CHUẨN BỊ PHẠM HẠNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 13/01/2004
Thời lượng: [01:19:19]
(00:04) Trưởng lão: Khi mình an trú được ở trong cái hơi thở hoặc là trong cái bước đi của mình, tức là không có niệm khởi rồi, thì lúc bấy giờ đó mình lo mình xả cái tâm mình tham, sân, si. Mà có cái phương pháp là Như Lý Tác Ý.
Còn ở bên kia thì nó không có pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên khi mà an trú được cái tâm rồi, thì nó không có cách nào khác hơn hết là nó ngồi im lặng, để nó hiện ra những cái trạng thái khác. Càng im lặng, thì nó sẽ từ cái trạng thái Tưởng này nó chuyển qua cái trạng thái Tưởng khác, nó hiện đủ 18 loại Tưởng của nó.
Cho nên khi mà Thầy trở về tu với phương pháp của Thiền Nguyên Thủy của Phật, tức là bốn thiền đó, thì Thầy không có bận phải tu lại cái sự an trú tâm mình.
Còn giờ mấy con ngồi năm, ba phút thì có vọng tưởng. Còn Thầy ngồi ba mươi phút, một giờ, hai giờ, ba giờ không vọng tưởng. Các con thấy nó khác xa của mấy con. Mà khi mà nhiếp tâm, an trú cho không vọng tưởng cũng là một điều khó, không phải dễ. Thầy nói, Thầy cũng là một cái người có căn duyên trong cái sự tu tập. Cũng là nhiều kiếp, chứ không phải trong một kiếp này.
Cho nên khi lên Chơn Không mà Hòa Thượng dạy cho pháp Tri vọng- ‘biết vọng liền buông’, thì Thầy ngồi mà Thầy giữ cái tâm của Thầy không vọng. Thầy ngồi tỉnh táo như thế này trong vòng ba mươi phút, không có một niệm khởi.
Cái sức của mấy con bây giờ mà tu như Thầy, không làm nổi đâu. Thầy nói thật sự, mấy con có thể là dùng cái hơi thở, dùng cái đối tượng, hay câu niệm Phật mấy con cố gắng, mấy con đem hết sức lực tập trung của mình, cao lắm là mười phút, mấy con cũng có nhiều niệm khởi à, còn Thầy thì không niệm.
Cho nên, Thầy thấy, thì mình cũng có căn duyên đã tu tập nhiều. Cho nên bây giờ mà ngồi ba mươi phút mà không niệm, thì đó là cái điều kiện tốt. Nhưng mà lại là không có cái phương pháp tu. Cho nên do đó, thay vì ba mươi phút, mà Thầy đã xả tâm thì nó quá dễ dàng rồi. Trái lại cái này không có xả tâm được, mà cứ giữ cho sự im lặng nó đi vào.
Càng im lặng, thì cái sự thay đổi ở trong cái trạng thái tâm của mình kéo dài, thì nó có cái hiện tượng xảy ra. Từ ba mươi phút đến một giờ, hai giờ, ba giờ, thì tất cả những cái loại tưởng nó hiện ra. Từ cái Sắc tưởng, từ cái Thinh tưởng, rồi từ cái Hương tưởng, … tất cả những cái này nó hiện ra. Rồi tất cả sáu cái thần thông tưởng nó hiện ra. Rồi những cái Thức tưởng nó hiện ra đầy đủ. Cho nên nó là mười tám loại hỷ tưởng nó hiện ra.
(02:45) Vì vậy mà xét lại mình thì không thấy hết tham, sân, si. Mà nó lại có những cái trạng thái nó đặc biệt.
Do đó cho nên Thầy mới chuyển qua cái pháp Nguyên thủy. Do cái pháp Nguyên thủy, thì Thầy rất sợ những trạng thái tưởng. Vì vậy mà luôn luôn cứ giữ gìn cái câu tác ý, chớ Thầy cũng không hiểu được.
Trước kia, thì Thầy đọc trong các kinh sách của Nguyên thủy, thì đức Phật nói quá cô đọng cho nên mình cũng không có biết. Nhưng vì mình chỉ thấy được đức Phật dạy cái pháp Như lý Tác Ý là: “Có như lý tác ý, thì lậu hoặc không sanh. Mà không tác ý như lý, thì lậu hoặc sẽ sanh”. Cho nên Thầy luôn luôn tác ý để cho cái tham, sân, si của mình cho hết thôi. Chớ không phải là có mục đích để tu tập cho mình vào Định. Vì vậy mà khi tu thiền định của Thiền Đông Độ, thấy nó bị tưởng nhiều, thì chuyển qua bên đây. Ngồi lại im lặng thì tưởng nó hiện ra, cho nên cứ thường xuyên tác ý.
Vì vậy hôm nay qua kinh nghiệm đó mà Thầy dạy các con tác ý, chứ không phải là gì khác hơn hết. Nghĩa là Thầy thường tác ý, bởi vì nghe trong Sơ Thiền, đức Phật có nói một cái câu: “Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền”. Cho nên Thầy mới chỉ bắt chước cái câu đó thôi, chứ cũng chưa có hiểu cái câu đó có cái công năng gì, Thầy cũng chưa biết. Nhưng mà vì ngại, sợ, có cái tưởng của mình, cho nên…
Như Thầy cũng thường nói với mấy con đó, Thầy ngồi tựa cửa thất của mình mà nhìn trời. Chứ không dám mà ngồi khoanh chân, ngồi xếp bằng, ngồi mà nhìn xuống như vầy, là tưởng nó hiện ra. Cho nên ngồi tựa cửa mà nhìn trời ra, để cho cái tâm nó đừng có gom lại. Bởi vì cái tâm Thầy nó không vọng tưởng, nó gom lại thì nó lọt trong tưởng.
(04:33) Còn cái tâm mấy con mà nhìn trời ấy, mấy con nghĩ lung tung. Còn cái tâm của Thầy thì nó không nghĩ lung tung nữa. Do đó cho nên Thầy ngồi đó mà Thầy cứ thỉnh thoảng Thầy tác ý. Thầy sợ nó gom vô, thì nó hiện cái Sắc tưởng. Nó hiện ra một cái hình người, nó hiện ra hình Phật, nó hiện ra cái cảnh giới này, nó hiện ra cái cảnh giới kia.
Thậm chí như nó hiện ra ma, hiện ra quỷ, nó hiện ra những cái người có cái đầu năm, bảy sừng, rồi nanh vuốt, nó hiện ra đủ loại. Nếu mà ban đêm khuya khoắt mà ngồi mà nó hiện ra như vậy, thì mình rất sợ. Thấy cái đầu, thấy con người ghê gớm thì mình rất là sợ.
Cho nên đó là những cái hiện tượng của tưởng của mình nó xuất hiện, đó là Sắc tưởng. Vì vậy mà Thầy không muốn để cho nó hiện những hiện tượng này nữa, cho nên ngồi đó mà nhắc. Bởi vì ý thức mình còn, cho nên mình tác ý mình nhắc, thì nó không có hiện ra được. Do vì vậy mà Thầy cũng biết rằng khi mà các con bị những cái trạng thái tưởng, Thầy bảo tác ý thì nó đi: “Thọ, hoặc là cái tưởng gì đó, cái âm thanh này,… ta biết là tưởng, hãy đi đi, ta không chấp nhận!”. Do mình tác ý, khi mình tác ý thì ý thức mình tác ý ra, thì cái này nó lần lượt tan biến đi, nó không còn nữa. Để nó không có cái trạng thái của Tưởng Uẩn nó hoạt động.
Cho nên trong khi Thầy ngồi sáu tháng trời tựa lưng ở cửa, chứ không dám mà khoanh chân ngồi thiền nữa, cho nên ngồi tựa cửa, mà tác ý.
Trừ ra khi nào mà thân này bị bệnh đau ngặt nghèo, hoặc là những cái bệnh đau quá ngặt, thì Thầy mới khoanh chân lên, mà an trú trong hơi thở, để mà tác ý đuổi những cái bệnh, khổ trên thân của mình.
Thì những cái điều này nó là kết quả, hiệu quả mà bây giờ Thầy đem Thầy dạy lại cho các con, đó là cái kinh nghiệm bản thân của Thầy.
Chứ sự thật ra thì đọc trong Kinh mà nếu mà không có một kinh nghiệm, thì mấy con không biết được. Như Thầy đọc trong bài kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy về hơi thở, đức Phật dạy: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”.
(06:30) Nếu mà không có kinh nghiệm của Thầy tu, thì cái câu này chúng ta không biết nó để làm cái gì nữa. Chỉ biết nó an tịnh, để tập chơi vậy thôi.
Còn khi qua kinh nghiệm của Thầy, Thầy biết là cái tác ý này nó có hiệu quả, nó làm cho cái thân mình an ổn. Bởi vì trước kia, Thầy rất sợ tưởng, cho nên Thầy cứ dùng câu tác ý mà Thầy tác ý. Rồi cái thân Thầy bệnh đau, Thầy cũng tác ý trên bệnh đau.
Qua rút tỉa kinh nghiệm mà Thầy mới hiểu được lời của Phật dạy ở trong Kinh này. Chứ nếu mà không có kinh nghiệm tu, thì Thầy không hiểu nổi cái nghĩa mà đức Phật dạy trong những bài Kinh này.
Cho nên cái người mà không có kinh nghiệm đọc lại bài kinh Xuất Tức Nhập Tức về hơi thở, họ không hiểu cái công dụng của những câu tác ý đó, những cái đề mục đó, công dụng những cái gì họ không hiểu. Họ cứ dạy chúng ta tu, luôn luôn, cứ hết cái đề mục này rồi tiếp tục tới, tác ý cái đề mục khác, tu cái đề mục khác. Các con thấy hầu hết là những người mà dạy chúng ta tu về Xuất Tức Nhập Tức thì họ dạy như vậy. Còn không thì họ dạy mình Tùy Tức, hay Sổ Tức thôi, chứ họ không biết cách nào khác hơn hết.
Trái lại, thì nhờ kinh nghiệm của Thầy, mà Thầy triển khai ra được những lời của Phật dạy rất là thực tế. Là khi mà Thầy đã tu tập được mà Thầy thấy cái sức, cái năng lực của pháp tác ý, nó giúp cho chúng ta làm chủ được sự sống chết của mình rất rõ ràng. Là mình tác ý ra, muốn cái gì thì tác ý ra, thì được cái nấy, thì đó là cái năng lực của phương pháp tác ý.
Vì vậy mà sáu tháng trời ngồi tác ý mà nó trở thành một cái năng lực siêu việt, Thầy không ngờ được.
Nhưng mà Thầy cũng nói rằng nếu mà cái tâm mình mà không thanh tịnh, và cái đời sống của mình mà không có nghiêm chỉnh Giới luật, thì chắc không bao giờ có. Bởi vì Thầy nghĩ rằng khi bước vào mà ôm pháp Thiền Đông Độ mà tu tập, thì Thầy sống với Hòa thượng Thanh Từ ba tháng ở trên Tu viện Chơn Không. Thì trong lúc bấy giờ ở đó sáng thì ăn tiểu thực, trưa thì ăn cơm, chiều thì uống bột, Thầy thì lại không thích.
(08:05) Thầy nghĩ rằng đức Phật dạy mình Giới luật: “Không ăn uống phi thời, ăn ngày một bữa”, nhưng Hòa thượng lại rộng rãi, cho mình ăn uống như thế này, thì đối với huynh đệ ai cũng thấy, như thế này thì cái cơ thể của mình ăn uống như vậy thì nó đầy đủ, nó khỏe thì tu tốt.
Nhưng mà Thầy lại có cái tâm niệm, sao lại mình sống không giống Phật? Phật ăn ngày một bữa, đi xin ăn. Còn mình bây giờ Phật tử cúng dường mà ăn nhiều như thế này? Ngồi tại chỗ, không đi xin, mà ăn nhiều quá. Thì Thầy lại cũng không thích ăn nhiều, mà chỉ muốn sống làm sao giống như Phật.
Cho nên, ở trong chúng thì Thầy không có dám làm điều đó. Bởi vì mình làm ngược lại thì nó trái lại. Còn mình, chỉ có mình sống riêng một mình thôi. Lúc bấy giờ Thầy nghe bên Khất Sĩ, thì người ta ăn ngày một bữa, người ta sống đúng Giới luật. Cho nên Thầy ba tháng an cư kiết hạ ở Chơn Không, thì Thầy mới rời khỏi Chơn Không, Thầy xin phép Hòa thượng Thầy xuống núi.
Rồi Thầy đi với hai huynh đệ của Thầy là hai người khất sĩ. Rồi Thầy đi vào trong Khất Sĩ thì Thầy thấy cũng có nơi thì giữ trọn vẹn, nhưng mà cũng có nơi thì không được trọn vẹn.
Cho nên Thầy nghĩ rằng, hiện giờ chắc có lẽ là mình giữ Giới luật của Phật thì mình nghiên cứu kỹ, rồi tự mình giữ một mình mình thôi, chứ bây giờ không có chùa nào mà mình tin tưởng.
Do đó Thầy mới tách lìa hai cái vị khất sĩ này, rồi Thầy về thăm mẹ Thầy, rồi Thầy ra Hòn Sơn Thầy ở, Thầy tu. Thầy giữ gìn Giới luật rất nghiêm chỉnh. Mười giới Sa Di, Thầy không hề vi phạm một chút xíu nào hết. Nghĩa là ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ mà thôi, không bao giờ mà ăn phi thời. Do từ cái Giới luật Thầy rất nghiêm chỉnh, và đồng thời Thầy dùng cái pháp Tri vọng của Hòa thượng. Thầy an trú, nhiếp tâm được, không có vọng tưởng. Đó là hai cái mà Thầy biết là cái kết quả của sự tu tập ở giai đoạn đầu.
(10:05) Và cái giai đoạn sau, thì Thầy nhờ cái pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên Thầy thấy nó quá tuyệt vời, vì vậy mà Thầy ghi ngay vào cái bia đá đầu tiên ở đây. Thầy đặt, Thầy đặt cái bia đá đó, Thầy bảo: “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm”, đó là cái câu để nói lên cái pháp Như Lý Tác Ý.
Nhưng mà nhiều người người ta không hiểu cái câu nói của Thầy, mà người ta hiểu “dẫn đạo vào tâm”. Phải là “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng có dẫn đạo vào tâm”. “Dẫn đạo vào tâm” là mình học hỏi, mình hiểu biết nhiều, thì cái hiểu biết đó nó sai.
Thầy chỉ nghĩ rằng mình cứ tác ý, mình muốn giải thoát cái gì thì mình tác ý cái đó, tức là mình dẫn cái tâm mình vào cái đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Cho nên, mình dẫn làm sao vào cái chỗ giải thoát, đem cái tâm mình vào cái chỗ giải thoát, thì cuối cùng thì Thầy giải thoát.
Như thí dụ bây giờ Thầy muốn cái tâm của Thầy không còn tham, sân, si, Thầy nhắc: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi”. Thầy có cái câu đó thôi, Thầy đâu có tu cái gì nhiều đâu. Mà Thầy cũng không có ngồi kiết già, cũng không có nhiếp tâm. Mà chỉ ngồi cứ thỉnh thoảng nhắc. Vì cái tâm không vọng tưởng cho nên ngồi cứ nhắc. Rồi nó yên lặng, nó thanh thản.
Rồi từ đó sự nhắc của Thầy nó càng ngày càng thưa ra. Thầy thấy nó thanh thản. Nó thanh thản, mà nó có cái lực. Hễ nhắc một cái là nó thành, nó rất là vi diệu.
Cho nên Thầy thấy tu hành của đạo Phật rất đơn giản, nó không có khó khăn.
Vì vậy mà hôm nay Thầy nhắc lại mấy con mà tuổi già, cái tuổi mấy con lớn thì mấy con nên ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu. Tức là cái pháp thanh thản, an lạc, vô sự. Thường nhắc: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”. Rồi mình ngồi, mình lắng nghe cái thân, tâm của mình nó thanh thản, an lạc, vô sự đó. Rồi mình lại nhắc. Nếu thời gian thanh thản, an lạc, vô sự đó kéo dài, là cái thời gian không phóng dật.
(12:10) Cho nên, xét lại cái câu nói của đức Phật: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Đó thì chúng ta thấy rất rõ. Bởi vì thanh thản, thì nó đâu làm sao mà nó phóng dật? Mà an lạc, thì cái thân của mình an ổn, nó đâu có nhức, có đau chỗ này, chỗ kia đâu mà nó phóng dật ở trên chỗ đau khổ đó? Cho nên cuối cùng thì Thầy thành tựu.
Bởi vậy Thầy nghĩ rằng, nếu chúng ta đặt trọn niềm tin thì giữ gìn mười Giới Sa Di trọn vẹn, đừng vi phạm. Hằng ngày ngồi tựa cửa nhìn trời mà tác ý. Ai chửi mình thì mình như cục đất, đừng có phiền não. Ai nói xấu, nói giận, nói tức, nói hờn gì, thì mình cũng đều như cục đất hết đi, thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật, không lâu, rất nhanh. Đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy là như vậy, nó không có khó khăn.
Nhưng mà khi ngồi lại mà viết thành cái giai đoạn chiến thắng, thì nó có nhiều cái điều kiện viết lắm.
Bởi vì có nhiều cái chi tiết ở trong đó. Khi ngồi lại tựa cửa thì lúc bấy giờ nó bị hôn trầm như thế nào? Bởi vì mình ngồi nó yên lặng, nó không vọng tưởng, mà nếu không khéo thì nó sẽ lặng, nó sẽ buồn ngủ.
Cái cơ thể mình là cơ thể vật lý, nó không phải là một cái gốc cây hay cục đá, cho nên nó dễ bị trạng thái này, bị trạng thái kia.
Mình ngồi một lúc thì nó mỏi. Thế mà chúng ta tu tập như thế nào mà không mỏi, không nhức, không đau mà ngồi suốt cả giờ? Mà như vậy đó nó mới gọi là “không phóng dật”. Còn nếu không, thì nó phải phóng trên cái trạng thái thọ khổ của thân, hoặc là của tâm.
Cho nên phải ghi lại những hành động đó để biết khi mà gặp cái trường hợp nào nó xảy ra, mà trong khi đó mình phải xả nó bằng cách nào, thì cái này chưa có nói lên cho mấy con nghe được. Là tại vì chưa có ngồi lại mà viết thôi, chứ viết ra nó thành một bộ sách gọi là cái “Người Chiến Thắng - Phần thứ hai”.
(14:09) Và đồng thời, thì Thầy cũng không muốn ghi lại những cái điều của mình. Mà có một cái người nào đó thì có thể họ ghi lại. Trước kia thì có bác sĩ Trí về đây, nhưng mà… Thầy định Thầy sẽ thuật lại hết những công phu, từ những ngày nào, Thầy tu như thế nào, thế nào, thì cái người này ngồi ghi lại những cái trang sử tu tập của Thầy.
Chứ không lẽ Thầy viết để Thầy khoe cái của mình sao? Cho nên Thầy không viết. Chứ sự thật người mà viết cái trang sử đó, chỉ có Thầy là người viết chính xác nhất, không ai viết chính xác bằng Thầy. Nhưng mà Thầy nhắc lại cho một người khác viết, hơn là Thầy, mới là đúng cái nghĩa.
Đến đây thì mấy con cứ nhớ rằng những gì Thầy dạy, là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy. Cho nên người già thì phải tu theo pháp người già, mà người trẻ thì phải tu theo pháp người trẻ.
Vì người trẻ còn sức khỏe, chúng ta nên tu Định Niệm Hơi Thở, nên tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, nên đi Kinh hành nhiều.
Còn người già thì nên tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Đó là cách thức như vậy để mà chúng ta thực hiện được những gì mà chúng ta tu tập.
(15:21) Bây giờ thì Thầy sẽ làm cái lễ thế phát cho cô Diệu Minh.
Thật sự ra Thầy rất lo ngại. Ở đây thật sự ra, quý thầy mà về đây mặc dù là Thầy đã làm lễ xuất gia, truyền học giới Sa Di, mười giới Sa Di cho quý vị, thậm chí như ở đây có người Thầy đã thỉnh quý thầy và đồng thời Thầy làm Hòa Thượng Đường Đầu để mà mở cái Giới đàn thọ Tỳ kheo. Ở Tu viện này Thầy đã làm tất cả những điều đó. Và có một số đệ tử của Thầy đã thọ Tỳ kheo.
Nhưng mà chưa có vị thầy nào mà Thầy cấp giấy tờ. Tại sao vậy mấy con biết không? Không phải Thầy không cấp giấy tờ được, bởi vì trong đạo Phật chúng ta có quyền mở Giới Đàn Thọ Phương Trượng.
(16:04) Còn bây giờ thì Giáo hội mở Giới đàn có phép tắc đàng hoàng. Còn một cái tu viện nào, hoặc là một cái nơi nào đó, người ta có quyền mở cái Giới đàn để người ta hướng dẫn đệ tử người ta giữ gìn Giới luật, người ta có quyền mở Giới đàn.
Nhưng mà khi người ta có quyền mở Giới Đàn Phương Trượng, thì người ta có quyền cấp giấy tờ cho đệ tử người ta. Có giấy tờ hẳn hoi, người đó ở đâu, tên gì, thọ giới đàn Tỳ kheo hay hoặc là Sa Di ngày giờ nào, người ta có. Thậm chí, đều phải có dán hình trong đó hết, chứ không phải là không có hình của các thầy đâu. Ngày xưa thì nó không có cái điều kiện đó, nhưng nó có giấy tờ của cái Giới Đàn Thọ Phương Trượng, chứ không phải không có.
Bây giờ cũng vậy, nhưng mà tại sao Thầy không cấp giấy tờ? Thầy ngại mấy con oai nghi tế hạnh không có đúng. Cấp giấy tờ ra, “đây giấy tờ đây, con đây đã là đệ tử của thầy Thông Lạc”. Mà cái oai nghi tế hạnh của mấy con không xứng đáng, mà mấy con lại nói rằng đệ tử của Thầy - là một người giữ gìn Giới như thế này, mà mấy con sống như vầy, thì nó làm nhục nhã vô cùng cả thầy lẫn trò.
Mà cái giấy tờ của mấy con, nắm ở trong tay là một cái bằng chứng – Thầy đã chứng nhận, Thầy đã ký tên trên đó rồi, thì coi như đương nhiên là mấy con là đệ tử của Thầy.
Còn trái lại, Thầy chưa có chứng nhận mấy con giấy tờ gì hết, chờ mấy con tu mà Thầy thấy được oai nghi, Phạm hạnh của mấy con trọn vẹn, thì Thầy mới chứng nhận cho các con có một cái giấy. Còn nếu mà không, thì mấy con cũng vẫn là một người đệ tử của Thầy qua cái hành động oai nghi, tế hạnh của mấy con.
Còn trái lại, Thầy rất ngại. Là vì Phật giáo nó đã hư hoại nhiều rồi, tu sĩ oai nghi tế hạnh không có rồi, mà bây giờ Thầy lại chứng nhận cho một số đệ tử của mình cũng chẳng ra gì hết, thì rất tội cho Phật giáo. Tự Thầy đã làm hoại Phật giáo thêm. Số đệ tử của Thầy các con biết, cũng có những vị Tỳ kheo được Thầy mở cái Giới Đàn Thọ Phương Trượng ở đây, đã thọ Giới cho họ, và sau này Giáo hội đã làm giấy tờ cho họ hẳn hoi, đàng hoàng.
(18:15) Nghĩa là Thầy thọ trước khi có những cái điều kiện mà Giáo hội cho phép mở Giới đàn. Thì trước đó thì Thầy đã mở những Giới đàn thọ Tỳ kheo ở đây. Nhưng mà số những đệ tử của Thầy hiện giờ - những cái vị Tỳ kheo chẳng ra gì hết: danh lợi, Giới luật phạm, không còn cái gì hết.
Bởi vậy Thầy nhắc đi nhắc lại, nhưng cuối cùng cái dục lạc thế gian cám dỗ, họ không làm sao mà thắng lại được. Đáng thương hơn là đáng ghét họ. Nhưng mà họ tự tạo tội lấy thì trong đó có cái phần Thầy nhận họ đệ tử, nhưng mà may Thầy không có làm giấy tờ gì cho họ, chỉ có Giáo hội cấp giấy tờ họ mà thôi.
Còn ở đây một số người mới sau này, thì mấy con đã biết rằng, Thầy có làm lễ thế phát. Rồi từ lễ thế phát đó, mấy con phải cố gắng học hành những cái Phạm hạnh, sống cho đúng oai nghi, tế hạnh của một người tu sĩ. Thì chừng đó, khi mà các con tu đến cái mức các con mà thực hiện được Tam Minh, các con thực hiện được những Thiền Định mà làm chủ sự sống chết của mình, thì Thầy cấp giấy không muộn.
Mà không cấp giấy, thì mấy con cũng có những cái khả năng bảo đảm là sự tu tập của mấy con đã được như vậy rồi. Cho nên giấy nó cũng quan trọng, nhưng nó cũng không quan trọng đối với một người tha thiết tu hành.
Cho nên trước khi làm lễ thế phát cho mấy con… Bởi vì, ở trong cuộc đời này có rất nhiều cái rất đau khổ. Người ta ham thích xuất gia, người ta ham thích làm thầy, những cái ham thích đó cũng còn một mức độ ham thích, tức là muốn cho mình làm thầy. Cho nên có nhiều người tự cạo tóc mình, rồi tự mặc đồ tu sĩ. Người cư sĩ họ không biết, họ thấy cái hình dáng đó họ chắp tay, họ xá, họ lạy.
(20:06) Nhưng mà sự thật mỗi người chắp tay, xá, lạy, cung kính mình, trong khi mình tưởng mình học hiểu một số kinh sách nào đó thì mình nghĩ rằng đó là mình giải thoát, là Phật, hay hoặc là một vị thầy xứng đáng. Nhưng mà sự thật mình là con số không. Vì ngay cái chỗ mình tự cạo tóc, mình tự mặc y áo thì đó là một cái điều mình vi phạm rất lớn, là mình lừa gạt người khác.
(20:35) Cho nên ở đây, Thầy muốn mấy con tu hành, oai nghi, tế hạnh hẳn hoi. Rồi mấy con mới cạo tóc xuất gia. Thì làm một người tu sĩ không phải dễ, nó rất khó chứ không phải dễ. Lỡ mình nói lời nói, một chút xíu mà người ta có lời nói trái ý mình, cái mình sân đùng đùng lên, người ta nói ông thầy hay cái cô này tu hành gì mà “mặc y, mang bát” mà sân dữ vậy?
Như vậy là mấy con cũng làm mất uy tín của Phật giáo rồi. Cho nên nó khó lắm. Tâm mình còn sân, tâm mình còn tham, thì xuất gia mình mặc những bộ y áo này vô mà sơ suất một chút, là người ta sẽ nói ngay cả cái tôn giáo của mình lận, chứ không phải nói riêng mình đâu, cho nên nó rất khó.
Cho nên đối với một người mà “đầu tròn, áo vuông”, “mặc y áo” rất khó chứ không phải dễ. Chứ chúng ta đừng có thấy mình mặc y áo rồi mình hãnh diện, mình hơn người ta đâu. Sự thật mình so sánh lại cái tâm của mình, cũng như cái tâm của người cư sĩ còn tham, sân, si, còn ham ăn, thích ngủ, còn thích nói chuyện… Thì thôi, mấy con phải biết rằng: Đừng cạo tóc.
Chừng nào mà mình sống được cái hạnh độc cư trọn vẹn, mình thắng được mình, mình làm chủ được mình thì lúc bấy giờ- về cái tâm của mình mình làm chủ được rồi, người ta nói mình, mình như đất, mình không có buồn giận- thì mình mới cạo tóc.
Cho nên tại sao em của Thầy, mà Thầy không xuất gia, Thầy không cho nó cạo tóc? Tại vì Thầy biết rằng, không thể thực hiện được một cái điều kiện của Phạm hạnh, Thánh hạnh cao quý của đức Phật, thì dù tình thân ruột thịt của mình cũng vậy, không được dùng nó để mà lừa đảo, không được dùng nó để mà lừa gạt người khác. Mà phải bằng thực chất, bằng thực lực.
(22:31) Chẳng hạn mà bây giờ mà cô ấy không rầy, không la, không nói này nói kia, thì hầu như quá dễ dàng, thì những người vào đây Thầy nói thật sự họ không áp dụng được cái Phạm hạnh, cái Giới luật ở đây.
Thí dụ như ăn, ngủ, độc cư, mà nếu mà không có Diệu Quang, thì chắc chắn là Thầy không làm sao mà Thầy rầy mắng các con được. Bởi vì đối với người tu như Thầy, không bao giờ rầy mắng ai. Chỉ biết tùy thuận, nhẫn nhục, biết vui vẻ, biết khuyến khích, biết nhắc nhở. Mà cái nhắc nhở như của Thầy ấy thì Thầy nghĩ rằng các con tật nào, tật nấy, không bao giờ mấy con chừa.
La như cô Diệu Quang, mà nhiều khi mấy con còn không bỏ. Huống hồ như Thầy, thì chắc chắn là cái Tu viện này nó ồn náo như một cái chợ, cỡ như một vài trăm người.
Thì hôm nay cái Tu viện này đó mấy con, hai ba trăm người, cả ngàn người chứ không phải ít. Thầy nói thật sự, rất đông. Người ta rất ham tu, nhưng mà người ta tu theo cái kiểu của người ta, chứ không phải là tu theo kiểu của Thầy dạy.
Thầy bảo rằng nếu mà Tu viện không có cô Diệu Quang, thì nơi đây rất đông người ra vào nhưng mà chẳng có chất lượng gì hết mấy con. Thật sự ra mấy con về đây thì mấy con thấy biết, cô Diệu Quang là cái người không nghĩ cô làm Bồ tát hạnh, cô không nghĩ cô ấy làm một cái gì. Nhưng mà cô nghĩ cô chỉ giúp Thầy thôi, cũng như cô giúp Thầy tu hành thôi. Cũng như giờ giúp mấy con cơm nước, này kia, là cô ấy giúp mấy con tu hành thôi, chứ cô không nghĩ cô làm phước báo gì hết.
Hiện bây giờ thì cô cũng đang lo xả tâm của mình, cũng đang tập tu từng chút, cũng như mấy con vậy, để mà cô chịu đựng với mấy con thôi. Rồi cái gì mà trái ngang, làm cho cô buồn phiền, thì cô cũng ráng cô xả như mấy con thôi. Cô cũng đau, cũng bệnh, cô cũng ráng cô xả. Rồi khi hết, khi không, chứ không phải là lúc nào cũng hết. Do đó cô cũng đem hết sức lực mình ra tu cho mình, nhưng cô tu trong cái độc, rất độc, cái rất đáng thương.
Thay vì cô được yên tĩnh tu tập, thì nó mới mau. Nhưng mà tu trong cái thế này thì nó không mau được. Cho nên vì vậy mà, hi sinh đời của mình cho mọi người thì cũng tốt chứ không sao.
(24:38) Nhưng mà Thầy thấy ở trong cái giai đoạn này, thì chưa có đủ những người mà tu chứng. Chứ nếu mà đủ những người mà tu chứng, cùng Thầy mà mở tám cái lớp học đạo Phật, thì chắc chắn là cái người mà xuất gia không sợ rồi. Nghĩa là phải trải qua tám cái lớp này rồi Thầy mới cho xuất gia, rồi trở thành… chứ không phải…
Cho nên các con thấy, ngày xưa một người mà đến xin đức Phật, nhất là ngoại đạo mà đến xin đức Phật, thì phải bốn tháng biệt trú. Đức Phật cho vào ở trong chúng bốn tháng biệt trú, để rồi người ta xem coi mình có chấp nhận được cái Phạm hạnh, được những cái đức hạnh. Oai nghi, tế hạnh mà mình chấp nhận được thì người ta mới chấp nhận. Còn mình chấp nhận không được thì cứ tự nhiên mình về, chứ không có bắt buộc, không có ép buộc ai hết. Cho nên bốn tháng.
Thì thường thường trong Kinh hay nói là các vị ngoại đạo đến xin Phật để mà tu, thì đức Phật nói bốn tháng biệt trú thì đức Phật mới cho thọ Tỳ kheo, mới cho xuất gia tu theo Phật, còn nếu không được thì thôi. Thì các vị đó mới nói bốn năm các vị cũng chịu nữa.
Nhưng mà ở đây, Thầy nói thật sự ra mấy con thấy rõ ràng, mấy con đến Tu viện Chơn Như là mấy con quyết tâm tu, quyết tâm tu thật sự, chứ không phải là không quyết tâm, nhưng mà các con sống nó không có đúng cái hạnh ở đây.
Thí dụ như về ăn, ngủ, nói chuyện, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, thì mấy con cũng chưa có trọn vẹn được. Cho nên chấp nhận nó, thì bắt đầu bây giờ các con thấy chấp nhận một người mà chưa biết pháp tu mà chấp nhận cái nhẫn nhục, chấp nhận cái tùy thuận, chấp nhận bằng lòng, thì không bao giờ tức giận. Bởi vì mình chấp nhận nó mà, mình phải chịu đựng. Thì trong cái thời gian chấp nhận, chịu đựng đó, người ta biết người này có quyết tâm tu, cho nên người ta chấp nhận người ta mới dạy cho họ, để họ biết cái pháp nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng như thế nào.
(26:22) Còn bây giờ mấy con vô thì mấy con phải ở trong cái Giới luật của nó, là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Cho nên ai nói cái gì, thì mấy con phải là cố gắng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, chứ không có được…. Và đồng thời thì những cách sống của mấy con phải sống đúng.
Ăn thì không ăn phi thời, không có mang sữa, mang bơ, mang bánh, mang trái theo. Phải ăn ngày một bữa.
Và đồng thời, mấy con giờ giấc phải nghiêm chỉnh. Giờ nào ra giờ nấy. Chứ không có được ngủ trước, ngủ sau như thế này. Đó là những cái hạnh mấy con sống.
Và đồng thời thì phải độc cư trọn vẹn, không được nói chuyện. Người nào sống riêng người nào, chứ không được nói chuyện này kia.
Do những cái hạnh này mà trong bốn tháng người ta xét thấy đúng thì người ta chấp nhận. Mà không đúng thì mấy con về. Có phải không? Như vậy rõ ràng là người ta đang trắc nghiệm để chọn lấy người tu thật, người tự giác, hay là người không tự giác.
Còn bây giờ đến đây, thì trong vòng một tuần lễ thôi mấy con nói chuyện ào ào. Mấy con gặp chuyện này, chuyện nọ, chuyện kia đủ thứ hết. Rồi thậm chí, Thầy nói thật sự, thậm chí mấy con còn nói cô Diệu Quang là này kia nọ, đủ thứ hết.
Hoàn toàn mấy con nói sao Thầy đều nghe hết. Nghĩa là các con tưởng Thầy không biết, không nghe. Thầy biết hết, toàn bộ Thầy biết. Nói như thế nào, sau khi mà bị rầy la thì mấy con tức giận, mấy con nói với người này như thế này, thế khác, đều là Thầy biết hết. Thầy biết là cái điều đó – như vậy mấy con chưa có nhẫn.
Mấy con nói ra một cái điều gì đó, thì mấy con phải biết là Thầy biết chưa có nhẫn. Như vậy là Thầy biết mấy con theo Thầy tu chưa có tới, chưa có được. Người ta nói cái gì người ta nói, nói oan nói ức, nói gì thì nói, mình vẫn phải nhẫn và vui vẻ. Tùy thuận, bằng lòng mà. Trước cái cảnh thử thách đó, mới thấy đạo Phật tự giác để mà đi tìm con đường giải thoát.
Từ đó sau khi người ta nhận vô rồi, thì người ta mới dạy cho mình những cái pháp, để cho mình thực hiện, để cho mình giải thoát.
(28:13) Cho nên thí dụ như có nhiều người hỏi Thầy cái pháp “tu nhanh”. Thật sự ra trong con đường tu tập, nó có nhiều bí quyết tu tập, để đạt được cái kết quả làm chủ sanh tử luân hồi. Nhưng mà người đệ tử không ra gì, thì hoàn toàn không trao những cái pháp bí quyết đó đâu. Thầy nói thật sự mấy con giữ đúng hạnh, đúng đắn, hẳn hoi - là con người có đủ những cái điều kiện đáng truyền cho họ- thì mới truyền. Mà không đáng truyền, thì không truyền. Bởi vì Phật pháp mà, nó là cái pháp quý. Chúng ta biết kính trọng nó thì chúng ta sẽ được cái gì: Kinh nghiệm tu tập.
Người ta làm chủ hẳn hoi, người ta biết cách, nhưng mà người ta đâu có truyền. Cái người nào cũng tham lam, vì vậy nhiều khi chúng ta truyền, họ không tu, họ lấy cái đó họ đi ra, họ nói như là họ làm được.
Cho nên tại sao có những loại sách mà Thầy nói, nhưng có loại sách Thầy lại không viết ra, các con hiểu điều đó. Cho nên có nhiều điều mà Thầy không viết ra. Thầy biết rằng đức Phật rất khéo léo, Ngài cô đọng những cái pháp đó bằng những cái ngôn ngữ rất là cô đọng, chỉ có những người tu chứng người ta mới hiểu được cái ngôn ngữ đó. Cho nên bây giờ Thầy cũng bắt chước Phật, nói những cái ngôn ngữ đó, để khi những cái bí quyết đó, có người tu chứng, người ta sẽ triển khai cho những người đệ tử quyết tâm tu giải thoát, thì người ta mới dạy.
Còn mấy con quyết tâm có, nhưng mà cái điều kiện mấy con lại phạm vào cái Phạm hạnh, không chấp nhận cái đời sống Phạm hạnh, thì làm sao người ta dạy mấy con được? Mấy con luôn luôn sống ở trong danh, trong lợi, làm sao người ta dạy mấy con được? Buộc lòng là phải những người “ly dục, ly ác pháp” thật sự thì mới truyền dạy sự giải thoát. Cho nên sau một thời gian, một tháng hay hai tháng, ba tháng, bốn tháng mấy con ở đây, là người ta biết cái người tu được, người tu không. Nghĩa là người ta thấy rất rõ.
Bây giờ đặt thành vấn đề nữa: Khi mấy con bước vào Tu viện, mấy con đến đây mấy con xin theo Thầy tu tập, Thầy biết cái người này tu được hay không tu được. Ngay liền là biết rồi, chứ còn không cần đợi mấy con ở đây một, hai tháng.
Nhưng mà để thấy rằng cái sự rõ ràng hơn, cụ thể hơn, là mấy con ở đây một, hai tháng, để cho mấy con trong vòng mấy tháng đầu mấy con còn phạm phải, và những tháng sau thì được Thầy nhắc nhở. Từ cái chỗ nhắc nhở đó, mấy con mới khép mình trong cái khuôn khổ, không hề vi phạm nữa. Từ đó, Thầy mới biết rằng những người đệ tử này mới xứng đáng là người đệ tử của Thầy, mới đem những cái bí quyết này mới dạy cho họ.
(30:21) Chứ còn không khéo, thì cũng không dạy. Bởi vì mấy con cứ còn vi phạm những cái lỗi lầm này thì không bao giờ mà Thầy dạy. Dù dạy thì mấy con tu cũng không đạt được những kết quả như Phật đã dạy. Cho nên các con nhớ kỹ.
Vì vậy hôm nay Thầy biết cái hoàn cảnh của cô Diệu Minh, cho nên Thầy làm lễ xuất gia để cho cô có một cái duyên, cái duyên để mà tiếp tục thực hiện cái nguyện vọng ao ước tu hành.
Cũng như các con hôm nay có một số người cũng xin Thầy để mà xuất gia. Cái ước nguyện của các con là ước nguyện cao đẹp. Nhưng mà cái hành động sống Phạm hạnh, các con phải chuẩn bị. Vì Thầy nghĩ rằng khi mà quyết xuất gia, thì mình phải chuẩn bị để cho mình sống trong một cái khuôn khổ, cái khuôn phép của đạo Phật. Chứ không thể nào mà ra ngoài cái khuôn phép đó mà là người xuất gia được. Nó có cái hành động sống của nó.
Cho nên bên nữ nó còn khó hơn nhiều bên nam. Cho nên vì vậy mà các con phải cố gắng khắc phục mình, để mà Thầy tìm thấy được cái hạnh của mấy con sống đúng.
Chẳng hạn bây giờ các con muốn xuất gia, các con về đây, các con ở đây trong bốn tháng. Thầy xem được cái hạnh của mấy con đúng rồi, thì Thầy sẽ chấp nhận cho mấy con xuất gia, cạo tóc thọ Sa Di liền, ngay liền. Vì mấy con có thể sống được, và là một tu sĩ của Phật giáo được, là qua những cái hạnh mà ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Thì đó là những cái hạnh đầu tiên của đạo Phật để xem xét lại những cái người đệ tử của mình, để chấp nhận cho họ trở thành người đệ tử của Phật hay không.
Đó là cái điều kiện mà Thầy nói ở đây, để cho hôm nay là cái lễ thế phát cho cô Diệu Minh thì Thầy nói chung để cho mấy con có cái tinh thần chuẩn bị. Vì cuộc đời của mình có nhiều người quyết tâm tu lắm, nhưng mà mình chưa biết cái cách thức nào hết. Không phải nói để cho mấy con sợ, mấy con không tu đâu.
(31:55) Nói để cho mấy con chuẩn bị tinh thần của mình vững vàng. Khi bước chân vào, là mình phải làm, phải sống đúng oai nghi, tế hạnh của người tu sĩ. Như vậy mới bảo đảm. Chứ không khéo, mấy con sống y như ngoài đời, nó không có khác chút nào hết. Cho nên nó là một cái sai.
Còn bây giờ, Thầy xin làm lễ.
Sau này có dịp, thì cái bộ “Người Chiến Thắng – Phần thứ hai”, thì mấy con sẽ đọc thấy những cái kinh nghiệm tu hành của Thầy. Và chắn chắn Thầy cũng sẽ nói lại với một cái người nào đó, để mà người ta ghi chép lại những kinh nghiệm tu tập. Thì mấy con sẽ được đọc cái hành động…
Bây giờ cô Diệu Minh, con đến đây đi, Thầy làm cái lễ cho con.
Lễ cạo tóc xuất gia tức là lễ thế phát. Vậy thì thế phát tức là tạo cho mình có một hình dáng của một người đệ tử tu sĩ của đạo Phật. Và cái hình dáng đó rất là trang trọng. Cho nên cái hình dáng mà cạo tóc, “đầu tròn áo vuông, mặc áo cà sa”, hoặc nói một cách khác là “mặc áo tu sĩ” thì cái hành động sống hằng ngày phải cố gắng học hiểu, giữ gìn cho nghiêm túc, đúng cách của một người tu sĩ: Từ cái đi, đứng, ngồi, nằm.
Ngày xưa chúng ta thì ngồi đâu cũng được, nhưng hôm nay khi mà cạo tóc, mặc áo tu sĩ, thì khi ngồi phải nhìn trước nhìn sau. Chỗ nào là đúng chỗ cho mình ngồi, thì mình ngồi. Chỗ nào không đúng, thì mình không được ngồi. Và tránh khi mà chỗ không đúng như thế nào?
(34:32) Như trên chiếc võng, trên cái giường ví dụ như trên cái giường của người nữ, thì người nam không được ngồi. Trên cái nơi mà của người nam, thì mình không được ngồi trên đó, hoặc nằm trên đó. Mình phải quan sát trước cái chỗ này xứng đáng cho mình ngồi. Chỗ kia không xứng đáng thì không nên ngồi, nằm trên những cái chỗ đó. Đó là những cái điều cần thiết mà sau này con còn phải học nữa.
Và đồng thời khi đi, thì không phải đi chậm quá, mà cũng không phải đi nhanh quá. Khi có công chuyện gì vội vàng, thì chúng ta không được chạy. Cũng đi chậm chạp, không được vội vàng. Đó là những điều cần thiết. Cho nên khi mà cái đầu tròn như thế này mà chạy ào ào thì không thể được. Cho nên chúng ta tránh, nhất là người tu sĩ nữ, thì lại càng tránh những cái oai nghi vội vàng đó. Nó không hay, không tốt.
Còn khi nói chuyện với những người khác, thì luôn luôn cố gắng dè dặt, giữ cái lời nói mình ôn hòa, nhã nhặn khi mà mình là người tu sĩ. Không được nói lời nói to tiếng, không được nói lời thô lỗ. Đó là những cái lời nói của mình.
Vì tất cả những cái này, người ta dễ nhận xét. Người ta dễ nhận xét và người ta phê bình tu sĩ Phật giáo, tội cho người tu sĩ Phật giáo, và tội cho đạo Phật. Đạo Phật không muốn có những người đệ tử như vậy. Mà có những người đệ tử như vậy là đã làm cho người ta mất niềm tin với Phật giáo.
(36:20) Cho nên hôm nay khi mà cạo tóc cho con rồi, thì đối với trong gia đình của mình – mọi người, thì mình coi như là những người thí chủ. Mình đừng xem họ là những người thân, ruột của mình nữa, mà hãy xem như những người ân của mình.
Thí dụ như cha mẹ, là mình đừng có xem họ như cha mẹ nữa, mà mình hãy xem họ là người bố thí, người ân của mình, người tri ân của mình, ban cho mình cái thân tâm này, ban cho mình có cái thân này đến hôm nay mình tu tập. Đó là cái ân nghĩa của cha mẹ, là ân nghĩa của một người đại bố thí, mới có cái thân này.
Chứ không còn nghĩ rằng cái tình cảm của mình mà đối với cha mẹ như xưa nữa. Mà phải thấy đây là một cái ân – ân nghĩa rất lớn đối với người đại bố thí này – của cha mẹ mình.
Còn đối với anh, em ruột thịt, mình nên xem họ là tất cả những người có thể giúp mình trên con đường tu tập, cũng là người đàn na thí chủ - mà người đàn na thí chủ rất thân cận với mình- chứ đừng nghĩ họ là anh, em ruột, thịt. Thậm chí như con cái của mình, mình cũng xem họ là những người đàn na thí chủ, giúp mình trong cuộc đời của mình.
Cho nên nói: “Xuất gia thì ly gia cắt ái”. “Ly gia” là lìa khỏi cái gia đình của mình. “Cắt ái” là cắt tất cả những cái tình thương của mình đối với những người trong gia đình của mình. Nhưng không có nghĩa “cắt ái” là cắt lòng thương của mình. Bây giờ nó thương, nhưng mà nó thương với cái sự kính trọng của một người đàn na thí chủ. Chứ không phải là thương với cái tình cảm mà còn quây quần trong một cái gia đình nữa. Nhớ, cái này rất khó.
(38:18) Bởi vì nghe cái câu nói: “Xuất gia thì ly gia cắt ái”, đó là những điều rất khó, khó làm, chứ không phải là dễ làm. Cho nên thường xuyên những cái ái kiết sử nó khởi lên, tức là cái tình cảm của mình đối với con cái, đối với chồng con, đối với cha mẹ…, tất cả những cái này là ái kiết sử.
Cho nên khi mà có những cái niệm thương, ghét của ái kiết sử, thì mau mau dùng câu tác ý mà tác ý: “Đây là kiết sử, hãy đi đi, ta là người tu hành ly gia cắt ái, các ngươi không có đến đây mà quấy rầy ta nữa!”. Con khắc ghi những lời này, để giữ gìn cho mình khi mình xuống tóc, cho nó trọn vẹn trong tâm tư của mình. Nếu mà con không nhớ câu này, thì ái kiết sử nó sẽ làm cho con mất cái hạnh “cắt ái, ly gia”. Cho nên nó làm cho con không có lìa khỏi cái sự ràng buộc của cái chùm nhân quả. Cho nên phải nhớ những câu nói như vậy. Để giữ tâm mình cho nó được lìa ra cái cõi thế tục.
Bởi vậy khi mà xuống tóc cho con, Thầy rất lo. Là làm sao cho con xứng đáng là một người đệ tử của Thầy, của Phật. Là phải sống như thế nào cho đúng. Nhớ những lời Thầy dạy hôm nay. Đó là những cái điều rất khó cho mấy con. Thà là mấy con mặc chiếc áo cư sĩ, có gì thì cũng không sao hết. Nhưng mà mặc chiếc áo tu sĩ, cái hình dáng của người tu sĩ, thì nó có phải khác hơn đời.
(39:51) Cố gắng! Khi mà cạo tóc rồi thì: “Ngày một bữa. Không nên ăn phi thời. Nhất định chết bỏ”. Ngày nào con cũng thọ trai trong một cái bát. Mặc dù là con không có đổ thực phẩm vào ở trong một cái bát, mà con trộn lẫn lại ăn, con cũng để cơm, đồ ăn bỏ dần trong bát, rồi con cũng dùng cái muỗng mà múc ăn. Rất là nhẹ nhàng. Phải tập. Phải tập ăn, nó mới được.
(40:22) Không khéo không tập ăn trong bát, thì con sẽ không ăn được. Là vì bây giờ thì chúng ta tập, nhưng ngày mai chúng ta trở thành một tu sĩ thật sự ôm bát đi xin, ăn trong bát, không có bàn, đĩa, không có chén, bát nhiều, không có đũa, dĩa. Mà chỉ có cái muỗng múc ăn mà thôi, chứ không có nhiều. Ngày xưa thì đức Phật dùng tay bốc. Chúng ta mới thấy là một đời sống của người tu sĩ đặc biệt là cái hạnh.
Hạnh ăn, rồi hạnh ngủ. Khi nằm ngủ, thì mấy con nhớ rằng không có nằm ngửa, nằm sấp, mà chỉ có nằm kiết tường, nằm nghiêng thôi. Hễ nếu nằm nghiêng bên đây mỏi, thì con nghiêng qua bên kia nằm. Chứ đừng có nằm ngửa, hoặc là nằm sấp, không có được. Và nằm đừng có nằm mà hai chân gác lên trên như người đời. Chúng ta nằm thì cứ nằm nghiêng bên tay phải, hoặc là bên tay trái, nằm nghiêng hai chân chồng lên. Đó là những cái oai nghi của người tu sĩ. Để không khéo, mình nằm như vậy thì sai.
Người tu sĩ không được nằm võng, vì nằm võng cái thân của mình bị cái võng lúc lắc. Mà nằm võng thì các con nằm nghiêng không có được đâu. Thường thường nằm võng là nằm ngửa, mà cái oai nghi của người tu sĩ không có cho phép. Cho nên những tu sĩ mà nằm ngửa, thì không có được. Cho nên vì vậy người tu sĩ mà nằm võng, thì sai cái hạnh của người tu rồi, không có đúng cái phạm hạnh. Cái võng nó có cái tiện lợi, là chúng ta giăng chỗ nào đó chúng ta nằm cũng được hết. Nhưng mà không tốt, nó không đúng cái oai nghi. Tránh nằm võng. Mà ở trong các chùa Đại Thừa, thường thường là các sư, các thầy hay treo võng nằm, để lúc lắc. Đó là cái cách thức chạy theo cái dục của thế gian.
Chúng ta sống (…) Cho nên khi mà chúng ta có một cái ghế xếp mà chúng ta nằm, ngồi ở trên ghế xếp thì chúng ta ngồi dựa lưng thì được. Nhưng khi mà trải nó nằm ra, chúng ta nên nghiêng mình (…) Đó là những oai nghi. Phải tập rồi nó quen. Còn nếu mình không tập, thì nó không quen. Chứ tập rồi nó quen. Các con sẽ nằm nghiêng kiết tường thì rất tốt, rất đẹp, và rất kín đáo. Đó là cái nằm.
(42:27) Còn cái đi, thì mấy con đi theo Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đi thư giãn nhưng mà đi chậm chạp, đừng có vội vàng. Đi để mà tập trung trong từng bước đi của mình, đi để mà tỉnh thức ở trên thân hành của mình, thì không được đi vội, đi lật đật. Đó là những cái hành động đi.
Còn khi đứng lại, thì chúng ta cũng phải biết cái nơi đứng lại. “Không được đứng trước cửa người, dưới nhà người. Không được đứng chỗ nơi thanh vắng, mà cũng không được đứng nơi đông đảo”. Những chỗ mà đông đảo, thì chúng ta đừng có đứng cái nơi chỗ đó. Mà cũng không được đứng chỗ nơi thanh vắng, vì chỗ thanh vắng không biết nó lỡ có trộm, cướp, hay này kia người ta sẽ rình cái nơi thanh vắng.
Hoặc là có người khác, nhất là nữ một mình mình, mà đứng chỗ thanh vắng, lỡ có một người nào đó người ta làm những điều sai quấy thì mình làm sao? Tức là cái thân người nữ rất khổ. Cho nên khi đó, thường thường là mấy con khi mà xuất gia rồi, thì mấy con đừng có đi một mình, mà phải ít nhất có hai người, có gì thì còn bảo vệ với nhau.
Cho nên trong thời đức Phật đó, thì Tăng đoàn nam ở chỗ nào, thì cách đó thì Tăng đoàn nữ sẽ ở gần đó chứ không có được ở xa. Nhưng mà ở riêng, chứ không có được ở chung. Nhưng mà Tăng đoàn của chư Tăng thì ở cách xa với Tăng đoàn của nữ. Để có sự bảo vệ cho nhau. Chứ nếu mà mấy con ở riêng rẽ, thì người đời nó sẽ hiếp đáp mấy con. Cho nên do như vậy, mà trong thời đức Phật khi mà cho người nữ xuất gia thì đức Phật đã dạy cho chúng ta biết những cái điều này, để bảo vệ cho giới nữ. Rất là khổ. Bởi vậy, nó không có đơn giản. Nó rất khó chứ không phải dễ.
(44:22) Đó là những bộ Giới để dạy Phạm hạnh cho mấy con chứ không có gì hết, mà Thầy làm chưa có xong. Cho nên bây giờ mấy con ham xuất gia sớm, thì phải cố gắng nghe lời Thầy dạy những cái oai nghi, tế hạnh như vậy.
Và đồng thời con đọc lại một trăm giới chúng học mà Thầy đã dạy trong bộ Giới Đức Làm Người. Thì con đọc lại một trăm oai nghi đó, để mình thấy những cái oai nghi. Để mình giữ được cái nào, thì mình cố gắng mình giữ. Còn cái nào nữa, thì lần lượt những cái lớp Thầy sẽ mở cho số tu sĩ mà được về bên Thầy - là tu sĩ đó, có những lớp học oai nghi, tế hạnh. Tức là học Giới luật đó. Thì chắc chắn là Thầy sẽ phải đảm nhận những cái lớp đó để dạy cho số đệ tử xuất gia của mình, trong đó có nam và có nữ. Chứ từ lâu tới giờ Thầy chỉ nhận dạy cho mấy con tu, chứ đâu có dạy Giới luật. Nhưng mà chính dạy tu, tức là dạy Giới hành. Giới hành tức là cái pháp tu.
Cho nên vì vậy mà nhớ những lời Thầy giảng dạy hôm nay, để giữ gìn những oai nghi, tế hạnh: cách thức nằm, cách thức đi, cách thức ngồi.
Ngồi, nhất là người nữ, không nên ngồi chồm hổm. Ngồi thì phải ngồi xếp bằng, hoặc ngồi ở trên một cái ghế, đừng có ngồi chồm hổm. Cách thức của người tu sĩ không được ngồi chồm hổm. Cho nên khi mà chúng ta tu pháp Thân Hành Niệm, thì chúng ta mượn cái thế ngồi chồm hổm để chúng ta đứng dậy mà thôi. Chứ không phải là chúng ta ngồi chơi mà ngồi chồm hổm. Cho nên mấy con nhớ kỹ trong cái vấn đề oai nghi mà ngồi như vậy.
Mà ngồi trên một cái ghế mà tréo chân, bắt chân, gác đầu gối chân này gác lên đầu gối chân kia, thì không được. Mấy con ngồi như vậy không có được. Cho nên chúng ta không, người nam cũng vậy, mà người nữ cũng vậy. Chứ không phải là nữ không cho ngồi, mà nam cho ngồi. Người nào cũng vậy, ngồi cứ thả chân xuống vầy. Chúng ta để hai cái bàn chân tréo vậy, là để giữ cái thân mình kín đáo, chứ không phải. Còn khi mà hai cái chân này nó gác lên cái đầu gối chân này kia, kêu là ngồi chữ ngũ đó, thì là ngồi như vậy không có được mấy con. Cho nên chúng ta tránh. Ngồi chồm hổm không được, ngồi hai chân gác lên nhau không được. Đó là tránh được cái điều kiện ngồi.
(46:36) Ngồi trên ghế, bình thường ngồi dựa lưng như thế này. Đó, ngồi vậy thì được. Nhưng khi mà ngả lưng nằm trên ghế thì nghiêng qua các con, đừng có nằm ngửa. Đó nhớ cái cách thức nằm. Mà nằm ngủ trên giường cũng vậy.
Mà sau này các con thọ giới rồi, thì các con sẽ có một miếng vải làm cái tọa cụ, xếp lại thì ngồi, mà trải ra thì làm cái tấm vải trải ngủ. Nghĩa là mình đi đâu, đi đến bất kỳ chỗ nào thì các vật dụng cũng có những cái điều kiện thuận tiện để cho mình ngủ. Lấy tay thì làm gối, không có mang gối theo. Nghĩa là lấy cái tay co lại làm gối mà nằm. Còn cái tấm tọa cụ là nó trở thành cái tấm trải giường cho mình nằm. Và đồng thời nó xếp lại vuông, thì nó trở thành tọa cụ để mình ngồi thiền. Đó là cái cách thức của người tu sĩ.
Và đồng thời, người nữ thì như mấy con mà xuất gia thì có hai bộ đồ ngắn và một cái y thượng. Còn hoàn toàn không được thừa hơn. Bởi vì người phụ nữ thì như vậy, còn người nam thì người ta chỉ có một bộ đồ mà thôi, với một cái y thượng người ta thôi. Đó là “ba y một bát”. Còn mấy con bên nữ thì mấy con được hai bộ đồ. Là tại vì mấy con nó khác người nam, cho nên nó phải có hai bộ đồ để bộ này giặt, bộ kia thay.
Còn người nam thì người ta có thể giặt cái y hạ và y trung, thì người ta có y thượng. Còn mấy con có y thượng, nhưng mà sự thật ra thì y thượng của mấy con để giữ gìn cái tướng phước điền, hơn là lấy cái y thượng mà che thân của mấy con. Vì vậy mà mấy con phải có cái bộ đồ mặc kín đáo hơn, đó là hai bộ đồ, thì như vậy nó mới được. Cho nên trong những cái oai nghi, cái cuộc sống của người tu sĩ, phải chuẩn bị cho họ hẳn hoi, để đời sống họ nó vừa đủ, nó không thừa, nó mới là giải thoát.
(48:41) Những cái điều mà Thầy nói như vậy lần lượt thí dụ con tập, chứ không phải ngay bây giờ. Ngay bây giờ là làm cái lễ thế phát mà thôi. Sau đó học Giới luật, sống cho đúng Giới luật. Rồi lần lượt Thầy sẽ truyền, từ tập giới Sa Di cho đến Thức xoa, cho đến Tỳ kheo ni, tất cả những Giới luật này đều được học, và được sống – Sống cho rất đúng, không còn sai phạm nữa.
Và các con nhớ rằng khi mình sống đúng Giới luật, là tâm mình mới ly dục lần mới hết được. Nghĩa là “ly dục ly ác pháp” lần mới hết. Bởi vì Giới luật là cái pháp vô lậu. Vì vậy mà mình tập sống cho đến khi mà mình trọn vẹn không còn vi phạm Giới luật, là cái tâm “ly dục, ly ác pháp” nó gần xong rồi.
Cho nên chúng ta muốn sống như vậy, thì một bên là chúng ta có pháp hành, tức là Giới hành làm cho cái tâm nó giữ gìn Giới luật càng ngày càng nghiêm chỉnh hơn. Cho đến khi mà Thầy gọi các con: “Thiện lai Tỳ kheo”, thì lúc bấy giờ các con đã trở thành những bậc A La Hán vô lậu hoàn toàn. Đó là mới đúng nghĩa của người tu sĩ của đạo Phật.
(49:49) Vậy thì bây giờ Thầy sẽ chải tóc để xuống tóc con. Con hãy quỳ trước Phật.
(50:12) Chúng ta thường hay giết hại chúng. Thí dụ như bây giờ các con thấy như cái loài gia súc, nó thấy con người chúng ta (…) dữ tợn, thường bắt chúng ăn thịt, thường giết hại chúng.
Thầy nói thật sự, bây giờ có một cái người đó (…). Mà đối với chúng ta nhìn thì đẹp, nhưng mà đối với một cái loài vật, nó không phải vậy. Cũng như mấy con nghĩ, khi xưa mình nhìn con người chúng ta mấy con biết sao không? Khi xưa nhìn con người chúng ta đã thấy từ cái tâm, cho đến cái thân xác của chúng ta, hoàn toàn là bất tịnh, hoàn toàn là dơ bẩn. Không có gì mà sạch sẽ mà trong cái thân của chúng ta.
Cho nên cái người mà gọi là chư Thiên, là cái người đã thấy rõ được bất tịnh, đã thấy rõ được mười cái điều ác mà con người của chúng ta hoàn toàn là ở trong những cái điều ác đó. Cho nên không hở ra thôi, mà khi hở ra thì giận dữ. Khi hở ra thì đủ cách, có thể mà giết hại người khác được, giết hại loài vật khác được.
Cho nên cái con người - thân của chúng ta - là bất tịnh. Nó dơ bẩn, ghê gớm lắm. Chứ nó không có đẹp đẽ. Người thì mặt như thế này, người mặt như thế khác, nó thể hiện qua cái sự hung ác của nó, qua cái nghiệp lực của nó, chứ nó đâu có tốt lành gì.
Cho nên có nhiều người nói dâng hoa cúng Phật để cho mình sinh ra được đẹp đẽ, cái sự đẹp đẽ đó nó có ra gì khi mà… Như các con nghĩ lúc mà mấy con còn trẻ, mà còn là những cô thiếu nữ, mấy con thấy nó đẹp. Nhưng mà sự thật cái đẹp của cái con người chúng ta nhìn với nhau, là nó gợi những cái coi như là đi theo dòng của quy luật nhân quả. Nó gợi cái lòng dục mà thấy nó đẹp.
Chứ như chúng ta quán đi, chúng ta suy tư theo Phật, thì cái đẹp đó nó chẳng có cái gì. Hoàn toàn cái thân của chúng ta nó chẳng ra gì hết. Cho nên đối với cái gọi là chư Thiên, mà nhìn cái thân con người, thì người ta thấy nó xấu xí vô cùng. Nó không có cái gì mà đẹp đẽ ở đó hết. Cho nên vì vậy mà tại sao đạo Phật không để cho chúng ta còn mái tóc trang điểm cho đẹp, mà lại cạo đi, tức là làm cho chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta không còn đẹp đẽ nữa.
(52:42) Cho nên trong mười cái Giới Đức Thánh Sa Di đó, Thầy có nhắc có một cái cô người Nhật Bản, cái cô này rất đẹp đến xin một vị Thiền sư tu hành. Nhưng mà cái vị Thiền sư này nói cô đẹp quá, tôi không chấp nhận cô tu đâu. Bởi vì cái người đẹp khó tu lắm. Cho nên khi đó, cô này về mới hủy hoại cái mặt của mình làm cho xấu mới đến xin, thì vị Thiền sư này mới cho cái vị này tu hành.
Thì sự thật ra, thì cái câu chuyện huyền thoại như vậy. Chứ ít ai mà có cái gương mặt đẹp mà họ đi làm cho họ xấu. Họ làm cho đẹp nữa thì họ làm, chứ họ đâu có làm cho họ xấu, các con hiểu điều đó không? Cho nên ở đây là cái huyền thoại như vậy. Chứ ít ai mà cái mặt như thế này, thì đem ít xút tạt trên đó cho cái da này nó đùn lên, nó làm hơn là cái mặt của con quỷ, thì chắc không ai dám hết, điều đó không bao giờ người ta làm.
Nhưng mà điều kiện người ta muốn nêu câu chuyện đó ra, để thấy rằng cái thân của chúng ta nó không có bằng cái sự tu tập, nó không có bằng cái con đường mà tu tập giải thoát. Để không chúng ta chấp là mình tu tập để mình đẹp trai này kia, hoặc là đẹp gái này kia. Điều đó là điều sai.
Bởi vậy trong đạo Phật các con thấy, rõ ràng là đức Phật không chấp nhận ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Thế mà Đại Thừa thì chấp nhận, còn chính Nguyên thủy không chấp nhận. Cho nên đức Phật, trong những điều kiện của Bà la môn, có nói rằng nếu một Bà la môn thì phải đẹp đẽ, tướng phải tốt, phải đẹp đẽ. Thì đức Phật nói đẹp đẽ mà ăn trộm, ăn cắp, nói láo, vọng ngữ, tà dâm, uống rượu, thì cái đẹp đẽ đó nó có xứng đáng là một Bà la môn hay không? Cho nên một vị Bà la môn trả lời, như vậy dù đẹp đẽ mà tham lam, trộm cắp thì không phải là Bà-la-môn. Thì đức Phật chấp nhận, cho đó là những vị Bà la môn, đã chấp nhận.
(54:39) Như vậy rõ ràng là đức Phật bác cái vẻ đẹp, đâu có nói người xấu, người đẹp. Người nào cũng là con người, chứ không phải là người đẹp mà mới tu thành Phật. Cho nên “ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật” thì sự thật ra, cái điều này là của Đại Thừa bắt chước Bà la môn mà thôi, chứ còn đối với đạo Phật thì không cần.
Cho nên cuối cùng thì đạo Phật chỉ lấy cái Giới luật và cái Trí tuệ mà thôi. Nghĩa là: “Giới luật ở đâu, thì trí tuệ ở đó”. Người mà xấu, người không có thuộc kinh sách, người không có cúng bái, tụng niệm, người không bảy đời của dòng Bà la môn, mà người này giữ gìn Giới luật nghiêm chỉnh, thì cái người này vẫn xứng đáng là Bà la môn.
Đó như mấy con thấy, ở trên cái Giới luật mà người ta đạt được, chứ không phải cần. Cho nên từ đây về sau, trong cái giới của Phật không còn trang điểm.
Cho nên cô Diệu Minh hôm nay cạo bỏ tóc, tức là cạo bỏ cái sự đẹp, cái sự cố chấp đẹp đẽ của mình. Cho nên chỉ còn một cái đầu không còn tóc tai, lấy gì mà trang điểm. Đâu còn cài hoa, đâu còn cài lược trên đó nữa? Đó là làm cho chúng ta không còn, mất đi cái sự đẹp đẽ của mình. Đó từ đây về sau chúng ta trở thành một vị tu sĩ, phá vỡ đi những cái đẹp này.
Đối với Thầy mặc cái y như thế này vẫn là đẹp, các con thấy không. Còn ngày xưa đức Phật mặc cái y như thế nào? Mặc cái tấm vải lượm từ thây ma, rồi kết nó lại. Rồi miếng thì ẩm mốc, miếng thì như thế này thế khác, kết lại mặc. Đó là làm cho mình xấu.
(56:18) Còn mặc như Thầy đây quá đẹp, vải này quá tốt, cho nên Thầy cũng là cái người đang phạm Giới.
Vì những cái y mà của Thầy đã rách nát, Thầy đã làm những cái tấm trải giường, cho nên bây giờ không lẽ mà trong cái lễ này, mà Thầy lại lấy cái y rách nát đó mà đắp lên. Đạo Phật thì rất có vệ sinh, khi cái y nó lem luốc, nó dơ như vậy, mặc dù mình giặt sạch, nhưng vẫn thấy cái ông thầy đó ở dơ. Cho nên buộc lòng Thầy phải lấy cái y này vấn lên mình để cho nó giữ sạch sẽ, nghiêm trang trước. Chứ còn đối với Thầy thì bình thường nếu vấn cái y rách, cái y mà loang lổ, nhưng vẫn sạch sẽ, thì cái đó là cái rất đẹp của một người tu. Còn mặc cái y mà vải cho đẹp, cho tốt, bóng, thì cái này không đúng cái hạnh người tu. Nó còn phạm vào cái Giới, ‘thích trang điểm’.
Nhớ kỹ khi mà cạo tóc rồi, thì đó là cạo hết trần cấu của thế gian. Làm cho chúng ta xả hết, bỏ hết tất cả những ái kiết sử. Chúng ta cũng từ đây, từ cái mái tóc này rũ xuống, không còn gì chuyện thế gian nữa. Cho nên khi mà xuất gia rồi, thì nhớ cạo tóc rồi thì chúng ta bỏ hết. Bỏ hết, không có còn nay đứa con này, mai đứa con kia. Bởi vì “ly gia cắt ái” là phải đoạn trừ. Đoạn trừ cho thật sạch. Các con nhớ kỹ như vậy mới xứng đáng là người “ly gia cắt ái”.
Cho nên các con tưởng mình chỉ cạo đầu rồi mình mặc áo thôi, không phải. Nó cả một cái tâm trạng của mấy con nó phải cạo cho sạch. Cạo được hay không, mấy con phải ráng cố gắng.
Hôm nay Diệu Minh cạo, sự thực Thầy rất lo. Cạo tóc bên ngoài, còn cạo cái tâm mình được chưa đây? Không biết nó cạo được không đây, rồi nó sẽ tạo thành tội lỗi, chính nó, chính bản thân nó đã tự tạo tội lỗi, và tội lỗi cho Phật giáo nữa.
(58:25) Cho nên phải cạo tóc bên ngoài, mà còn cả cạo trong tâm hồn của mình nữa. Những cái điều mà ràng buộc mình từ nhiều đời, nhiều kiếp, đó là ái kiết sử, đó là cái dòng nhân quả, cái quy luật nhân quả. Mà hôm nay chúng ta cạo tóc, chúng ta cắt đứt cái quy luật của nhân quả. Các con nhớ, khi mà cạo tóc tức là cắt đứt quy luật nhân quả.
Nhưng mà cắt đứt quy luật nhân quả trong hình tướng, hay là trong tâm niệm của chúng ta? Nếu cắt đứt quy luật của nhân quả là phải cắt đứt trong tâm niệm của chúng ta, mới thật sự là cắt đứt. Còn nếu mà cạo tóc, cắt tóc bên ngoài, mà trong tâm chúng ta vẫn còn nguyên tình cảm “thất tình lục dục”, còn ái kiết sử, đối với chùm nhân quả của mình còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, thì tất cả những cái này đều là sai. Cho nên chúng ta chưa cạo sạch được tâm chúng ta. Cạo tóc chỉ là bên ngoài hình thức mà thôi.
Thôi bây giờ xong rồi, con đảnh lễ Phật con.
Tăng đoàn ni, mình sẽ ở trong đó sinh hoạt trong tập thể Tăng đoàn cho đúng cái hạnh sống của một người tu sĩ hoàn toàn “ly gia cắt ái”, chứ không phải mình còn sống trong gia đình mình nữa.
Nhưng hiện giờ thì con cứ về sống ở trong gia đình của mình. Cố gắng những oai nghi, tế hạnh, Giới luật mà Thầy đã soạn cho người Sa Di, thì con hãy đọc và cố gắng mình sống cho đúng. Bây giờ hiện giờ thì con luôn luôn ở trong thất mà lo tu tập, và tập sống trên cái hạnh.
(01:00:24) Rồi sau một năm con trở về, khi mà thấy mình trong một năm mà sống đúng được những cái hạnh rồi, thì mình trở về thì Thầy sẽ truyền cho thọ giới Sa Di. Và nếu thấy chưa sống đúng, còn sai sót, thì con hãy ở lại trong gia đình của mình, ở trong nhà của mình mà tập nữa. Tập cho nó đúng, rồi mình mới trở về đây. Để mình coi như là lìa bỏ hết thế gian, để trở thành một người tu sĩ thật sự trong một cái giáo đoàn của Ni chúng. Như vậy mới rõ ràng là mình quyết tâm “ly gia cắt ái”. Chứ còn nếu không thì mình cũng không cắt hết nổi.
Cho nên bây giờ thì con còn sống ở trong gia đình, để hoàn toàn giúp đỡ cho gia đình mình. Còn những cái gì chưa ổn, để giải quyết cho nó ổn. Sau khi chừng nào mà ổn xong, và Giới luật, oai nghi, tế hạnh của mình được nghiêm chỉnh, thì trở về thì Thầy sẽ cho thọ Giới.
Và còn những gì sơ sót trong sự tu tập, trong Giới hạnh, thì sẽ được sự hướng dẫn và dạy bảo của Thầy hơn nữa. Để rồi thì mình được trở về, để mà giúp đỡ cho gia đình mình, để cho thấy những cái hạnh sống của mình, để những người thân của mình họ có hướng về với Phật. Và đồng thời sau những thời gian tu tập như vậy, thì đến một lúc nào đó thì chúng ta rời bỏ khỏi gia đình, để trở thành một người tu sĩ, thành một người khất sĩ đi xin ăn mà thôi, qua cái giáo đoàn bên Ni của các con. Thì trong khi đó thì coi như là con cố gắng hết mình như vậy, thì mới trở thành người tu sĩ xứng đáng, là người đệ tử của Phật. Nhớ kỹ chưa? (…)
Tu sinh Diệu Minh: (…) Con kính bạch Thầy!
Hôm nay là ngày vinh dự nhất của con (…)
Trưởng lão: Đến đây Thầy xin tuyên bố buổi lễ thế phát cho cô Diệu Minh chấm dứt.
Bây giờ còn có thì giờ, để tiếp tục mấy con còn có thưa hỏi Thầy gì thêm không?
(01:02:51) Rồi, con cứ ngồi đó rồi con trình Thầy là được rồi con.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, xin Thầy chỉ dạy cho con pháp môn con tu tập. Thì con tu qua mười năm rồi, mà cũng qua nhiều thầy thì thầy nào chỉ dạy tùy theo kinh nghiệm của thầy đó, con cũng tin lời theo. Thì nay con xin trình những pháp con tu để Thầy chỉ dạy lại cho con, con đi cho nó đúng.
Kính bạch Thầy, đầu tiên là con tu pháp của ngài Mahasi. Qua thời gian ba năm, sau có ngài Kim Triệu về dạy cho con pháp Thọ Quán Niệm Xứ, thì con đi được từ năm 2000 đến 2002. Đến 2002 cũng vẫn ngài Kim Kiệu về, thì ngài dạy là đi theo Niệm Tâm, chứ không có còn đi theo môn pháp của ngài Mahasi, mà cũng không đi theo cái Thọ Quán Niệm Xứ nữa.
(01:04:29) Thì từ đó đến nay con cứ theo dõi tâm. Ngài Kim Triệu ngài có dạy là cứ theo dõi tâm, khi nào tâm sanh khởi như thế nào, thì biết như thế đó. Nếu tâm sanh khởi ác thì để nhìn, coi thử nó sanh khởi ác. Và nó sanh khởi ác rồi cứ nhìn và nhìn đến khi nó hết. Rồi thì nhìn tâm khi mà nó sanh khởi bất thiện pháp, thì biết bất thiện pháp. Nếu nó sanh khởi thiện pháp, thì biết thiện pháp. Thì như vậy con cứ mải theo cái phương pháp của ngài Kim Triệu chỉ dạy cho con đến nay như vậy.
Con về đây con nghe Ngài giảng, con kiểm soát qua những cái phần con tu, thì những cái con bị sai lệch là chính con. Có những cái mà chưa xả bỏ, thì con lại quen đi, con lặng lại con cố chấp. Ngài dạy cho con “ba giờ buổi sáng thì thức dậy tu, Đi Kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng” con cứ giữ theo cái quy luật đó mà con làm.
Thì con cố chấp vào giờ giấc quá, rồi đến khi mà con nhìn vào tâm con, con thấy con Đi Kinh hành nó cũng muốn hôn trầm rồi, thì con lại cứ nghĩ đi theo cái giờ thôi, chứ con không dám bỏ rời giờ. Vô ngồi thì nó hôn trầm quá mức. Rồi đến khi vô ngồi, hôn trầm nó hết cả tiếng đồng hồ luôn mà con chẳng biết, hôn trầm nó mơ mơ màng màng đó Thầy. Rồi khi mà hết rồi, thì con đứng dậy con đi. Con Đi Kinh hành thì con cũng theo dõi thân, tâm nữa. Đến khi đi mà đúng một tiếng nó cũng qua hôn trầm tiếp. Con cũng không biết là vì sao con cứ mãi vậy con làm.
Thì cái ngày con về đây con nghe Thầy chỉ dạy khi mà phá hôn trầm, thì con cũng theo lời của Ngài. Con cũng về đây đúng một tuần con cố gắng phá hôn trầm theo lời Ngài chỉ dạy, thì con thấy có phần đỡ nhiều lắm. Nhưng mà nó vẫn chưa hết.
(01:06:34) Và tới bây giờ, chính ngay cái pháp con bây giờ thì con chỉ biết nhìn tâm. Mà khi tâm sanh khởi như thế nào, con chưa biết.
Mà trước đây thân con bệnh dữ lắm, mà con không thể trị bệnh được. Con uống thuốc, đi bác sĩ rồi dữ lắm. Đến bây giờ cái ngày con về đến đây là con còn đang uống thuốc ở nhà, nhưng con quyết tâm con đi. Thì con có suy nghĩ nếu vô thường đến, thì không biết là đến với con trước, hay là đến với Thầy trước.
Mà khi con đợi bệnh bớt con mới đi, thì nếu mà con không đủ duyên, đủ phước để gặp Thầy thì cả một cuộc đời con quá đau khổ đi. Vì cũng đã qua nhiều thầy dạy. Rồi nói là ngài Kim Triệu, thì lâu lắm ngài mới về được mười ngày thôi, hai năm hay hoặc năm rưỡi ngài mới về Việt Nam được có mười ngày. Phật tử thì quá đông, không làm sao con trình được hết việc tu hành của con hết. Con thấy vậy, con quyết tâm con ra đi.
Con về đến nay đó, thì hiện giờ con đang tu là con phá hôn trầm. Khi hôn trầm đến, theo như lời Ngài dạy, là con thực hành coi như là một người gác cổng thành vậy, cứ ngồi vậy đó. Rồi con Đi Kinh hành con thấy nó phá hôn trầm, thì con cũng đi tiếp tục. Thì Ngài dạy đi giở chân sâu, con giở chân sâu. Giở chân sâu hơn, con cũng giở chân sâu hơn. Con làm như vậy đó mà đến khi nó mỏi người quá, nó mệt thì con lại dưới đất, con ngồi tựa lưng. Con thở chưa hết hai hơi thở, mà hôn trầm nó đến dập con, con cũng (…), giúp con cái là con nhìn thấy hôn trầm thì con lại đứng dậy con đi tiếp. Mà cứ thấy hôn trầm mãi đó Thầy.
Dạ bạch Thầy, Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con.
(01:08:28) Trưởng lão: Thì đầu tiên, bây giờ con thấy bị hôn trầm, là con tu pháp gì nữa nó cũng không được tỉnh táo lắm đâu. Cho nên mình phải tìm cách mình phá hôn trầm.
Phá hôn trầm thì phải có những cái pháp phá. Chứ không phải là mình muốn phá như thế nào là mình phá được. Vì vậy đầu tiên, mình thấy mình bị hôn trầm nhiều thì cái giờ giấc mình lui lại. Tu ít lại, đừng có tu nhiều. Thay vì một buổi ba tiếng thì mình tu hai tiếng thôi. Cho mình giữ gìn cái giờ giấc cho nghiêm chỉnh mà mình chiến đấu với nó.
Nó còn hôn trầm nữa trong giờ tu thì nhất định là chết bỏ, chứ nhất định là cũng phải sử dụng những cái phương pháp đi Kinh hành, mình phá cho được, chứ đừng có để.
Bởi vì mình ngồi, mà có hôn trầm, thùy miên thì ngồi không tốt đâu, cho nên buộc lòng phải di Kinh hành. Đi Kinh hành nó có nhiều cách đi, chứ không phải mỗi một cách đi. Cho nên cái cách mà Đi Kinh hành để phá hôn trầm đó là đúng pháp, bởi vì đó là đi Chánh Niệm Tỉnh Giác mà, cái tên của nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, để nó làm cho mình đừng bị hôn trầm. Nhưng mà mình phải thiện xảo, khéo léo trên cái bước đi của mình. Khi bị hôn trầm, thì mình đừng có đi với một cách đi như người tu sĩ, không có được. Mình đi vậy nó (…)
Nếu mà phá hôn trầm, thì bây giờ đầu tiên con bị cái hôn trầm nó nặng, mà từ lâu tới giờ con không biết cách phá, cho nên nó còn dai dẳng hoài. Phá nó, thì bắt đầu mình phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, Thân Hành Niệm. Hai pháp này phải tập cho nó thuần.
Khi mà nó thuần rồi, thì hễ có mặt hôn trầm khi mình nhiếp tâm, cái buổi mình tu- bảy giờ cho đến chín giờ, thí dụ hai tiếng đồng hồ- thì mình biết rằng trong cái khoảng giờ nào nó sẽ bị hôn trầm. Thì trong khi đó biết cái giờ đó sắp đến, thì đừng có để cho nó hôn trầm. Nó còn tỉnh mình lo mình đi Kinh hành trước đi, thì nó không có lọt hôn trầm vô.
Còn lỡ mình gục rồi, mình phá, nó khó phá lắm. Cũng như bây giờ con tỉnh, mà con biết chừng lát nữa, mình ngồi yên là một lát nữa nó vô, cho nên mình không có ngồi, mình đi, mình đi Kinh hành.
Rồi tập những cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác hay là Thân Hành Niệm thì mình cứ liên tục, mình đừng có tập cái pháp khác. Khi nào tỉnh, như tụi con bây giờ mà tỉnh đó, thì con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở và tất cả những pháp khác là đi Kinh hành mà thôi.
Định Niệm Hơi Thở nó có những cái đề mục, mình phải nhiếp tâm, an trú trong hơi thở, rồi mình phải dẫn tâm mình, cho thân của mình và tâm mình nó được an tịnh. Con hiểu không, mình phải tập những cái đó.
(01:10:44) Rồi mình dẫn tâm bằng hơi thở thì mình định tĩnh. Nó định tĩnh, nó tỉnh, nó không có buồn ngủ. Thì cái đó là cái lối dẫn tâm, phải tập. Khi nào nó tỉnh táo thì tập.
Mà khi nào nó biết rằng cái giờ đó nó sẽ buồn ngủ, thì con hoàn toàn lại ôm Chánh Niệm Tỉnh Giác và Thân Hành Niệm mà tập thôi.
Thì nó có những cái pháp. Mà phải tập luyện cho nó quen những cái hành động đó đi. Do đó khi nó chưa có, mà mình đã tập cái pháp đó, thì qua khỏi cái giờ đó nó không buồn ngủ nữa, nó hết buồn ngủ rồi.
Mà nó qua cái giờ buồn ngủ đó rồi, thì nó tỉnh, thì mình lấy cái pháp khác mình tu. Chứ mình không có đi Kinh hành nữa, mà mình cũng không có tập Thân Hành Niệm nữa, mà mình tu cái pháp khác.
Thí dụ như qua cái giờ đó mà tỉnh rồi, mình mới đặt cái niệm mình tu Định Vô Lậu. Là vì mình thấy cái tâm của mình bây giờ nó còn ham ăn, thì mình đặt cái niệm vô lậu bằng cái: “Thực phẩm bất tịnh”, để cho mình nhàm chán nó.
Bây giờ mình thấy cái tâm mình nó đang có những cái dục, cái ham muốn gì, thì mình phải đặt cái niệm ham muốn đó – nó ham muốn cái dục gì, thì lấy cái dục đó đặt thành cái niệm – để quán cái dục đó nó vô thường, nó khổ như thế nào. Để làm cho nó nhàm chán cái dục đó thì nó yểm ly được, nó không tham đắm, con hiểu không?
Đó là mình phải biết mình, mình đang bị cái gì. Bây giờ cái tâm của con nó đang bị hôn trầm, thùy miên, thì con phải dùng cái pháp gì để đối trị nó.
Đạo Phật nó phải vậy. Chứ không phải là cứ ngồi nhìn nó, hay hoặc là thế nào, mà nó hết được. Cũng như con ngồi con buồn ngủ, nó ngủ. Nó không có thể nào nó tỉnh lại được. Mà chỉ có mình động thân mình đi tới đi lui, mình chịu khó, mình đừng có lười biếng, thì nó sẽ được. Mà nó có những phương pháp phá. Mình đi, cách thức đi phá hôn trầm khác, mà cách thức đi với cái tâm tỉnh giác khác. Rồi cách thức mà đi Thân Hành Niệm, dùng những tác ý liên tục trên cái hành động của nó để phá cái hôn trầm.
Đây là thầy Chơn Thành ngồi gần bên đây. Thầy là người mà rất là khổ đau với cái sự hôn trầm, thùy miên. Mà hôm nay thầy phá sạch, không còn nữa. Thì các con biết, nó phải có một thời gian tu tập để mà đối trị với cái bệnh đó. Cũng như con bị hôn trầm, thùy miên nặng, là con đang bị cái nghiệp nó nặng. Vì vậy mình phải tập trung dồn hết sức lực mình vào cái chỗ đó để phá. Mình phá sạch rồi thì nó chẳng có gì hết.
(01:12:50) Nó có pháp, chứ đừng có tìm cách này, cách kia. Cũng như Thầy đã nhắc đó, như bị hôn trầm, thùy miên mà đi tắm, rồi mình đánh một đường võ, đánh một đường quyền hay hoặc là tập một đường giẫm chân nào đó cho nó tỉnh, thì nó sai pháp Phật.
Ngay tại đó mình dùng cái câu tác ý: “Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi thở ra”. Bây giờ nó không định tĩnh, nó buồn ngủ rồi, mình cứ nhắc nó. Lấy cái pháp đó mà đối trị nó thì cái pháp đó thành cái lực cho con, con hiểu không? Đã luyện được, đủ được thành cái nghiệp, trở thành cái lực để cho mình sử dụng sau này.
Còn con đi ra tắm, cái lực tắm làm sao có, con hiểu không? Cho nên nó sai pháp rồi, nó mất rồi. Thay vì có cái này mình mới có được cái lực. Mà có cái này nhưng lại không chịu tu cái pháp để cho nó có cái lực. Mà cái lực này không những dẹp được cái thùy miên, hôn trầm, mà nó còn dẹp cả những cái khác được, cái mục đích của nó mà. Cái pháp của Phật nó như vậy, mà nó không phí thời gian con?
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, bây giờ con cũng (…) có làm sao không Thầy?
Trưởng lão: Thực sự ra thì con nên đi ở trong một cái (…) Thì trong khi con đi phá hôn trầm thùy miên, nó không còn phải đi một cách nhẹ nhàng, một cách uyển chuyển như cái hạnh của một người tu nữa. Mà tôi đang bị một cái bệnh, bệnh tim, cho nên là tôi phải sử dụng cái lực đi như thế nào, để mà phá nó. Cho nên khi đi mà nện cái chân mạnh để làm động nó, để cho nó khỏi buồn ngủ.
(01:14:41) Mà tốt hơn hết là con tập cái pháp Thân Hành Niệm. Để mình tu mình tác ý trên từng cái hành động của mình, thì nó dễ phá lắm. Con ôm, con tập cái pháp Thân Hành Niệm thì nó rất hay, thì nó sẽ phá được. Mới đầu còn chưa quen thì nó cũng khó. Nhưng chịu khó mình luyện một thời gian sau, thì cái pháp Thân Hành Niệm nó có cái nội lực nó sẽ phá, nó làm cho mình không buồn ngủ được nữa.
Con phải tập cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác hay là Thân Hành Niệm, ít ra cũng phải một, hai tháng, rồi mới đánh được cái hôn trầm, thùy miên.
Chứ không phải thôi ngay bây giờ nghe nói vậy con ra dẹp hôn trầm, thùy miên liền thì không có được. Mà phải tập luyện cho nó thuần thục trong một tháng. Sau khi con áp dụng vô thì con sẽ thấy được cái lực. Nó sẽ có cái lực.
Mọi pháp đều phải tập thuần, rồi mới đối trị được cái chướng lực của nó. Mà chưa có tập thuần, thì mình đối trị không có được. Cũng như mới tu thì làm sao con: “An tịnh thân hành…” mà nó an tịnh được cái thân con khi bệnh đau? Cho nên con phải tập một thời gian cho nó nhuần những cái pháp này. Rồi sau khi nó thuần rồi thì thân con có bệnh, con tác ý là nó đối trị. Cho nên phải tập.
Cho nên người ta có thời gian tập rồi người ta có đối trị nó mới được. Còn mình chưa có tập mà mình nghe nói vậy, về mình cũng tác ý, mình cũng vậy, cũng làm: “An tịnh thân hành…”, “An tịnh tâm hành…”. Nhưng mà cuối cùng thì mình chưa có tập, cho nên nó chưa có đủ cái nội lực. Phải tập rồi nó mới có nội lực. Thí dụ như con tập một tháng chưa có, thì hai tháng. Hai tháng chưa có, thì ba tháng, sáu tháng, bảy tháng… con sẽ có, thì khi mà con nhắc: “An tịnh…”, nó an tịnh liền.
Rồi con nhắc, bỏ hôn trầm, thùy miên, thì con ôm, con tác ý nó hết liền, nó không còn buồn ngủ nữa liền. Nhưng mà phải tập luyện. Phải tập luyện cho cái pháp có cái hiệu quả, có kết quả đã, thì nó mới có hành tựu được. Chứ không phải là mình vô mình nghe nói pháp, cái mình vô mình phá ngay cái hôn trầm, thùy miên không được.
(01:16:37) Mình tập có thời gian cho nó nhuần nhuyễn, cho nó trở thành một cái cỗ xe. Để rồi cho cái cỗ xe chạy là tất cả những cái chướng ngại vật là nó phá nát hết, không còn nữa. Còn mình chưa có xe, lúc mà tập như vậy, cái hành động của mình nó nhức nhối nó gom lại. Mà lúc hôn trầm mà lại nhức nhối nữa thì nó chết, nên không được. Mình phải tập cho nó thuần.
Bây giờ ráng tập. Thí dụ như ở đây thì Thầy chỉ cái pháp nào phá hôn trầm, thùy miên. Cái pháp nào phá cái gì, cái gì, nó rõ ràng lắm. Đó như con thấy bình thường cái hơi thở nè, cái pháp mà phá cái ác pháp trên thân là bệnh đau thì có: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô…”. Còn cái pháp mà phá cái tâm trạo cử, hoặc tâm sân si, thì: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra”. Đó là cái pháp để phá cái đối tượng đó, con hiểu không. Cho nên mình phải học, phải tu, mới phá được cho mình. Chứ không mình vô, mình tu mà không có pháp, thì biết đâu mình đẩy lui?
Cho nên con nghe ở trong Tứ Niệm Xứ nói: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Nói cái lời nói đó, nhưng cái pháp nào mà khắc phục được tham ưu khi mà thân nó bị bệnh? Cho nên nói Tứ Niệm Xứ thì người ta nói vậy, nhưng mà khi tu người ta có pháp để đẩy lui nó mà. Thì như vậy gọi là tu Tứ Niệm Xứ. “Trên tâm quán tâm…” thì sau đó mình có cái pháp để khắc phục được cái tâm tham ưu của nó, không còn ưu phiền, không còn khổ đau trên đó nữa. Đó mình có cái phương pháp.
Cho nên nếu mà chúng ta không tu tập những cái pháp này thuần thục, làm sao chúng ta khắc phục được tham ưu trên Tứ Niệm Xứ được? Đó làm sao mà khắc phục được nó.
Cho nên bây giờ, coi như hồi nào tới giờ pháp tu đều dạy con, nó cũng không phải là không lợi ích, nó cũng biết cách rồi. Nhưng bây giờ phải áp dụng cái đúng cách. Đúng cách để cho chúng ta đẩy lui được cái giặc sanh tử này, (…) có phải không?
Tu sinh 1: (…)
(01:18:38) Trưởng lão: Họ không bao giờ tu chứng. Người ta sống đúng phạm hạnh thì mới tu chứng.
Cho nên Thầy nói chiếc áo của người cư sĩ, mặc dù người ta không cạo tóc nhưng người ta phải sống đúng Phạm hạnh thì người ta cũng vẫn tu chứng, chứ không phải không. Nhưng mà người cư sĩ thì nó khó, nó khó là tại vì cái gia duyên người ta nó khác.
Còn mình là người cạo tóc xuất gia rồi, thì mình phải có một cái hiếu. Lần lượt mình phải giải quyết hết được những cái góc độ của gia đình của mình, để cho mình hoàn toàn mình “ly gia cắt ái”, thì nó mới thực hiện được: vừa là cái tướng của người tu sĩ, mà vừa là cái hạnh của người tu sĩ, mà cũng vừa nói lên được cái tâm của người tu sĩ nữa.
Cho nên vì vậy mà các con nên nhớ rằng trong cái sự tu tập, phải lần lượt tu tập, chứ không thể nào một ngày, một giờ được. Cho nên tập thử xem nó như thế nào.
Thì sau khi tập ví dụ như bây giờ Diệu Minh về tập thử cái ăn uống như vậy. Rồi sau đó Thầy còn coi cái ăn uống có đúng hay không chứ đâu phải…(01:19:35)
HẾT BĂNG