dạy cái đó để mà tu. Còn bây giờ dạy Tứ Niệm Xứ trên thân này để đẩy lui chướng ngại pháp thôi. À con phải biết, cho nên vì vậy thứ nhất là thường xuyên để tác ý ra để dùng ý thức chứ không được dùng tưởng.
Nghĩa là đừng dùng cái tưởng, thí dụ như bây giờ cái hơi thở, thở ra thở vô chỗ mũi này mà mình thấy nó đi vô phổi của mình là mình tưởng. Thực sự ra con đường đi mình thấy nó vô phổi rồi nhưng mà đừng có tưởng theo nó, như vậy cho nên mình biết ra biết vô ở đây thôi. Một cách tự nhiên, hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô.
Bởi vì đức Phật không có dạy chúng ta dùng cái tưởng mà để đưa nó đi. Thành ra do vì vậy mà chúng ta theo cái lộ trình của đạo Phật nó thoát ra khỏi cái vọng tưởng bởi vì cái tưởng nó sẽ dẫn chúng ta đi vào cái lệch, cái lệch cho nên chúng ta đừng có dùng tưởng trong bước đường tu. Mà nếu mà muốn không dùng tưởng thì luôn luôn phải tác ý. Tác ý ra thì cái ý thức của chúng ta mới có, chứ nếu mà không tác ý thì cái tưởng nó sẽ làm cho ý thức mất đi, thì chúng ta tu không có đến đâu được hết đâu. Cho nên ở đây mục đích của chúng ta là đường đi chúng ta thấy rất rõ. Là tới cuối cùng nó phải là Định Hữu Sắc- Định của ý thức chứ không phải Định của tưởng thức. Cho nên chúng ta phải thực hiện tới Tứ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.
Vì vây cái Định này nó xác định cho con đường của chúng ta đi nó cụ thể rõ ràng mà cái Chánh Định này thì nó nằm cái nẻo thứ Tám của Bát Chánh Đạo. Cho nên vì vậy nó xác định được cái Tứ Thánh Định là con đường của đạo Phật. Là cái Định đó mới đúng. Cho nên vì vậy mà, chúng ta phải xả hết tất cả những cái tưởng của chúng ta ra thì chúng ta mới đi vào cái Định Hữu Sắc này. Mà nói Định Hữu sắc tức là định của ý thức, mà định Vô sắc là Định của tưởng thức.
Chúng ta phải hiểu như vậy. Chúng ta bây giờ là phải hoàn toàn lìa xa cái Định Tưởng- cái Định mà vô sắc, không có được để cho một chút xíu nào mà xen trong đó. Bởi vì nhiều khi chúng ta ngồi đây mà cái tâm không vọng tưởng mà lại là Định Vô sắc, chứ nó không phải thuộc ý thức. Ý thức của chúng ta là phải ly tham, sân, si, nó mới thuộc về định của ý thức. Nó như vậy nó mới là Sơ Thiền mới được.
Cho nên vì vậy luôn lúc nào chúng ta cũng phải luôn tác ý. Cho nên đức Phật nói phải tác ý mà, thiện xảo tác ý, khéo léo tác ý chứ không phải là dụng nó thì nó cũng không giải quyết được, nó sẽ bị tưởng xen vô. Cho nên phải khéo léo trên bước đường tu. Bây giờ, Thầy dạy thì các con cứ theo chỗ nào hiểu, chỗ nào tu, đừng bao nhiêu cái gì mà tới giờ hiểu, xả xuống, bỏ hết đi. Nó trật rồi, nó trật con đường rồi.
(1:01:00) Không có nên mà tu theo đó. Không phải là Thầy bác các pháp của các Thầy đâu nhưng mà vì nó không đưa các vị Thầy của chúng ta đi đến cái nơi cuối cùng, đến nơi làm chủ. Cho nên bây giờ coi như bây giờ chúng ta bỏ hết, coi như chúng ta bắt đầu đi trở lại. Bây giờ bắt đầu đi trở lại thì Thầy dạy sao cứ làm vậy. Bây giờ về tập ngồi 5 hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành. Ra lệnh từng hành động đứng lên ngồi xuống để chúng ta có cái quyền làm chủ nó. Đó là cách thức thứ nhất.
Cách thức thứ hai là hằng ngày chúng ta sống tiếp duyên với các pháp chúng ta phải luôn luôn thấy bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, không được thấy nó đúng sai. Đó là cách thức để mà cứu chúng ta để ngăn ác, diệt ác. Đó là cái phương pháp tu để mà sống trong các pháp. Gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, không bị dính mắc.
Cái thứ ba là trong những đêm khuya thanh vắng thì chúng ta phải tu, ngồi quan sát trên bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp có chướng ngại thì đẩy lui, mà không chướng ngại thì để cho nó thanh thản an lạc vô sự. Còn một niệm gì khởi ra đều là hoàn toàn tưởng hết. Chúng ta phá hết. Có như vậy thì chúng ta mới tu được. Và như vậy thì coi như là Thầy đã nói như vậy thì giờ chúng ta về cần phải thực tập. Rồi thực tập rồi thì còn phải thưa hỏi. Chớ đâu phải là nói mà về nó làm đúng được đâu. Nó còn sai. Cho nên vì vậy mà bây giờ về thực tập, về thực tập rồi mới thưa hỏi lại.
(1:02:13) Còn bây giờ con chuẩn bị con về. Thì lúc bấy giờ đó sẽ trình lại Thầy. Sau đó viết thơ gửi lên Thầy. Giờ con tu đêm như vậy, con tu như vậy con thấy nó thanh thản an lạc, rõ ràng. Bởi vì Thầy đã đặt cho các con những cái từ: "Thanh thản, an lạc, và vô sự". Mà cái Tâm hoàn toàn nó mất thanh thản, an lạc, vô sự. Bốn chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp này nó không có thanh thản an lạc vô sự thì nó sai. Mà có thanh thản an lạc vô sự là đúng. Con nhớ chưa? Cứ như vậy rồi sau đó viết thơ trình bày. Không phải nói bây giờ cái làm được liền đâu. Mà phải tu, rồi mới rút tỉa từng kinh nghiệm mới thấy được. Có những cái gì Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì còn Thầy, chứ nếu mà mất Thầy thì chắc chắn là không ai chỉnh cho.
Phật tử: Con về con tu rồi con kiếm được Thầy con mừng.
Trưởng lão: Chớ còn bây giờ các con hỏi lung tung đây, Thầy một mớ kinh sách, kêu là một mớ kinh sách, một mớ hiểu biết thì coi như là các con rối nữa. Cho nên Thầy không muốn cho các con thêm rối. Bởi vì nó nhiều quá, nó rối lắm. Tốt hơn các con cứ giữ đúng theo lời Thầy dạy, cái nào đã tập hôm nay thì phải làm cho đúng.
Phật tử: …Con quyết chí theo Thầy…
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con chuẩn bị đi về. Lo về tu, nói nhiều quá.
(1:03:31) Phật tử: Xin Thầy giảng cho con lại về Dục Lậu, Hữu Lậu và Vô Minh Lậu ạ?
Trưởng lão: À. Bây giờ Thầy nói như thế này để cho thấy cái Dục Lậu. Cái Dục Lậu là khởi ham muốn. Ví dụ như mình thấy cái bánh muốn ăn thì mình biết đây là Dục Lậu, phải không? Còn cái Hữu Lậu, một cái vật mà mình có mà người ta xin mình không cho là mình bị Hữu Lậu. Mình tiếc đó là Hữu Lậu đó. Cũng như bây giờ Thầy có đồng hồ mà con xin, Thầy không cho con là Thầy bị Hữu Lậu. Còn Thầy cho con là Vô Lậu. Thầy cho con biết thêm là cái Vô Minh Lậu, người ta nói gì đó mà mình phiền não tức là mình Vô Minh. Còn mình không có Vô Minh thì không có phiền não. Rõ chưa?
Phật tử: Dạ
Trưởng lão: Rõ rồi. Khi nào mà có cái gì mình sinh chướng, thấy người ta đi đó mà mình chướng thì tức là Vô Minh, còn mình không chướng tức là Không Vô Minh. Thầy giải thích để rõ thôi.
Phật tử: Trong lúc tu Tứ Niệm Xứ, con thấy có 6 cái Tưởng, tức là Sắc Tưởng, Thanh Tưởng, nó tới thì có phương pháp gì để đẩy lui nó?
Trưởng lão: Mình đối trị cái pháp đó bằng cái Pháp Như Lý Tác Ý của mình. Mình biết "Đây là cái Sắc tưởng, mày hãy lui đi. Ở đây hoàn toàn, ta sử dụng ý thức cho nên mày không được xen vô." Mà nếu mà nó không chịu lui. Nó cứ hiện hình ảnh đó hoài thì tức là tao đứng dậy đi cho mày hiện. Mình đứng dậy đi kinh hành. Tao không thèm ngồi đó nữa thì nó sẽ xả. Còn Thinh Tưởng nó cũng vậy. Bây giờ cứ nghe âm thanh nói hoài. Nhất định "Mày là thinh tưởng, mày phải rời khỏi đây. Tâm phải thanh tịnh, không có nghe tiếng bậy bạ. Vậy cái Thinh tưởng này phải đi. Mà nếu mà không đi tao đứng dậy tao xả. Mày cũng phải đi”.
Phật tử: Thưa Thầy, trong lúc tu mà chưa đến bữa ăn mà nó đói tức là Dục Lậu ạ?
Trưởng lão: Là Dục Lậu đó!
Phật tử: Khi đó thì quán thế nào?
Trưởng lão: Quán mình nói: "Giờ ăn thì phải đúng giờ ăn thì ăn chứ không phải mày đòi. Bây giờ đây mày đòi là do cái tâm tham của mày rồi. Dục Lậu rồi, cho nên vì vậy còn lậu hoặc là còn thấy đói. Cho nên mày phải đi đi. Tao nhất định là tao không theo mày". Do đó tới giờ ăn, ít bữa hôm sau, cứ đúng giờ ăn con ăn, nó quen. Còn con thấy bây giờ đói, giờ mới chưa tới 11 giờ mà nó muốn đi ăn, con đi ra bưng cơm ăn thì nó sai con rồi đó. Tức là con bị Dục Lậu. Phải không?
Phật tử: Như con lúc 2 giờ dậy tu hành thì bắt đầu nó đói mà mình ngủ thì nó không có đói.
Trưởng lão: Vậy là nó bị Dục Lậu cho nên mình ra lệnh: "Mày là Dục Lậu, mày làm cho tao khổ, mày đói, mày là cho tao muốn ăn cho nên nó mới khổ. Nó mệt hoặc này kia, do đó nhất định là mày không có được đói. Tao bây giờ tao chết, nhất định là tao cũng phải giữ giới luật."
Cho nên mình ép, mình ra lệnh nó, mình không làm theo nó. Ít bữa cái nó hết trơn, mà nó không có đói. Mình là anh hùng, mình chiến thắng. Mình là chiến sĩ mà. Mình thắng mình là cái chỗ này nè. Nhất định nó thế nào nó cũng sai mình tầm bậy rồi. Thì do cái sai tầm bậy đó là Dục Lậu rồi cho nên mình quyết định là thấy mặt: "Tao biết mày là Dục lậu, mày làm khổ biết bao nhiêu đời rồi. Bây giờ tao đi tu rồi, mày còn muốn đến đây mày làm khổ nữa sao được. Tao nhất định tao quyết dứt mày ra".
Bây giờ thí dụ nó làm gì đi nữa. Con không làm theo nghe nó thì tức là con làm chủ đó. Hiểu không? Cho nên vì vậy gặp Thầy mà thứ đó là Thầy quét nó ra, đói chết bỏ bây giờ mày nằm đó mày chết, chứ tao nhất định không ăn. Đúng giờ ăn. Mà như vậy mà nó quen đó mấy con. Mình phải làm chủ chứ. Bây giờ lý luận gì tao cũng không nghe. Bây giờ mày chết bỏ chứ nhất định, tao không nghe lời mày nữa. Tao làm chủ mày mà chứ đâu để mày sai tao.
Phật tử: 5 hơi thở kinh hành là mình ước lượng 5 hơi thở chứ không có được đếm ạ?
Trưởng lão: Ban đầu mình đếm, sau đó nó quen rồi thì ước lượng. Nghĩa là tới khoảng thời gian đó buộc cái pháp hướng nó phải đi ra thôi.
(01:07:11) Bởi mình tu tập quen rồi. Mới đầu thì mình đến một, hai, ba, bốn, năm hơi thở. Nhất định là phải hướng ra. Chứ mới đầu mà con ước lượng, nhiều khi ngồi im quá mà tác ý ra cái nó động, cứ ngồi luôn đó, tức là nó mất pháp hướng rồi. Phải không? Cho nên bây giờ mình đếm một, hai, ba, bốn, năm. Tác ý ra, không có cãi lệnh, tác ý ra nó hướng tâm nó nhắc, rồi mình hít thở lại một, hai, ba, bốn, năm thì mình tác ý. Mình làm chủ, mình điều khiển mà.
Sau khi quen rồi, con không ước lượng, tới đó, nó cũng nhắc nữa. Con cứ thở tự nhiên, con không đếm, cái tới chừng đó, nó nhắc ra à. Tự nó, nó nhắc ra tới đó nó nhắc, nó giữ ý tứ của chúng ta. Còn chừng nào cái tâm nó không phóng dật, nó quay vô được rồi thì con không cần nhắc gì nữa. Nó định rồi. Tới đó tại nó định rồi, nó không nhắc nữa.
Phật tử: Tức là có người thứ ba rồi đó
Trưởng lão: Đúng rồi, nó có người thứ ba rồi đó.
Phật tử: Kính bạch Thầy, giống như ngồi ở môi trường thân cho ấm áp, kín đáo, đừng có để muỗi cắn. Chọn môi trường không có tiếng ồn, rồi quán xét thấy Thân- Thọ- Tâm- Pháp không có chướng ngại, thì bắt đầu nó kêu nó vô hơi thở.
Trưởng lão: Kêu nó định vô hơi thở. Mình ngồi quan sát coi nó theo hơi thở làm sao
Phật tử: Đồng thời mình hướng tâm, mình nhắc tâm. Kiểm lại nữa.
(01:08:24) Trưởng lão: Hướng tâm nhắc lại nữa. Đúng đó. Cái đó là Tu Tứ Niệm Xứ đó. Con có trục trặc không? Nó không trục trặc thì nó thanh thản. Biểu nó định vô hơi thở.
Phật tử: Thí dụ như nó bị tê giò, tê cẳng thì ra lệnh
Trưởng lão: Ra lệnh: "Bây giờ tê giò, tê cẳng phải xả đi. Cái Thân Thọ mà tê này phải xả". Mà mình ngồi thấy nó không hết tê. Tao biểu mày xả, mày không nghe tao, tao đứng dậy, xem mày còn tê không. Rồi nó phải xả thôi. Phải không, con thấy không? Thì sau đó, mình ra lệnh cái nó ngán mình rồi. Ông này ông bảo đừng có tê mà nó còn tê, thì coi chừng ông ấy đứng dậy.
Cho nên vì vậy mà bắt đầu nó hết tê. Mình ngồi nó cũng không tê, bởi vì mình tập ra lệnh, sau đó nó có đau nhức cái chỗ nào, mình ra lệnh, tự nó, nó đi chứ mình khỏi cần phải xả như vậy. Như bây giờ, rù rì nó không nghe, nó còn tê. Mình đứng dậy đi, cái nó hết. Con hiểu chỗ đó không? Chứ đừng có để ráng ngồi chịu tê
Phật tử: Cái Tứ Niệm Xứ đó Thầy. Mình ngồi, rồi mình đi, mình đi kinh hành, bình thường trong bốn oai nghi ạ?
(1:09:28) Trưởng lão: Thân - Thọ - Tâm - Pháp chứ không phải là tu Thân Hành Niệm hay Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nó không có cần, Thầy nói bây giờ đứng dậy đi. Bây giờ ví dụ như mình tu Tứ Niệm Xứ, đứng dậy đi cũng vẫn là quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Mình đi mà trong khi mình giữ hơi thở, tâm nó quay vô.
Nhưng mà khi đi đúng cái khoảng thời gian năm- mười hơi thở cái mình nhắc quan sát Tứ Niệm Xứ, vẫn đi mà quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Tứ Niệm Xứ là đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hết. Mà ngồi tư thế nào cũng được chứ không phải đợi ngồi kiết già đâu. Nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ là nó không có đòi hỏi phải kiết già. Lúc nào cũng tu được, chỗ nào cũng tu được hết nhưng mà phải yên tĩnh, phải sống độc cư. Cái điều đó là đặc biệt phải có. Chỗ không yên tĩnh là không tu được.
Phật tử: Kính bạch Thầy, con làm việc con hay tu tập trung trên hơi thở cũng được ạ?
Trưởng lão: Cũng được. Coi như cái chỗ mà để cái tâm nó nghỉ ngơi là hơi thở. Gọi là định đó, là nó nghỉ.
Phật tử: Thưa hỏi
(1:10:39) Trưởng lão: Nó bị nó bám vô hơi thở. Nó định, thì biết rồi như vậy, nhưng mà cái Định đó nhiều khi nó bị tưởng nữa. Con nên nhớ rằng cái tâm mình chưa ly dục, ly ác pháp. Người ta còn nói mình còn tức giận thì mình biết cái định này là định tưởng. Nó cũng bám vô hơi mà nó là định tưởng là cái tâm chưa ly dục.
Phật tử: Nó có thời gian, nó bị gián đoạn… nó đòi, nó tham, nó muốn …
Trưởng lão: Nó quán hơn, đừng có để cho nó định. Bởi định đó là định tưởng. Thành ra nó gây cho mình thích thú ở trong cái định. Nó tham cái định. Thì cái đó là cái sai rồi. Ở đây nó không có ham, mà nó ham ly dục ly ác pháp thôi.
Phật tử: Trong vòng năm hơi, mười hơi là phải quán ạ?
(1:11:22) Trưởng lão: Phải tác ý, phải quán thôi, để cho nó giữ ý thức của nó chứ không khéo nó thích thú ở trong cái định. Mà cái định đó là định tưởng. Thầy nói định tưởng còn định của Phật là do ly tham, sân, si. Tâm hết tham, sân, si là tự động nó quay vô thôi. Chứ nó không phải bây giờ mình ngồi là nó bắt đầu nó quen bởi vì mình tập, hồi nào tới giờ mình chưa có biết cách thức tu cho nên mình cứ lấy hơi thở để mình tập trung cho nên bây giờ cái tâm của mình nó quen với hơi thở chứ còn sự thật ra cái tâm chưa ly dục ly ác pháp, nó ức chế.
Cho nên bởi cái người mà hướng dẫn sai rồi nó sẽ tu sai, đến bây giờ nó khó gỡ. Bởi cứ ngồi lại nó quay vô nó định mà nó định nó ức chế. Nó không chịu xả cho nên nó tác ý ra nó cũng không chịu nữa. Nó không chịu tác ý, tác ý ra bị động. Cho nên nó cứ ngồi im vậy, nó biết hơi thở ra vô thì nó thích. Cho nên đó là cái bệnh, cái bệnh thiền. Mấy người tu thành bệnh thiền chứ không phải thiền, không phải định.
Phật tử: Thầy nói con hiểu rồi.
Trưởng Lão: Cái bệnh thiền. Cho nên nó thành bệnh nó mới thích. Còn cái này tự động nó không có thích. Ly dục ly ác pháp nó sinh hỷ lạc. Hỷ lạc không phải cái thích của mình. Nó đến với mình mà nó đến một cách tự nhiên do ly dục sinh hỷ lạc. Thành ra cái hỷ lạc đó nghe nó thanh thản, an lạc, nó không có thích. Mà tại vì cái tâm nó an lạc chứ mình đâu có thích gì đâu. Nó không có cái thích ở trong đó. Có cái thích là nó trật. Quý vị cứ ngồi thiền mà thích thì tức là mấy người đang dục.
Phật tử: Đúng rồi nó tham.
Trưởng lão: Tham! Bởi vậy Thầy nói nó sai. Thầy nói ngưng, xả cái này đi. Tu cho đúng. Không chịu.
Thôi bây giờ các con chuẩn bị về. Lo để tối rồi. Còn con bây giờ cần cái gì Thầy sẽ dạy cho.
(1:13:04) Phật tử: Bạch Thầy, con muốn hỏi trạng thái của ý thức hoạt động và trạng thái của tưởng thức hoạt động. Hai cái trạng thái nó khác nhau như thế nào?
Trưởng lão: Khác nhau chứ con. Đâu có giống nhau. Cái trạng thái của ý thức là có đối tượng trước mặt. Còn trạng thái của tưởng thức là không có đối tượng. Con hiểu chỗ đó không?
(1:13:20) Nghĩa là không có vật trước mặt mà con lại nghĩ đến vật đó là tưởng nó hoạt động. Còn có cái vật này trước mặt, con thấy có cái máy này trước mặt con thấy rõ ràng cái máy này, cái này nó tròn, cái này nó sao, con thấy. Còn giờ không có con cũng thấy nó tròn nó méo ở trong đó thì đó là con bị tưởng.
Phật tử: Theo như Thầy nói, mình đang đi kinh hành, mình cứ mãi đi là cũng rơi vào tưởng là như thế nào ạ?
Trưởng lão: Nó cũng sẽ vô tưởng bởi vì Thầy nói cứ tác ý ra. Cái ý thức của mình tác ý ra nó mới hết. Còn mình cứ để mình giữ…
Phật tử: Biết môi trường mình đang đi, chẳng hạn như cái nền sân nó thế nào, nhà như thế nào?
Trưởng lão: Phải rồi. Nó là ý thức
Phật tử: Dạ, đó là ý thức còn mình quên đi. Chân mình cứ bước, không biết được cái điều đó thì đó là tưởng thức.
Trưởng lão: Con đi hả con? Con có đi với nó không con? Vậy hả con? Có lấy áo mưa theo không con? Ờ!
(1:14:16) Trưởng lão: Đó thì Thầy nói như vậy. Con thấy, bởi vì cái ý thức với cái tưởng thức, chúng ta thấy dễ lắm, nếu mà chúng ta ngồi mà yên lặng như vậy mà quên tác ý là bị tưởng rồi, tưởng nó xen vô rồi. Cũng biết đó chứ mà tưởng mà không hay.
Phật tử: Tức là cái thân làm việc theo cái tưởng hoạt động. Ý thức không hoạt động nữa thì nó không có biết được con kiến hay cái gì nó ở dưới chân mình nữa.
Trưởng lão: Nghĩa là cái ý thức của mình, đi mình thấy con kiến biết liền, đó là ý thức. Mà đi mà không biết con kiến, thì nó thành tưởng thức. Bởi vậy Thầy nói ý thức là phải có cái vật ở trước mặt của mình. Có cái đối tượng trước mặt là ý thức. Mà nó không có cái vật trước mặt của mình thì nó không phải là ý thức. Bây giờ hơi thở mình có thấy được đâu, mình có nghe được hơi thở đâu mà bây giờ nó ngồi nó cũng biết hơi thở thì rõ ràng nó là bị tưởng. Cho nên vì vậy tu hơi thở người ta phải nhắc: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Nhắc là ý thức. Còn nếu không nhắc là bị tưởng . Phải không?
Phật tử: Không nhắc là tưởng. Câu tác ý của mình là đối tượng của ý thức
Trưởng lão: Đối tượng của ý thức. Còn cái kia nó đâu có đối tượng được bởi hơi thở đâu có thấy. Nó chỉ có cái rung động của cái thân.
Phật tử: Sợ cái tĩnh lặng. Mà tĩnh lặng không có đối tượng để ý thức hoạt động.
(1:15:28) Trưởng lão: Bởi vậy cái người không hiểu không có kinh nghiệm tu rồi cứ dạy chúng ta tu. Tưởng mà không biết. Trời ơi! Tới chừng mà Thầy biết được, Thầy nói đúng là thiên hạ tu sai rồi. Ai cũng tu sai hết, không có người nào tu đúng hết. Còn bây giờ mình nói mình đúng thì người ta nói mình thằng điên, ai cũng tu vậy hết, có mình mình không giống ai hết thì người ta nói mình điên chứ sao. Cho nên nó khổ cái nỗi như vậy, Thầy sửa không biết bao nhiêu năm mà Thầy ở đây, Thầy sửa chúng không, mà họ cứ cãi Thầy, họ bỏ Thầy họ đi bởi vì Thầy là thằng điên. Nói không có giống ai hết. Còn họ mới giống người này, giống người kia. Thì nó mới… (Thầy cười)
Phật tử: Thưa hỏi. Mai con có được gặp Thầy không?
(1:16:28) Trưởng lão: Cứ hễ có cái gì trục trặc cứ xin cô Út ra gặp Thầy. Còn không có trục trặc thì cứ phải tập. Nó không biết cái gì thì mình phải hỏi, còn nó có những cái gì nó, nó không đúng thì phải hỏi mới biết được. Chứ không có gì.
Đó cho nên hôm nay, Thầy nói các con thấy, mình làm sao mình phân biệt được tưởng thức và cái ý thức. Mà Thầy nói, các con nhận xét nó dễ quá mà. Mà vốn cái mục đích của Thầy muốn phân biệt cho các con thấy Thiền Định của Phật nó ở trong cái Thiền Định của Phật, là Thiền Định của ý thức chứ không phải Thiền Định của tưởng thức.
Các con hiểu không khi đức Phật theo ngoại đạo thì tu, nó nhằm ở trong cái Thiền Định của tưởng thức cho nên nó nhập từ Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Đó là Thiền Định của tưởng. Cho nên đức Phật đã bỏ cái này rồi.
Thế mà đi trở lại Tứ Thiền thì đức Phật đã thực hiện Tam Minh để làm chủ rồi. Mà bây giờ các Tổ lại xách cái định này vô trong này nói của Phật. Chứ Thầy nói trong Kinh Phật, bài Kinh nào nó cũng có ba cái Tứ Không này hết. Thầy nói thiệt là, sao mà người ta ngu quá vậy? Ông Phật ông đã quăng ra rồi bây giờ lại xách vô đây rồi nói ông Phật nói.
Bây giờ cho nên vì vậy nó rối ren. Có một số tu sĩ, họ rối ở chỗ cái thiền Hữu Sắc với thiền Vô Sắc, con thấy không? Họ rối dữ lắm, họ không biết tại sao kinh cũng có cái bài kinh này nói Tứ Thiền thôi mà không nói Tứ Không, mà có những bài kinh thì nói Tứ Không. Họ không biết sao. Mà không ngờ là các Tổ đút vô, đưa vô chứ trong kinh điển của Phật hoàn toàn Phật quét ra hết. Phật không chấp nhận cái ngoại đạo. Cái đó là không đúng rồi, nó không giải thoát rồi.
Thế mà bây giờ mình đọc những bài kinh trong đó đức Phật đã xác định mình tu không có thấy nó chứng được, đức Phật bỏ rồi mà giờ lại đút vô. Mà may có những bài kinh mà đức Phật bỏ ra đó. Bây giờ còn chúng ta mới biết được. Chứ còn nếu mà không có bài kinh đó, Thầy biết nói sao giờ đây.
(1:18:10) Ông Phật ông nói không chấp nhận. Ông đâu có nói bỏ cái đó đâu. Mà tại sao Thầy bỏ. Còn bây giờ có những bài kinh đức Phật bỏ mà nói họ còn không nghe, huống hồ là nếu mà không có những bài kinh đó thì làm sao Thầy nói. Khó cái lòng, mình thấy mình hiểu biết, mà nói người ta không nghe. Nói thật sự như vậy, mình muốn dẫn dắt họ đi đúng để cho họ được giải thoát. Họ không biết ơn mà họ còn oán giận.
Phật tử: Thầy dạy cho con biết về chữ Chánh Niệm?
(1:18:40) Trưởng lão: Chánh Niệm- thì con thấy rằng cái Chánh Niệm- thì là cái niệm thiện chứ không phải là niệm ác, phải không? Bởi vì Chánh Niệm là niệm thiện vì vậy mà luôn mình ở trong Chánh Niệm. Bởi vậy Tỉnh Giác thì Chánh Niệm. Thì luôn luôn á, người Tàu thì họ phải lật ngược lại câu này. Họ nói Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thay vì Chánh Niệm nó mới tỉnh giác chứ gì? Không phải. Tại người Tàu, thực sự người Việt của mình thì Tỉnh Giác rồi mới Chánh Niệm. Mình có tỉnh mình mới được ở trong Chánh Niệm chứ mình mê thì mình làm sao mình ở trong Chánh Niệm được.
Mà Chánh Niệm tức là niệm thiện không thể niệm tà được. Bởi vì Tà Niệm rồi Chánh Niệm, phải không? Nếu mình ở trong Tà Niệm thì niệm ác nó khổ mình, khổ người. Phải xác định được cái Niệm mà làm khổ mình, khổ người, nó là tà niệm. Mà cái niệm mà không làm khổ mình, khổ người nó là Chánh Niệm.
Cũng như bây giờ Thầy, ví dụ như Thầy nói một cái điều mà người ta vui, người ta không có khổ thì đó là Chánh Niệm. Mà Thầy nói một điều là người ta buồn thì cái này là Tà Niệm. Cho nên Thầy viết sách, Thầy nói cái đúng nhưng mà Thầy không cho người ta phổ biến ra là tại vì phổ biến ra cái người ta đang ở trong cái sai, người ta đau khổ. Người ta đang ở trong chùa đẹp, người ta đau khổ, người ta không ở được trong chùa đẹp. Người ta ăn ngày ba bữa, bây giờ nói ra người ta ăn một bữa người ta thấy khổ quá. Cho nên Thầy không muốn làm khổ ai hết.
Cho nên vì vậy, mặc dù là Chánh Pháp vẫn còn không muốn làm khổ người ta huống hồ là Tà Pháp. Cho nên cái nói của Thầy, Thầy biết lúc nào phải nói, mà lúc nào không nói. Đó là cái Chánh Niệm. Còn nếu là tà niệm, mình nói được, mình nói bừa ra cho người ta khổ mặc người ta. Thì cái điều đó không được.
Cho nên bây giờ ví dụ như Minh Điền, con xin Thầy để đưa những bài kinh này lên đài truyền hình, đài phát thanh phải không? Nhưng mà Thầy thấy giai đoạn này không được, làm khổ thiên hạ. Đã là Chánh pháp mà còn làm khổ thiên hạ, nhất định chưa được lúc. Bởi vì cái thời điểm đó chưa được, người ta còn đắm chìm ở trên đó rồi thì từ từ mình sẽ đưa một cái nền đạo đức.
Từ cái nền đạo đức, nó khẽ đi, người ta bớt đi. Bây giờ người ta bớt khổ nhiều là nhờ cái đạo đức rồi. Bắt đầu mình đưa cái này ra thì người ta bừng sáng, người ta xả bỏ, người ta không có khổ. Chứ không người ta khổ, người ta gây ác nữa. Người ta khổ, nghe những lời Thầy nói rồi, bắt đầu ăn cũng không dám ăn. Bởi vì mình ăn phi thời, Phật tử thấy không cúng dường. Người ta ở chùa tốt cũng bị rồi, do đó không lẽ giờ đập phá mấy cái chùa tốt này được sao? Cho nên vì vậy bây giờ mình phải xúm nhau lại, mình phải diệt ông đó cho ông đừng có nói nữa.
Thì tức là bắt buộc họ phải nghĩ ra cái điều ác, làm cho họ rơi vào cái ác pháp. Nếu mà mình không nói ra thì họ đâu có nghĩ giết người. Mà tại vì mình nói ra người ta mới nghĩ giết người đó để cho người ta yên ổn người ta sống. Do đó tạo cho người ta tội ác. Còn bây giờ đưa sách Đạo Đức ra lần lượt người ta thấm nhuần được đạo đức rồi thì lúc đó Thầy đưa ra người ta thấy phải, người ta không có khởi ra cái niệm ác, người ta xả ra.
Thì cái đó là chuyện cái của một cái người như, Thầy tu Thầy phải làm cái điều lợi ích cho xã hội chứ Thầy đâu có ghét mấy ông thầy Đại thừa. Nếu mà Thầy ghét thì Thầy bung ra Thầy nói tùm lum để cho mấy ông ấy khổ chơi. Còn cái này Thầy đâu có ghét cho nên Thầy phải làm sao cho có lợi ích. Các con hiểu chưa? Cái lòng thương Thầy đối với cái người nào, bây giờ họ nói Thầy gì Thầy vẫn thương họ. Bởi vì đối với Thầy, nó là thiện pháp rồi cho nên lúc nào lòng từ cũng phải thương họ, làm sao giúp cho họ thoát ra khỏi nỗi khổ. Mặc dù Thầy nói rát cả cổ nhưng Thầy vẫn nói.
(1:21:55) Phật tử: Bạch Thầy, các sư Nam Tông người ta ăn ngày chỉ một bữa sáng, chiều có thì ăn không có thì thôi. Còn ăn ai cho gì người ta ăn nấy. Người ta không có sát sanh hại vật … như vậy người ta vẫn ăn thịt, cá, đủ thứ. Vậy có phạm giới hay không?
(1:22:19) Trưởng lão: Phạm chứ. Phạm tội bởi vì đức Phật cấm cư sĩ mà, cấm cư sĩ không được cúng dường thực phẩm động vật cho chư Tăng và Phật. Nếu mà người nào cúng dường điều này là có 5 điều phi công đức mà. Bài kinh ViPaka đã dạy rõ ràng mà. Bây giờ Phật tử không làm thịt, không làm cá cúng dường thì mấy ông này làm sao có ăn. Tại mấy ông xui khiến người ta làm sao mà người ta làm cá thịt cúng dường mấy ông nè.
Bây giờ đức Phật đã cấm như vậy, cấm cư sĩ rồi thì bây giờ coi như cái mầm để cúng dường cho mấy ông, bố thí cho mấy ông đó mà cư sĩ không dám cúng thì phải cúng rau cải cho mấy ông chứ làm sao dám cúng thịt cá được. Đức Phật đã dạy rồi mà, phải không? Bây giờ mấy ông nói ăn không thấy, không nghe, không nghi thì rõ ràng Phật tử làm chứ mấy ông đâu có làm. Mấy ông có bắt con vật đâu mà làm. Nhưng mà ông Phật cấm Phật tử, cấm mấy người cư sĩ. Mấy ông cư sĩ mà làm thịt động vật, thực phẩm cho chư Tăng và Phật ăn thì mấy người bị năm cái điều phi công đức, đã không được công đức mà còn lại tội lỗi đó.
Phật tử: Bạch Thầy, con đọc kinh nào ạ?
Trưởng lão: Kinh Trung Bộ. Bài kinh ViPaka tức là Thừa xứ ViPaka hỏi. Hình như là quyển 1, nó có 3 tập Trung Bộ. Nó quá rõ ràng rồi. Kinh Nguyên Thuỷ đó. Mà các nhà sư Nguyên Thuỷ ăn thịt chúng sanh thì đủ biết rồi. Họ đã bị lừa như thế nào, họ ăn được thì Thầy không hiểu.
Phật tử: Con theo mẹ con ăn chay, con ăn từ lúc nhỏ cho tới. Con đi tới đâu, con mang đồ của con ăn, người ta nói cô tu giỏi quá ha …
Trưởng lão: Đó họ châm biếm con
Phật tử: Con cảm thấy …, từ đó tới giờ, con nghe được Thầy là một vị cứu tinh, Thầy phù hợp về cách ăn, Thầy dạy độc cư. Từ nay về sau Thầy cố gắng cứu con.
Trưởng lão: Cái cứu con là con phải tự thắp đuốc. Thầy chỉ là người chỉ đường chứ Thầy không có nắm tay kéo con được đâu.
Phật tử: Con cố gắng đi.
(1:24:49) Trưởng lão: Ráng cố gắng. Thì bây giờ Thầy nói thực sự ra khi người ta làm điều gì thì người ta khéo lý luận để cái người không hiểu biết thì người ta chấp nhận cái lý luận đó thôi. Chứ còn người hiểu biết thì người ta thấy rõ ông Phật nói chung là ông đã dạy đủ cho chúng ta, coi như là trang bị cho chúng ta hành trang để chúng ta đi trên con đường giải thoát này rồi.
Kinh điển của đức Phật là trong Bốn cái bộ Kinh của đức Phật từ Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng. Bốn bộ Kinh này, đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái hành trang để đủ đi trên con đường, không còn ai lừa đảo chúng ta được. Những bài kinh của đức Phật trong bốn bộ Kinh Nguyên Thuỷ là không có cái giáo pháp ngoại đạo nào khi chúng ta thâm nhiễm những bộ kinh này rồi không có giáo pháp ngoại đạo nào có thể lừa đảo chúng ta được.
Tại vì chúng ta không có chịu đọc những bộ kinh này cho nên chúng ta bị lừa đảo. Thậm chí ngay cả các sư Nguyên Thuỷ cũng vẫn bị lừa đảo đó, bị Thầy Tổ lừa đảo rồi các sư cũng theo đó mà sống. Rồi sống trong dục lạc thì cứ thích thôi. Ăn thịt, ăn cá là phải ngon, phải thích thôi. Bây giờ ăn chay nghe nó trai quá.
Tại vì con có cái duyên, duyên đó là duyên Đại thừa, con ăn như con bò ăn cỏ đó, con ăn thịt không được.
Phật tử: Con ăn thịt nó nghẹn
Trưởng lão: Thì nó đã vậy. Con ở đó mà con không ăn thì con cũng không yên.
Phật tử: Con độc cư cũng khổ lắm. Cứ lôi con ra vô ban điều hành hoài, con sợ quá. Con mới quyết định là con không tu nữa. Xin Thầy hoan hỉ. Con nghe lời Thầy lắm. Thầy dạỵ cho con ngắn, Thầy rút kinh nghiệm trong suốt cuộc đời Thầy đọc Kinh, giờ Thầy dạy con. Thầy nói con nghe, con khỏi đọc nữa, con chỉ hành theo.
(1:26:55) Trưởng lão: Lẽ đương nhiên Thầy bảo sao thì làm vậy thôi chứ đọc nó càng rối nữa. Cái trí tuệ của các con không thể hiểu được lời của đức Phật đâu. Các nhà học giả, người ta có Tiến Sĩ Phật học, mà người ta đọc người ta còn không hiểu lời của ông Phật nói. Chỉ có người tu, người ta thực hiện được người ta mới thấy được cái lời của đức Phật nói chứ còn nếu cái người mà không có tu hành thì kể như là chỉ tưởng giải, giải ra lý luận cho nó nghe cho nó vui tai chơi vậy, để cho người ta thấy ông đó nói đúng, còn không nếu mà nó đúng thì hầu hết người ta đã thành Phật hết rồi.
Còn bây giờ Thầy nói là tại vì Thầy nói không có trúng ai, cho nên vì vậy người ta chống Thầy thôi. Chứ còn cỡ mà Thầy hùa theo số người cứ giảng theo kiểu của họ thì chắc chắn họ cũng nói Thầy nói đúng. Tại vì Thầy nói theo kiểu tu của Thầy. Cái kiểu mà Thầy đã giải thoát được mình. Cái kiểu mà Thầy sống ly dục ly ác pháp được. Cho nên vì vậy họ thấy Thầy không có giống họ cho nên thường thường họ không ưa Thầy chút nào hết. Họ sợ Thầy khi mà Thầy đến Thầy nói họ khép cái mỏ của họ lại, họ không có luận được cái gì hết.
Phật tử: Lời thật mất lòng hả Thầy?
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên là cái điều đó. Cho nên thôi bây giờ, thì các con cố gắng các con tu cho được giải thoát thôi. Cái gì thì hỏi ngay trên những cái pháp hành của mình liền Thầy dạy. Nó không có mất thì giờ mấy con nhiều. Mà nó cứ hành để cho nó đi tới. Cái đó là cái quan trọng nhất. Cho nên cố gắng mà hành thôi. Cái hành đó thì nhờ Thầy uốn nắn cho nó đi ngay thôi. Chứ không nó lệch bởi vì con đường thiền tưởng, nó luôn luôn nó kề bên. Trật là nó nhào vô trong cái thiền tưởng liền
Phật tử: Thưa Thầy bữa nay con bắt đầu tu Tứ Niệm Xứ?
Trưởng lão: Thử thôi. Chứ bây giờ giai đoạn của con chưa phải tu Tứ Niệm Xứ được. Nó chưa được, cho nên vì vậy khi nào mà Thầy xác định Tứ Niệm Xứ thì mới tu. Còn hôm nay Thầy dạy tại vì Minh Điền nó sẽ về dưới. Trong những buổi khuya thanh vắng thì thay vì những buổi đó thay vì tu Định Niệm Hơi Thở thì nghe nó uổng thời gian quá. Bởi vì Định Niệm Hơi Thở nó chỉ nhầm để ngăn ác diệt ác mà thôi chứ nó không phải trên Tứ Niệm Xứ ngăn ác diệt ác mà thôi.
Còn bây giờ nó chuẩn bị trong những buổi khuya thanh vắng để mà nó thực hiện Tứ Niệm Xứ để nó ngồi đó quan sát Thân Tâm của nó, để coi như nó có một người, một con người của nó đứng ở ngoài để nhìn coi thân tâm của nó đang làm việc ở trên đó. Đó là cách thức dạy Tứ Niệm Xứ để quét sạch những cái tàn tích, những cái ô nhiễm ở trên Thân- Thọ- Tâm- Pháp của mình
Phật tử: Con gần Thầy, con thực hành rồi có gì con xin hỏi Thầy.
(1:29:27) Trưởng lão: Ở đây thì con thực hành được. Nhưng thực hành rồi. Sau khi về thì cũng vẫn những buổi khuya tối. Chứ con ở chỗ người ta mà con sống độc cư.
Phật tử: Con bạch Thầy, con có một thất riêng độc cư.
Trưởng lão: À! Thì như vậy ở trong thất của mình thì mình lo mình tu thì tu Tứ Niệm Xứ được. Chứ tiếp duyên ra ngoài là tu Tứ Chánh Cần chứ tu Tứ Niệm Xứ không được.
Trưởng lão: Phải sống độc cư, con cho nên phải nghe Thầy nè. Nếu mình muốn tu Tứ Niệm Xứ là phải độc cư, độc bộ, độc hành.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: À! Bây giờ Thầy giải thích về chữ "Độc bộ”. Chữ "Bộ" có nghĩa là đường đi. Nghĩa là mình đi có một đường của mình chứ không đi chung với đường ai- Nghĩa là độc Bộ. Độc hành là không có đi hai người trên cái đường đó được. Con hiểu không? Độc cư là sống có một mình, chứ họ không sống chung với ai.
HẾT BĂNG