00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(00:04)

(00:04) Trưởng lão: Khi mình an trú được ở trong cái hơi thở hoặc là trong cái bước đi của mình, tức là không có niệm khởi rồi, thì lúc bấy giờ đó mình lo mình xả cái tâm mình tham, sân, si. Mà có cái phương pháp là Như Lý Tác Ý.

Còn ở bên kia thì nó không có pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên khi mà an trú được cái tâm rồi, thì nó không có cách nào khác hơn hết là nó ngồi im lặng, để nó hiện ra những cái trạng thái khác. Càng im lặng, thì nó sẽ từ cái trạng thái Tưởng này nó chuyển qua cái trạng thái Tưởng khác, nó hiện đủ 18 loại Tưởng của nó.

Cho nên khi mà Thầy trở về tu với phương pháp của Thiền Nguyên Thủy của Phật, tức là bốn thiền đó, thì Thầy không có bận phải tu lại cái sự an trú tâm mình.

Còn giờ mấy con ngồi năm, ba phút thì có vọng tưởng. Còn Thầy ngồi ba mươi phút, một giờ, hai giờ, ba giờ không vọng tưởng. Các con thấy nó khác xa của mấy con. Mà khi mà nhiếp tâm, an trú cho không vọng tưởng cũng là một điều khó, không phải dễ. Thầy nói, Thầy cũng là một cái người có căn duyên trong cái sự tu tập. Cũng là nhiều kiếp, chứ không phải trong một kiếp này.

Cho nên khi lên Chơn Không mà Hòa Thượng dạy cho pháp Tri vọng- ‘biết vọng liền buông’, thì Thầy ngồi mà Thầy giữ cái tâm của Thầy không vọng. Thầy ngồi tỉnh táo như thế này trong vòng ba mươi phút, không có một niệm khởi.

Cái sức của mấy con bây giờ mà tu như Thầy, không làm nổi đâu. Thầy nói thật sự, mấy con có thể là dùng cái hơi thở, dùng cái đối tượng, hay câu niệm Phật mấy con cố gắng, mấy con đem hết sức lực tập trung của mình, cao lắm là mười phút, mấy con cũng có nhiều niệm khởi à, còn Thầy thì không niệm.

Cho nên, Thầy thấy, thì mình cũng có căn duyên đã tu tập nhiều. Cho nên bây giờ mà ngồi ba mươi phút mà không niệm, thì đó là cái điều kiện tốt. Nhưng mà lại là không có cái phương pháp tu. Cho nên do đó, thay vì ba mươi phút, mà Thầy đã xả tâm thì nó quá dễ dàng rồi. Trái lại cái này không có xả tâm được, mà cứ giữ cho sự im lặng nó đi vào.

Càng im lặng, thì cái sự thay đổi ở trong cái trạng thái tâm của mình kéo dài, thì nó có cái hiện tượng xảy ra. Từ ba mươi phút đến một giờ, hai giờ, ba giờ, thì tất cả những cái loại tưởng nó hiện ra. Từ cái Sắc tưởng, từ cái Thinh tưởng, rồi từ cái Hương tưởng, …​ tất cả những cái này nó hiện ra. Rồi tất cả sáu cái thần thông tưởng nó hiện ra. Rồi những cái Thức tưởng nó hiện ra đầy đủ. Cho nên nó là mười tám loại hỷ tưởng nó hiện ra.

(02:45) Vì vậy mà xét lại mình thì không thấy hết tham, sân, si. Mà nó lại có những cái trạng thái nó đặc biệt.

Do đó cho nên Thầy mới chuyển qua cái pháp Nguyên thủy. Do cái pháp Nguyên thủy, thì Thầy rất sợ những trạng thái tưởng. Vì vậy mà luôn luôn cứ giữ gìn cái câu tác ý, chớ Thầy cũng không hiểu được.

Trước kia, thì Thầy đọc trong các kinh sách của Nguyên thủy, thì đức Phật nói quá cô đọng cho nên mình cũng không có biết. Nhưng vì mình chỉ thấy được đức Phật dạy cái pháp Như lý Tác Ý là: “Có như lý tác ý, thì lậu hoặc không sanh. Mà không tác ý như lý, thì lậu hoặc sẽ sanh”. Cho nên Thầy luôn luôn tác ý để cho cái tham, sân, si của mình cho hết thôi. Chớ không phải là có mục đích để tu tập cho mình vào Định. Vì vậy mà khi tu thiền định của Thiền Đông Độ, thấy nó bị tưởng nhiều, thì chuyển qua bên đây. Ngồi lại im lặng thì tưởng nó hiện ra, cho nên cứ thường xuyên tác ý.

Vì vậy hôm nay qua kinh nghiệm đó mà Thầy dạy các con tác ý, chứ không phải là gì khác hơn hết. Nghĩa là Thầy thường tác ý, bởi vì nghe trong Sơ Thiền, đức Phật có nói một cái câu: “Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền”. Cho nên Thầy mới chỉ bắt chước cái câu đó thôi, chứ cũng chưa có hiểu cái câu đó có cái công năng gì, Thầy cũng chưa biết. Nhưng mà vì ngại, sợ, có cái tưởng của mình, cho nên…​

Như Thầy cũng thường nói với mấy con đó, Thầy ngồi tựa cửa thất của mình mà nhìn trời. Chứ không dám mà ngồi khoanh chân, ngồi xếp bằng, ngồi mà nhìn xuống như vầy, là tưởng nó hiện ra. Cho nên ngồi tựa cửa mà nhìn trời ra, để cho cái tâm nó đừng có gom lại. Bởi vì cái tâm Thầy nó không vọng tưởng, nó gom lại thì nó lọt trong tưởng.

(04:33) Còn cái tâm mấy con mà nhìn trời ấy, mấy con nghĩ lung tung. Còn cái tâm của Thầy thì nó không nghĩ lung tung nữa. Do đó cho nên Thầy ngồi đó mà Thầy cứ thỉnh thoảng Thầy tác ý. Thầy sợ nó gom vô, thì nó hiện cái Sắc tưởng. Nó hiện ra một cái hình người, nó hiện ra hình Phật, nó hiện ra cái cảnh giới này, nó hiện ra cái cảnh giới kia.

Thậm chí như nó hiện ra ma, hiện ra quỷ, nó hiện ra những cái người có cái đầu năm, bảy sừng, rồi nanh vuốt, nó hiện ra đủ loại. Nếu mà ban đêm khuya khoắt mà ngồi mà nó hiện ra như vậy, thì mình rất sợ. Thấy cái đầu, thấy con người ghê gớm thì mình rất là sợ.

Cho nên đó là những cái hiện tượng của tưởng của mình nó xuất hiện, đó là Sắc tưởng. Vì vậy mà Thầy không muốn để cho nó hiện những hiện tượng này nữa, cho nên ngồi đó mà nhắc. Bởi vì ý thức mình còn, cho nên mình tác ý mình nhắc, thì nó không có hiện ra được. Do vì vậy mà Thầy cũng biết rằng khi mà các con bị những cái trạng thái tưởng, Thầy bảo tác ý thì nó đi: “Thọ, hoặc là cái tưởng gì đó, cái âm thanh này,…​ ta biết là tưởng, hãy đi đi, ta không chấp nhận!”. Do mình tác ý, khi mình tác ý thì ý thức mình tác ý ra, thì cái này nó lần lượt tan biến đi, nó không còn nữa. Để nó không có cái trạng thái của Tưởng Uẩn nó hoạt động.

Cho nên trong khi Thầy ngồi sáu tháng trời tựa lưng ở cửa, chứ không dám mà khoanh chân ngồi thiền nữa, cho nên ngồi tựa cửa, mà tác ý.

Trừ ra khi nào mà thân này bị bệnh đau ngặt nghèo, hoặc là những cái bệnh đau quá ngặt, thì Thầy mới khoanh chân lên, mà an trú trong hơi thở, để mà tác ý đuổi những cái bệnh, khổ trên thân của mình.

Thì những cái điều này nó là kết quả, hiệu quả mà bây giờ Thầy đem Thầy dạy lại cho các con, đó là cái kinh nghiệm bản thân của Thầy.

Chứ sự thật ra thì đọc trong Kinh mà nếu mà không có một kinh nghiệm, thì mấy con không biết được. Như Thầy đọc trong bài kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy về hơi thở, đức Phật dạy: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”.

(06:30) Nếu mà không có kinh nghiệm của Thầy tu, thì cái câu này chúng ta không biết nó để làm cái gì nữa. Chỉ biết nó an tịnh, để tập chơi vậy thôi.

Còn khi qua kinh nghiệm của Thầy, Thầy biết là cái tác ý này nó có hiệu quả, nó làm cho cái thân mình an ổn. Bởi vì trước kia, Thầy rất sợ tưởng, cho nên Thầy cứ dùng câu tác ý mà Thầy tác ý. Rồi cái thân Thầy bệnh đau, Thầy cũng tác ý trên bệnh đau.

Qua rút tỉa kinh nghiệm mà Thầy mới hiểu được lời của Phật dạy ở trong Kinh này. Chứ nếu mà không có kinh nghiệm tu, thì Thầy không hiểu nổi cái nghĩa mà đức Phật dạy trong những bài Kinh này.

Cho nên cái người mà không có kinh nghiệm đọc lại bài kinh Xuất Tức Nhập Tức về hơi thở, họ không hiểu cái công dụng của những câu tác ý đó, những cái đề mục đó, công dụng những cái gì họ không hiểu. Họ cứ dạy chúng ta tu, luôn luôn, cứ hết cái đề mục này rồi tiếp tục tới, tác ý cái đề mục khác, tu cái đề mục khác. Các con thấy hầu hết là những người mà dạy chúng ta tu về Xuất Tức Nhập Tức thì họ dạy như vậy. Còn không thì họ dạy mình Tùy Tức, hay Sổ Tức thôi, chứ họ không biết cách nào khác hơn hết.

Trái lại, thì nhờ kinh nghiệm của Thầy, mà Thầy triển khai ra được những lời của Phật dạy rất là thực tế. Là khi mà Thầy đã tu tập được mà Thầy thấy cái sức, cái năng lực của pháp tác ý, nó giúp cho chúng ta làm chủ được sự sống chết của mình rất rõ ràng. Là mình tác ý ra, muốn cái gì thì tác ý ra, thì được cái nấy, thì đó là cái năng lực của phương pháp tác ý.

Vì vậy mà sáu tháng trời ngồi tác ý mà nó trở thành một cái năng lực siêu việt, Thầy không ngờ được.

Nhưng mà Thầy cũng nói rằng nếu mà cái tâm mình mà không thanh tịnh, và cái đời sống của mình mà không có nghiêm chỉnh Giới luật, thì chắc không bao giờ có. Bởi vì Thầy nghĩ rằng khi bước vào mà ôm pháp Thiền Đông Độ mà tu tập, thì Thầy sống với Hòa thượng Thanh Từ ba tháng ở trên Tu viện Chơn Không. Thì trong lúc bấy giờ ở đó sáng thì ăn tiểu thực, trưa thì ăn cơm, chiều thì uống bột, Thầy thì lại không thích.

(08:05) Thầy nghĩ rằng đức Phật dạy mình Giới luật: “Không ăn uống phi thời, ăn ngày một bữa”, nhưng Hòa thượng lại rộng rãi, cho mình ăn uống như thế này, thì đối với huynh đệ ai cũng thấy, như thế này thì cái cơ thể của mình ăn uống như vậy thì nó đầy đủ, nó khỏe thì tu tốt.

Nhưng mà Thầy lại có cái tâm niệm, sao lại mình sống không giống Phật? Phật ăn ngày một bữa, đi xin ăn. Còn mình bây giờ Phật tử cúng dường mà ăn nhiều như thế này? Ngồi tại chỗ, không đi xin, mà ăn nhiều quá. Thì Thầy lại cũng không thích ăn nhiều, mà chỉ muốn sống làm sao giống như Phật.

Cho nên, ở trong chúng thì Thầy không có dám làm điều đó. Bởi vì mình làm ngược lại thì nó trái lại. Còn mình, chỉ có mình sống riêng một mình thôi. Lúc bấy giờ Thầy nghe bên Khất Sĩ, thì người ta ăn ngày một bữa, người ta sống đúng Giới luật. Cho nên Thầy ba tháng an cư kiết hạ ở Chơn Không, thì Thầy mới rời khỏi Chơn Không, Thầy xin phép Hòa thượng Thầy xuống núi.

Rồi Thầy đi với hai huynh đệ của Thầy là hai người khất sĩ. Rồi Thầy đi vào trong Khất Sĩ thì Thầy thấy cũng có nơi thì giữ trọn vẹn, nhưng mà cũng có nơi thì không được trọn vẹn.

Cho nên Thầy nghĩ rằng, hiện giờ chắc có lẽ là mình giữ Giới luật của Phật thì mình nghiên cứu kỹ, rồi tự mình giữ một mình mình thôi, chứ bây giờ không có chùa nào mà mình tin tưởng.

Do đó Thầy mới tách lìa hai cái vị khất sĩ này, rồi Thầy về thăm mẹ Thầy, rồi Thầy ra Hòn Sơn Thầy ở, Thầy tu. Thầy giữ gìn Giới luật rất nghiêm chỉnh. Mười giới Sa Di, Thầy không hề vi phạm một chút xíu nào hết. Nghĩa là ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ mà thôi, không bao giờ mà ăn phi thời. Do từ cái Giới luật Thầy rất nghiêm chỉnh, và đồng thời Thầy dùng cái pháp Tri vọng của Hòa thượng. Thầy an trú, nhiếp tâm được, không có vọng tưởng. Đó là hai cái mà Thầy biết là cái kết quả của sự tu tập ở giai đoạn đầu.

(10:05) Và cái giai đoạn sau, thì Thầy nhờ cái pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên Thầy thấy nó quá tuyệt vời, vì vậy mà Thầy ghi ngay vào cái bia đá đầu tiên ở đây. Thầy đặt, Thầy đặt cái bia đá đó, Thầy bảo: “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm”, đó là cái câu để nói lên cái pháp Như Lý Tác Ý.

Nhưng mà nhiều người người ta không hiểu cái câu nói của Thầy, mà người ta hiểu “dẫn đạo vào tâm”. Phải là “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng có dẫn đạo vào tâm”. “Dẫn đạo vào tâm” là mình học hỏi, mình hiểu biết nhiều, thì cái hiểu biết đó nó sai.

Thầy chỉ nghĩ rằng mình cứ tác ý, mình muốn giải thoát cái gì thì mình tác ý cái đó, tức là mình dẫn cái tâm mình vào cái đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Cho nên, mình dẫn làm sao vào cái chỗ giải thoát, đem cái tâm mình vào cái chỗ giải thoát, thì cuối cùng thì Thầy giải thoát.

Như thí dụ bây giờ Thầy muốn cái tâm của Thầy không còn tham, sân, si, Thầy nhắc: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi”. Thầy có cái câu đó thôi, Thầy đâu có tu cái gì nhiều đâu. Mà Thầy cũng không có ngồi kiết già, cũng không có nhiếp tâm. Mà chỉ ngồi cứ thỉnh thoảng nhắc. Vì cái tâm không vọng tưởng cho nên ngồi cứ nhắc. Rồi nó yên lặng, nó thanh thản.

Rồi từ đó sự nhắc của Thầy nó càng ngày càng thưa ra. Thầy thấy nó thanh thản. Nó thanh thản, mà nó có cái lực. Hễ nhắc một cái là nó thành, nó rất là vi diệu.

Cho nên Thầy thấy tu hành của đạo Phật rất đơn giản, nó không có khó khăn.

Vì vậy mà hôm nay Thầy nhắc lại mấy con mà tuổi già, cái tuổi mấy con lớn thì mấy con nên ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu. Tức là cái pháp thanh thản, an lạc, vô sự. Thường nhắc: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”. Rồi mình ngồi, mình lắng nghe cái thân, tâm của mình nó thanh thản, an lạc, vô sự đó. Rồi mình lại nhắc. Nếu thời gian thanh thản, an lạc, vô sự đó kéo dài, là cái thời gian không phóng dật.

(12:10) Cho nên, xét lại cái câu nói của đức Phật: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Đó thì chúng ta thấy rất rõ. Bởi vì thanh thản, thì nó đâu làm sao mà nó phóng dật? Mà an lạc, thì cái thân của mình an ổn, nó đâu có nhức, có đau chỗ này, chỗ kia đâu mà nó phóng dật ở trên chỗ đau khổ đó? Cho nên cuối cùng thì Thầy thành tựu.

Bởi vậy Thầy nghĩ rằng, nếu chúng ta đặt trọn niềm tin thì giữ gìn mười Giới Sa Di trọn vẹn, đừng vi phạm. Hằng ngày ngồi tựa cửa nhìn trời mà tác ý. Ai chửi mình thì mình như cục đất, đừng có phiền não. Ai nói xấu, nói giận, nói tức, nói hờn gì, thì mình cũng đều như cục đất hết đi, thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật, không lâu, rất nhanh. Đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy là như vậy, nó không có khó khăn.

Nhưng mà khi ngồi lại mà viết thành cái giai đoạn chiến thắng, thì nó có nhiều cái điều kiện viết lắm.

Bởi vì có nhiều cái chi tiết ở trong đó. Khi ngồi lại tựa cửa thì lúc bấy giờ nó bị hôn trầm như thế nào? Bởi vì mình ngồi nó yên lặng, nó không vọng tưởng, mà nếu không khéo thì nó sẽ lặng, nó sẽ buồn ngủ.

Cái cơ thể mình là cơ thể vật lý, nó không phải là một cái gốc cây hay cục đá, cho nên nó dễ bị trạng thái này, bị trạng thái kia.

Mình ngồi một lúc thì nó mỏi. Thế mà chúng ta tu tập như thế nào mà không mỏi, không nhức, không đau mà ngồi suốt cả giờ? Mà như vậy đó nó mới gọi là “không phóng dật”. Còn nếu không, thì nó phải phóng trên cái trạng thái thọ khổ của thân, hoặc là của tâm.

Cho nên phải ghi lại những hành động đó để biết khi mà gặp cái trường hợp nào nó xảy ra, mà trong khi đó mình phải xả nó bằng cách nào, thì cái này chưa có nói lên cho mấy con nghe được. Là tại vì chưa có ngồi lại mà viết thôi, chứ viết ra nó thành một bộ sách gọi là cái “Người Chiến Thắng - Phần thứ hai”.

(14:09) Và đồng thời, thì Thầy cũng không muốn ghi lại những cái điều của mình. Mà có một cái người nào đó thì có thể họ ghi lại. Trước kia thì có bác sĩ Trí về đây, nhưng mà…​ Thầy định Thầy sẽ thuật lại hết những công phu, từ những ngày nào, Thầy tu như thế nào, thế nào, thì cái người này ngồi ghi lại những cái trang sử tu tập của Thầy.

Chứ không lẽ Thầy viết để Thầy khoe cái của mình sao? Cho nên Thầy không viết. Chứ sự thật người mà viết cái trang sử đó, chỉ có Thầy là người viết chính xác nhất, không ai viết chính xác bằng Thầy. Nhưng mà Thầy nhắc lại cho một người khác viết, hơn là Thầy, mới là đúng cái nghĩa.

Đến đây thì mấy con cứ nhớ rằng những gì Thầy dạy, là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy. Cho nên người già thì phải tu theo pháp người già, mà người trẻ thì phải tu theo pháp người trẻ.

Vì người trẻ còn sức khỏe, chúng ta nên tu Định Niệm Hơi Thở, nên tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, nên đi Kinh hành nhiều.

Còn người già thì nên tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Đó là cách thức như vậy để mà chúng ta thực hiện được những gì mà chúng ta tu tập.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy