00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh

image

image

Lời Nói Đầu

image

Khi tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết xong, chúng tôi có những ước nguyện muốn đem những kinh nghiệm tu hành này, dựng lại Chánh pháp của đức Phật, để giúp cho mọi người tu tập không còn lọt vào tà pháp ngoại đạo. Đó cũng là làm sống lại con đường tu tập giải thoát, mà từ lâu đã bị kinh sách phát (5) triển dìm mất. Chính đó là mục đích của chúng tôi và mọi người đang tu hành theo Phật giáo đều mong ước.

Chứng đạt chân lí của Phật giáo là chứng đạt tâm Bất Động, chớ không phải chứng đạt một cái gì khác lạ như mọi người đã từng nghĩ tưởng: nào là Phật tánh, nào là thần thông, phép thuật, tàng hình, biến hóa; nào là phóng hào quang, bay lên trời hay xuống địa ngục v.v… Mà chính tâm Bất Động là tâm vô lậu. Tâm vô lậu tức là chừng quả A La Hán.

Nhưng trước khi muốn chứng quả A La Hán thì chúng ta phải thường học và tập sống đạo đức nhân bản - nhân quả, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. (6)

Đó là một bài tu học đầu tiên của đạo Phật. Một bài học thường đem lại lợi ích rất lớn cho loài người, khiến cho mọi người sống chung nhau biết tùy thuận mọi ý kiến, biết nhẫn nhục làm vui lòng mọi người mà không còn chống trái với nhau, biết bằng lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động. Nhưng khi chúng tôi bắt tay vào làm việc để dựng lại nền đạo đức này, thì gặp biết bao nhiêu là gian nan, sóng gió, khiến chúng tôi quá mệt mỏi.

Chúng tôi suy nghĩ rất nhiều: Đúng là chúng sanh chưa đủ duyên nên rất khó độ. Nhưng không lẽ thấy khó mà không giáo hóa chúng sanh thì rất tội nghiệp. Vậy, chúng tôi phải làm sao bây giờ? (7)

Khi chúng tôi tu chứng đạt được chân lí, nhìn lại duyên chúng sinh với mình thì thấy không có đủ duyên để độ họ chứng quả A La Hán. Ngày xưa, khi đức Phật tu xong, Ngài cũng thấy chúng sinh khó độ, vì thế Ngài tạo duyên hóa độ chúng sinh thì chúng tôi bây giờ cũng làm như vậy. Phải hóa duyên độ chúng sinh, nhưng chúng tôi tự hỏi phải làm bằng cách nào?

Khi đặt ra câu hỏi như vậy thì chúng tôi tự trả lời: Phải tạo duyên mới chớ sao? Nhưng tạo duyên mới bằng cách như thế nào? Bắt đầu ở đâu và người nào?

Chúng tôi nhớ lại, chỉ thấy có Hòa thượng Thanh Từ là nơi có thể tạo duyên hóa độ chúng sinh dễ dàng. Vì Hòa thượng là người có uy tín (8) trong hàng tăng, ni và phật tử hiện giờ.

Nhờ khéo tạo duyên mới này mà quý phật tử mới biết đến Người Chiến Thắng và biết cách Trở Về Đạo Phật. Nhất là bộ sách “Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh” đã giúp cho quý phật tử nghiên cứu, suy tìm mới biết rõ đâu là Chánh pháp của Phật, và đâu là tà pháp của ngoại đạo đang ẩn núp và mạo danh là giáo pháp của đức Phật. Bộ sách khiến cho mọi người đi tìm đường giải thoát không lầm lạc, không lấy tà pháp của Bà La Môn làm Chánh pháp của Phật. Nhìn quí sư thầy tụng kinh, niệm Phật, đọc thần chú, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt, xấu cất nhà, dựng vợ, gả chồng…​ qúy phật tử nghĩ sao? (9)

Ngày xưa khi thấy những việc làm này của tăng, ni thì quý phật tử cho là đúng chánh pháp của Phật. Nhưng ngày nay, khi đã đọc bộ sách “Linh Hồn Không Có”, thì quý phật tử biết ngay đó là tăng, ni đang sống trong mù quáng, mê tín do kinh sách Phật giáo phát triển đã truyền dạy, dẫn dắt họ đi trong thế giới ảo tưởng, khiến cho tiền mất tật mang, tốn hao công sức và tiền của một cách nhảm nhí.

“Người Chiến Thắng” và “Trở Về Đạo Phật” là những cuộc tiếp chuyện giữa Hòa thượng Thanh Từ và thầy Thông Lạc về Phật pháp. Do nhân duyên này, mà bộ sách Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh mới ra đời. Bộ sách ra đời mới làm sáng tỏ Chánh pháp của Phật. Nhờ đó, quý phật tử mới biết đâu là chánh pháp của Phật; đâu là tà pháp của Bà La Môn.

Đó là chúng tôi cố tạo duyên để mọi người biết chánh (10) pháp của Phật; để mọi người tu tập đừng sai. Nhưng phước chúng sinh quá mỏng, dù có biết nhưng vẫn thích cúng bái cầu tha lực, hơn là tự lực.

Phật pháp tu chứng đạo đâu phải khó khăn. Xưa đức Phật tu tập có 49 ngày thành đạo, còn chúng tôi tuy mười năm tu tập sống độc cư trong thất, nhưng cuối cùng cũng chỉ có sáu tháng với sự quyết liệt, nhiệt tâm chúng tôi đã thành công một cách mỹ mãn.

Qua kinh nghiệm tu hành, chúng tôi dạy và chỉ rõ ràng từ giác ngộ chân lí, đến phần sống buông xả ly dục ly ác pháp để giữ gìn tâm bất động, (11) thanh thản, an lạc và vô sự, rồi đến các pháp hành tu tập, pháp nào tu trước và pháp nào tu sau, thế mà mọi người tu tập cứ để tâm phóng dật. Tâm phóng dật là tâm sẽ phạm giới, thường dong ruổi chạy theo sáu trần. Khi tâm phạm giới thì làm sao tâm ly dục ly ác pháp được. Chúng tôi hết sức khuyên dạy cho những ai có duyên gặp chúng tôi. Nhưng những lời dạy của chúng tôi như gió thoảng ngoài tai, như nước chảy qua cầu, ít ai nghe lời chúng tôi dạy.

Dù sao, chúng tôi cũng không nỡ bỏ chúng sinh, vì họ là những người đáng thương, nên chúng tôi cũng thường luôn nhắc nhở: “Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo là sống Độc Cư”. Độc cư tức là phòng hộ sáu căn. (12) Thế mà mọi người thường phá hạnh độc cư, thích đi nói chuyện với người này, người khác nên chúng tôi rất mỏi mệt.

Hôm nay, chúng tôi chỉnh và nhuận lại bộ sách Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh, mong rằng ngày mai có nhiều người nhờ bộ sách này tìm ra cho mình một đường lối tu tập thích hợp và đúng với chánh pháp của Phật, thì đó là chúng tôi đã mãn nguyện, và cũng là đền đáp ơn đức Phật trong muôn một. Vì chúng tôi biết rằng mình sẽ không sống mãi trên đời này, rồi cũng phải từ giã cuộc đời này ra đi mãi mãi.

Tuy biết rằng chúng tôi không có thì giờ, nhưng chúng tôi cũng dành thời gian để chỉnh đốn lại tập sách này cho hoàn chỉnh hơn. Vì trước kia (13) thầy Chân Quang ghi tóm lược, không được đầy đủ trong cuộc nói chuyện giữa Hòa thượng Thanh Từ và chúng tôi.

Với việc làm này, chúng tôi chỉ mong sao đem lại lợi ích cho mọi người khi họ đến với Phật giáo và cũng là đền đáp công ơn vô cùng vĩ đại của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni.

Kính ghi

Trưởng lão Thích Thông Lạc (14)

PHẦN I - NGƯỜI CHIẾN THẮNG

Trích trong quyển tạp bút: “CUỐI HÀNG DƯƠNG”

Tác giả: Thích Chân Quang,

viết tại Thường Chiếu, mùa hạ năm 1987 (15)

image

Lời Giới Thiệu

image

Người Chiến Thắng là câu chuyện ghi lại một quá trình tu tập của thầy Thông Lạc. Người đã để lại một kinh nghiệm bằng máu và nước mắt của mình. Từ lúc tu tập theo pháp môn Đại Thừa và Thiền Đông Độ, nhưng cuối cùng Người buông bỏ xuống sạch các pháp môn này và chuyên cần tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ trong kinh sách Phật giáo nguyên thủy. Cuối cùng, từ trên trạng thái tâm Bất Động của Tứ Niệm Xứ xuất hiện Tứ Thần Túc, nhờ đó Người nhập Tứ Thánh Định rất dễ dàng và thực hiện Tam Minh không có khó khăn.

Dưới đây được thầy Thông Lạc kể lại sự tu hành của mình trong giai đoạn tu tập (17) pháp môn Đại Thừa và Thiền Tông Trung Quốc do Hòa thượng Thanh Từ hướng dẫn. Sau đó, được Hòa thượng Thanh Từ dựa vào tạng kinh Đại Thừa và công án Thiền Tông Trung Quốc, trắc nghiệm và ấn chứng cho thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán.

Xin các bạn theo dõi sự trắc nghiệm của Hòa thượng Thanh Từ và hỏi đáp của huynh đệ ở thiền viện Thường Chiếu, để thấy rõ con đường tu tập của Đại Thừa và Thiền Tông chẳng đem đến sự giải thoát thật sự, mà chỉ nhập vào Không Tưởng.

Nếu có đủ duyên, chúng tôi sẽ xin thầy Thông Lạc kể lại kinh nghiệm tu hành theo pháp môn Giới, Định, Tuệ của Phật giáo Nguyên Thủy. Đó là đoạn đường cuối cùng tu tập theo Phật giáo mà thầy Thông Lạc đã trở thành người chiến thắng hoàn toàn giặc sanh tử.

Được thầy Thông Huyễn (Chân Quang) ghi lại như một máy thu băng có những danh từ không được chính xác, khiến cho các bạn khó hiểu, Chánh Quang sẽ cố gắng chú thích để làm sáng tỏ nghĩa trong công cuộc chiến thắng giặc vọng tưởng của thầy Thông Lạc.

Kính ghi

Chánh Quang (18)

Thay Lời Tựa

Đọc Người Chiến Thắng, các bạn mới thấy được thầy Thông Lạc là một người tu pháp môn Thiền Đông Độ và Đại Thừa thật rốt ráo, không thua gì các tổ sư Trung Quốc tu tập ngày xưa.

Đọc Người Chiến Thắng, các bạn mới thấy rõ thầy Thông Lạc là người đã chứng được Thiền Tông và được Hòa thượng Thanh Từ, một thiền sư danh tiếng trong thời đại (19) của chúng ta, dựa vào công án Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa ấn chứng.

Đọc Người Chiến Thắng, chúng ta nhận xét lối ấn chứng của Hòa thượng Thanh Từ giống như các tổ Thiền Tông Trung Quốc ngày xưa truyền tâm ấn cho các đệ tử của mình.

Đọc Người Chiến Thắng, chúng ta mới thấy rõ từ công phu tu tập, đến vấn đáp đối với các bạn trong thiền viện Thường Chiếu, chứng tỏ thầy Thông Lạc rất thông hiểu Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa một cách am tường, không có chỗ nào mà Thầy không thông suốt. Nhưng thầy Thông Lạc tu hành chứng đắc như vậy, sao lại bác kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông? (20)

Nếu có đủ duyên, các bạn hãy đọc Người Chiến Thắng phần hai. Phần hai này không do thầy Chân Quang ghi lại, mà do một người khác ghi lại. Khi Người Chiến Thắng phần 2 được ra đời, chừng ấy các bạn mới thấu rõ pháp môn Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa do bàn tay các tổ sư Trung Quốc nhồi nắn, bóp méo giáo lý chân chính của đức Phật, khiến con đường tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt sinh tử luân hồi của Phật giáo mất dấu.

Sau khi tu tập chứng được Thiền Tông, thầy Thông Lạc không tìm thấy sự làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Nên Thầy bỏ Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa, cũng giống như đức Phật ngày xưa khi tu chứng nhập Không Vô Biên Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ xong, mà không tìm thấy sự giải thoát, (21) nên Ngài cũng bỏ những loại thiền tưởng này và bỏ luôn pháp tu khổ hạnh của Bà La Môn. Sau khi bỏ các pháp của ngoại đạo xong, đức Phật bắt đầu tu lại Bốn Thiền Hữu Sắc, do Ngài tạo ra phương pháp tu tập ly dục ly bất thiện pháp cụ thể hơn.

Muốn tu tập nhập Sơ Thiền hữu sắc có kết quả tốt, nên Ngài phải sáng tạo ra pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, và nhờ các pháp môn này, Ngài ly dục ly bất thiện pháp rất dễ dàng, chứng đạt tâm bất động không có khó khăn. Từ trong tâm Bất Động, Bốn Thần Túc xuất hiện, nhờ đó Ngài nhập bốn thiền hữu sắc và thực hiện Tam Minh. Sau khi thực hiện Tam Minh, Ngài thấy biết lậu hoặc đã sạch, không còn một chút xíu nào cả. (22)

Từ khi không tu theo Thiền Đông Độ nữa, thầy Thông Lạc bắt đầu tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, và cuối cùng thấy tâm Bất Động luôn tỉnh thức trên Tứ Niệm Xứ. Đó là nhờ tu theo kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy, tâm Thầy ly dục ly ác pháp hoàn toàn.

Sau sáu tháng tu tập trên Tứ Niệm Xứ, thầy Thông Lạc là người chiến thắng giặc sinh tử, ca khúc khải hoàn. Chiến thắng giặc sinh tử, ca khúc khải hoàn là một sự thật. Là một sự thật thì phải có phương pháp tu tập hẳn hoi, phải có nội lực điều khiển làm chủ thân tâm, chứ không như Thiền Tông chỉ biết buông vọng không theo.

Do trình bày sự tu chứng và làm chủ sự sống chết, thầy Thông Lạc xin Hòa thượng Thanh Từ nhập Niết Bàn, bằng cách tịnh (23) chỉ hơi thở theo Thiền thứ Tư trong Tứ Thánh Định, nên được Hòa thượng Thanh Từ tuyên bố với phật tử là thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán.

Đến đây, chúng tôi xin chấm dứt lời tựa về thầy Thông Lạc hôm nay. Xin các bạn hãy đọc phần hai Người Chiến Thắng trong pháp môn tu tập thiền Phật Giáo Nguyên Thủy. Các bạn còn có dịp rút ra nhiều kinh nghiệm có giá trị rất cao về sự tu tập, trên đường về xứ Phật theo đúng chánh pháp của Phật.

Kính ghi

Mật Hạnh (24)

LỜI BẠT

image

Sau khi đọc lại “Người Chiến Thắng” của thầy Chân Quang ghi lại, thấy còn thiếu sót rất nhiều, nên chúng tôi cần phải chỉnh đốn lại để cho mọi người khi đọc về thầy Thông Lạc là phải hiểu đúng một sự thật. Do khi chúng tôi tiếp chuyện với Hòa thượng Thanh Từ thì chỉ có hai thầy trò, giữa thầy trò nên không có (25) người thứ ba biết, vì thế thầy Chân Quang không thể ghi đầy đủ những lời đối đáp.

Sách mà viết sai là để lại cho đời những tai hại rất lớn, nhất là sách thuộc về tôn giáo lại còn tai hại cho nhiều thế hệ. Bởi tôn giáo là nhu cầu cần thiết cho tinh thần mọi người.

Kính thưa quý vị! Đừng háo danh, khi tu hành chưa tới nơi tới chốn mà vội viết kinh sách là phải mang tội giết nhiều người, giết nhiều thế hệ như kinh sách phát triển. Quý vị có biết không?

Xin quý vị đừng múa bút viết sách theo kiến giải, khi mình tu chưa xong, sách đó sẽ gây đau khổ cho loài người và tạo thêm tội ác cho mình. Những sách đó chẳng ích lợi gì cho (26) ai cả, chỉ có thể làm thỏa lòng danh lợi của mình mà thôi.

Chúng tôi quyết chỉnh sửa lại cho đúng những gì chúng tôi gặp Hòa thượng Thanh Từ và các bạn ở Thường Chiếu. Sau khi chỉnh sửa xong, chúng tôi mong rằng tập sách mỏng này sẽ mang lại cho quý vị một sự hiểu biết về Phật giáo cụ thể hơn, và không còn bị kinh sách phát triển Đại Thừa lừa đảo, làm phí công, phí của rất nhiều của quý vị.

Nếu tập sách này có điều chi còn sơ sót, chúng tôi mong quý vị bỏ qua và góp ý chỉ điểm những chỗ sai lầm ấy, để kỳ tái bản tới được hoàn chỉnh hơn. Xin thành kính tri ân.

Kính ghi

Trưởng lão Thích Thông Lạc (27)

image

(28)THẦY THÔNG LẠC (1983)

image

Thỉnh thoảng, thầy Thông Lạc lại về thiền viện Thường Chiếu thăm Sư phụ (HT. Thanh Từ) và các huynh đệ. Sáng nay, chúng tôi lại trông thấy Thầy từ cuối hàng dương (29) liễu, cùng với cư sĩ Thiện Chí (đệ tử của Thầy), anh Đỗ Đình Đồng và một ưu bà di (cô Diệu Nhiên).

Dáng người Thầy nhỏ nhắn, cặp kính không che dấu được đôi mắt thanh thản, ung dung, chòm râu bạc lơ thơ dưới cằm. Thầy thường mặc chiếc áo tràng màu vàng khi đi đường, và hôm nay cũng vậy. Những đệ tử của tu viện Chân Không và Thường Chiếu ít ai không biết thầy thông lạc.

Thầy là một trong mười thiền sinh đầu tiên của tu viện Chân Không.

Thầy được phân công làm hương đăng cho hợp với tuổi tác và vóc dáng. Kể từ khi Thầy được Sư phụ giảng cho nghe pháp môn tri vọng, Thầy như con đại tượng qua sông không quay lại, đã tinh tấn không phút giây lơi lỏng. Có lần Sư phụ tuyên bố:

  • Trong pháp hội có người đại tinh tấn.

Và lúc đó ai cũng ngầm hiểu người đó là Thầy. (30)

Rời khỏi Chân Không

image

Thường thì ít ai biết chịu thua vọng tưởng, nhưng khi nó mời gọi những ý kiến hấp dẫn thì khó tránh khỏi vòng tay của nó.

Vì thế, thầy Thiện Năng và Thiện Ấn bất ngờ đến rủ thầy Thông Lạc rời Chân Không, ra đi giáo hoá sau ba tháng vẻn vẹn học thiền, qua những bài kinh Bát Nhã, cuốn Nguồn Thiền, Thiền Quang Sách Tấn, Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng và kinh Lăng Già Tâm Ấn. (31)

Thầy Thông Lạc không chấp nhận ý kiến phóng dật chạy theo ngũ dục lạc (đi chu du chơi), mà lại mượn danh từ HÀNH ĐẠO để lừa mình, lừa người thật là tội lỗi vô cùng. Thầy Thông Lạc thẳng thắn nói theo tâm nguyện của mình:

“Tôi đã hứa với Sư phụ, là sẽ ở đây học thiền suốt ba năm. Đâu lẽ bây giờ lại ra đi thì lời hứa kia còn ra gì? Xin quý Thầy cứ đi, Thông Lạc xin ở lại đây tu học đến khi nào chứng đạo mới thôi”.

Thầy Thiện Ấn nói khích:

  • Tôi biết mà - Thầy muốn ở lại để được khen là đại tinh tấn chứ gì.

Như một ngón nhất dương chỉ, điểm đúng vào yếu huyệt sợ danh dự của thầy Thông Lạc.

Sau một đêm suy tư không ngủ, nước mắt thầy Thông Lạc tràn trề. Ở thì không được, vì lời nói của Thầy Thiện Ấn quá cay độc, còn đi thì thương Thầy (HT. Thanh Từ) và thân phận tu hành của mình, không biết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu? (32)

Đối với Hòa thượng Thanh Từ, thì thầy trò mới gặp nhau trong ba tháng an cư năm 1970, mà tình nghĩa rất sâu đậm.

Sáng hôm sau, thầy Thông Lạc trả lời đồng ý ra đi.

Sự ra đi đột ngột ấy làm sao thầy Thông Lạc quên được tình nghĩa thầy trò. Những buổi ngồi thiền chung với chúng trong thiền đường, Hòa thượng cầm thiền bản đi tới, đi lui tuần thiền, để xem xét và kiểm tra cách thức chúng ngồi thiền. Trong khi ấy, thầy Thông Lạc ngồi thiền đau chân lắm, Hòa thượng biết được sự đau đớn này nên lấy bàn tay để nhẹ sau lưng của thầy Thông Lạc. Khi bàn tay Hòa thượng đặt vào sau lưng, thì thầy Thông Lạc cảm thấy mát lạnh, sự đau đớn ấy giảm đi rất nhiều. Tình thương bằng hành động ấy làm sao thầy Thông Lạc quên được; làm sao Thầy Thông Lạc không khóc. Lời nói cay nghiệt của Thầy Thiện Ấn bắt buộc thầy Thông Lạc phải ra đi, phải rời Hòa thượng, một vị Thầy mà trên đời này khó tìm được, tình thương của Hòa thượng Thanh Từ như vậy thì lòng dạ nào không đau sót; thì lòng dạ nào không tan nát. Phải không các bạn? Thầy Thông Lạc khóc nhiều lắm nhưng có ai biết đâu. (33)

Cho nên tối hôm đó, ba người đến đảnh lễ Hòa thượng để sáng sớm hôm sau ra đi, thầy Thông Lạc khóc nức nở nghẹn ngào. Hòa thượng cũng không nói được lời nào, chỉ nhìn những người học trò thân thương của mình quá dại dột:

Hòa thượng nhẹ nhàng nói qua hơi thở, như một lời trách móc:

  • Thầy sợ mấy chú nông nổi.

Hòa thượng chỉ nói được những lời ấy thôi, rồi im lặng. Trong bầu không khí vắng ngắt, không một tiếng động, trong sự chia lìa thương đau trước cảnh kẻ ở, người đi, thật là đau buồn tê tái, đứt từng đoạn ruột, nói làm sao hết nỗi thương đau này. Các bạn có biết không? Có cảm nhận được sự chia ly đau buồn này không?

Trong tu viện chỉ có 10 huynh đệ, mà bây giờ đi mất ba người, làm sao mà không buồn, không rơi nước mắt được. (34)

--o0o--

Những ngày sống trên Hòn Sơn

image

Ba người đã ra đi trong sự bất bình của huynh đệ và chính sư phụ cũng không vui.

Ba người xuống đến An Giang, rồi qua Rạch Giá, ra biển đến Hòn Sơn chơi ba ngày lại trở về An Giang, trú nơi tịnh xá Ngọc Vân, xã Mỹ Luông, do sư Định làm trụ trì. Chợt thầy Thông Lạc nhuốm bệnh nặng, 2 thầy kia bỏ đi sang núi Cô Tô, Hà Tiên chơi, nhưng lại nói đi hóa đạo. (35)

Tịnh xá chỉ còn lại hai sư và thầy Thông Lạc. Đó là sư Duyên và sư Định. Sư Duyên săn sóc cho thầy Thông Lạc rất tận tình, thường đi xin phật tử từng bát cháo, từng viên thuốc, từng ly nước. Thật là một tình nghĩa bạn đạo khó quên. Đến khi bệnh tình giảm, thầy Thông Lạc theo sư Định về Sài Gòn, sẵn thầy Thông Lạc về Trảng Bàng thăm lại mẹ và em gái ít hôm. Sau đó, Thầy lại từ giã ra đi, một mình một bóng trở lại ra Hòn Sơn Rạch Giá, ngồi tu ngót gần một năm trong cái hang đá. Những thợ rừng thỉnh thoảng mang cơm gạo cúng dường Thầy. Thầy cảm thấy không tiện, nên tập ăn rau và lá cây rừng để sống.

Suốt thời gian trên đỉnh Hòn Sơn, trong hang núi Ma Thiên Lãnh, sống bằng lá cây rừng và rau sà lách son, trồng trong ao nước giữa hai tảng đá to lớn, người Thầy xanh và gầy như que tăm.

Nhờ sống được như vậy, nên Thầy tu tập dẹp sạch vọng tưởng, ngồi bất động suốt 3, 4 tiếng đồng hồ dễ dàng. (36)

--o0o--

Trở về sống bên mẹ

image

Những đêm khuya thanh vắng, tiếng tàu đánh cá ngoài khơi văng vẳng gợi lên lòng nhớ thương mẹ và em nơi quê nhà, trong khi đất nước còn bom cày, đạn xé từng tấc đất yêu thương, thầy Thông Lạc tự hỏi:

Không biết giờ này mẹ mình và em mình ra sao? Có tránh khỏi những làn tên mũi đạn hay không? Có còn bình an ở nơi đó hay không? Hay đã xiêu lạc nơi nào?

Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu, không sao trả lời được. Bấy giờ pháp tri vọng vô phương, không dẹp được những loạn tưởng (37) này. Thầy Thông Lạc xót xa thương mẹ và đứa em gái, trong khi tuổi còn học trò mà phải lăn xả vào đời, buôn gánh, bán bưng để nuôi mẹ. Mỗi lần em đi buôn bán thì mẹ ngồi tựa cửa trông em. Nhớ tưởng cảnh ấy, lòng Thầy tê tái thương mẹ, thương em vô cùng. Phải chi thầy Thông Lạc có cánh, thì Thầy sẽ bay về bên mẹ liền tức khắc. Thương em thân gái bé thơ, mà phải chịu gian truân trong cảnh đất nước đang hồi chiến tranh quyết liệt. Khi nào thấy mặt em về đến nhà thì mẹ mới an tâm. Tội nghiệp mẹ và em lắm. Nghĩ đến đây, Thầy không cầm được những giọt nước mắt, không thể ngồi yên tu hành trên Hòn Sơn được, mà chỉ mong được về bên mẹ, được núp dưới bóng mẹ như lúc còn bé thơ, và sống như vậy mới an tâm tu hành, dù sống bên mẹ có gian khổ như thế nào thì mẹ con đồng chia sẻ với nhau, Thầy an ủi mẹ, mẹ an ủi Thầy, Thầy an tâm tu hành vì có mẹ có em, mẹ an tâm vì có hai con một bên.

Hôm sau, Thầy đón tàu về bên mẹ.

Khi trở về nhà, Thầy nói với mẹ:

  • Mẹ ráng nuôi con ngày một bữa, để con được an tâm tu hành nghe mẹ! Cuộc đời của con chỉ còn biết tu mà thôi, con thương mẹ lắm, con không thể bỏ mẹ (38) một mình ngồi tựa cửa trông em con.

Nghe thầy Thông Lạc nói như vậy, mẹ Thầy không cầm được nước mắt, những giọt nước mắt rơi xuống nói lên lòng mẹ thương con vô cùng vô tận. Đúng như lời ca Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”.

Thầy quay lại nói với em:

  • Em ráng nuôi anh tu hành, anh về em phải cực nhọc nhiều hơn. Anh sẽ làm phụ em những gì anh làm được, và anh sẽ tiết kiệm tối đa để em đỡ vất vả, nhất là em yên tâm, nhà có anh bên mẹ và chăm sóc mẹ thay em.

Em Thầy nói:

  • Thầy cứ an tâm tu tập, có mẹ lo cơm nước cho Thầy, còn em buôn bán đắp đổi qua ngày, Thầy đừng lo, để mặc em. (39)

--o0o--

Người chiến thắng giặc Sinh tử

image

Thầy khép cửa thất lá lại, bắt đầu sống cuộc đời cô đơn và cô độc suốt gần mười năm liền. Người em gái buôn gánh, bán bưng chắt mót từng đồng để nuôi mẹ, nuôi anh.

Mẹ Thầy lo nhiệm vụ hộ thất, mang cơm, xách nước cho Thầy qua khung lỗ nhỏ.

Thời gian lặng lẽ trôi qua mãi, những đĩa rau khoai lang luộc với chén nước tương, hoặc (40) nắm muối trắng bên cạnh tô cơm là những gì nuôi nấng chút sức lực còn lại, để Thầy âm thầm chiến đấu với giặc sanh tử từ muôn kiếp.

Thầy nhớ văng vẳng bên tai lời của Sư phụ (Hòa thượng Thanh Từ):

“Phật pháp còn hiện hữu ở thế gian bởi vì còn có người tu chứng”.

Đúng vậy, nếu Phật pháp không có người tu chứng thì giáo pháp của ngoại đạo sẽ diệt mất Phật pháp. Bằng chứng cụ thể như hiện giờ, kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông của Trung Quốc đã diệt mất Phật pháp ở nước này.

Vì sợ danh dự mà ra đi, nhưng lòng Thầy lúc nào cũng nhớ đến sư phụ: chỉ nguyện dốc hết sức tiến tu đền ơn sư phụ đã chỉ dạy đường lối tu hành quí báu, cũng là để cho pháp môn Thiền Tông hiện hữu ở mãi thế gian, để cho chúng sinh có nơi nương tựa, từ thế hệ, này đến thế hệ mai sau và mãi mãi.

Nhớ lại lúc mới dụng công, Thầy cũng cố gắng biết vọng không theo, nhưng vọng tưởng chập chùng ngăn che, cái biết không hiện tiền, vọng tưởng lừa gạt tuôn chảy mãi. Thầy tự thấy chưa đủ trình độ đi con đường thẳng (41) tắp này, nên lui lại áp dụng phương pháp đếm hơi thở. Sau khi đếm hơi thở thuần thục, Thầy lại chuyển sang tùy tức, theo dõi hơi thở. Sau một thời gian chuyên chú tăng tiến, sức tỉnh giác đã mạnh, Thầy mới trở lại phương pháp biết vọng không theo.

Hồi ở trên Chân Không, Sư phụ có đưa một tập sách trong Đại Tạng Kinh chữ Hán, bảo thầy Thông Lạc dịch, nhưng Thầy xin được giữ độn công phu, không trọng nghĩa giải.

Bây giờ, ở trong thất kín cũng vậy, Thầy bỏ hết sách vở, một bề miên mật xoay về nội tâm tỉnh giác. Có những khi Thầy bắt chân lên ngồi, liền thấy rõ cảnh vật ở làng xa xa, nhưng không chấp nhận, Thầy xả thiền đi kinh hành. Hôm thầy Nhật Quang về thăm quê, có ghé thăm thầy Thông Lạc, thầy Thông Lạc có hỏi thăm về sự việc này, thì thầy Nhật Quang bảo đó là ngũ ấm ma. Khi thầy Nhật Quang về núi thuật lại cho Sư phụ, Sư phụ có viết một bức thư gửi cho thầy Thông Lạc, nhưng bức thư đó không đến.

Những tháng ngày tiếp nối lặng lẽ trôi qua, cuộc đời bên ngoài biến chuyển rộn ràng. Chiến tranh khói lửa ngút ngàn, đến năm 1975 thì hòa bình lập lại, sau cuộc chiến (42) thắng lớn lao của quân đội giải phóng. Cả nước đang nỗ lực góp sức xây dựng lại quê hương, sau bao nhiêu năm chinh chiến. Hoàn cảnh lúc này có khó khăn, vì mới bước đầu dựng lại nền kinh tế độc lập cho xứ sở, và dĩ nhiên, sinh hoạt Phật giáo cũng có phần ảnh hưởng.

Tu viện Chân Không chỉ còn vài thầy với Sư phụ, các thầy trẻ tuổi về mở mang canh tác ở Thường Chiếu.

Nhưng trong chiếc thất lá đơn sơ này, có một bóng người ngồi lặng lẽ, thản nhiên, không bận tâm về các việc khác. Người này đang còn bận phải lập một chiến công oanh liệt nhất, là tự chiến thắng chính mình. Cuộc chiến này chưa ngã ngũ, những tên giặc vọng tưởng vi tế còn lẩn lút đâu đây.

Thầy Thông Lạc vẫn kiên trì, không chút lơi lỏng, từng giờ, từng phút, từng giây đều kỹ lưỡng tỉnh giác, không cho sơ hở. Khi ăn, lúc uống, khi đứng, lúc đi, khi ngồi thiền, lúc xả thiền đều miên mật chăm chú.

Một thời gian dài lâu trôi qua như vậy. Một hôm Thầy chợt nghĩ: “Chư Phật thành đạo đều do sức đại hùng, đại lực, bây (43) giờ mình phải khởi phát đại hùng để dứt hẳn vọng tưởng vi tế này”.

Thầy bắt chân lên bồ đoàn ngay thẳng, tập trung sức tỉnh giác tột độ, cột trói tâm vào hơi thở, vào mắt, vào tai. Quả nhiên, dòng vọng tưởng vi tế bị cột lại cứng ngắt. Thầy dần dần cảm thấy thân thể bị đau đớn quá đỗi, nhưng như con đại tượng đã qua sông không ngó lại, Thầy vẫn chịu đựng để mong dứt sạch vọng tưởng cuối cùng.

Khi Thầy thấy dễ chịu và xả thiền, thì đã qua mất một đêm không hay. Sáng, mẹ Thầy mang cơm vào, Thầy nói: “Bây giờ con ngồi thiền, nếu mẹ thấy thân con còn ấm thì thôi, còn nếu thấy thân con đã lạnh thì gọi bà con lại chôn con”.

Mẹ Thầy ngỡ ngàng nhìn Thầy, rồi lui ra, không tin những điều vừa nghe được. Nhưng những giọt nước mắt của mẹ Thầy rơi xuống, không dấu được Thầy. Thầy thương mẹ lắm, nước mắt của Thầy cũng chảy dài trên má. Thầy tự hứa với lòng mình: phải ráng tu để đền đáp ơn mẹ, ơn nhiều người.

Thầy lại lên bồ đoàn, lại tập trung sức tỉnh giác tột độ như vậy, và cảm giác đau đớn lại khởi lên. Vẫn ý chí ngất trời xanh, vẫn tâm (44) nguyện kiên cường như núi đá, Thầy tiếp tục ngồi không lay động. Người mẹ già mỗi ngày mang cơm vào rồi lại mang ra, vì Thầy ngồi mãi không xả. Bà lo sợ, nước mắt lại tuôn rơi, sợ Thầy chết mất, nên đến gần quan sát thì thấy vẫn còn hơi nóng nơi thân của Thầy, nên yên tâm đi ra, nhưng không sao giữ được những giọt nước mắt thương con. Bà thương con lắm, tu hành sao khổ đến thế!

Đến ngày thứ bảy thì Thầy xả thiền, bà mừng rỡ mang cơm vào cho Thầy, định hỏi thăm vài điều, nhưng thấy Thầy nhìn bà như nhìn một người xa lạ và không nói câu nào, không bảo đói, không nói khát, chỉ ngồi trơ trơ như người từ một thế giới nào lạc vào đây vậy.

Lúc này, thầy Thông Lạc đang ở trong cái đại tử của nhà thiền, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, nhưng mọi suy nghĩ phân biệt không khởi, có cơm thì ăn, có nước thì uống, chứ không còn thấy đói khát gì cả. Khi ngồi thiền, khi xả thiền đều từ thói quen của tay chân tự động, chứ không tác ý. Thời gian đại tử này kéo dài gần hai tháng. (45)

Một hôm, Thầy bắt chân ngồi sát bàn Phật mà không biết, đến khi xả thiền, kéo chân ra đụng vào góc bàn Phật, liền đó tan vỡ! Xem như giai đoạn tu tập Thiền Tông Tối Thượng Thừa đến đây là xong. Nhưng khi trở ra đời sống bình thường, không ở trong trạng thái đại định này, thì Thầy thấy tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi và còn mạnh hơn lúc chưa tu. Nhưng tâm rất khôn khéo, lý luận che đậy bằng những lời lẽ mà ta thường gặp trong kinh sách Thiền Tông và Đại Thừa như: “Tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ liền”, hoặc: “vô sở đắc”, hoặc: “còn thấy tu chứng là chưa chứng”, hoặc: “Em là em, Phật là Phật, em không phải là Phật, Phật không phải là em”…​

Tu xong rồi tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, uống thuốc, không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tu hành chỉ có thông suốt tất cả những công án và kinh sách Đại Thừa để làm gì, khi không làm chủ được sanh, già, bệnh, chết? Thầy rất buồn nản, chẳng còn muốn sống, 10 năm tu tập trong thất rất là gian khổ, rốt cuộc chỉ có một số tưởng giải để lý luận hơn thua. Thế là cuộc đời tu hành của Thầy trở thành số không, nhập vào trạng thái không vọng tưởng thì 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, biết (46) chuyện quá khứ, vị lai của mình, của người rất rõ ràng. Nhưng để làm gì đây? Để trở thành thầy bói ư!

Thầy muốn chết đi cho xong, muốn vào rừng tự tử cho xong một đời tu hành chẳng ra gì. Tu hành như thế này còn mang nợ của đàn na thí chủ, chẳng ích lợi gì cho ai, chỉ có nói dối lừa người. Ôi! Thật là xót xa vô cùng, phí một đời người, chỉ trở thành người nói dối có kinh sách, giới luật thì vi phạm không một giới nào là không vi phạm (phạm giới trong ý). Đúng là chết quách đi cho rồi, nhưng mẹ còn sống mà chết đi là bất hiếu.

Bấy giờ, Thầy ở trong tình trạng như muốn điên loạn, thầy lấy tập kinh Trung Bộ song ngữ do Hòa thượng Minh Châu dịch ra đọc cho hết thời gian, nhưng khi đọc đến những câu: “Tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt”, hoặc: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô”, hoặc: “Quán từ bỏ tâm tham…​”, hoặc: “Quán đoạn diệt tâm tham…​”. Đọc đến những đoạn kinh này, thầy Thông Lạc như bừng tỉnh. Thầy áp dụng vào đời sống tu hành của mình ngay liền, Thầy không ngồi kiết già nữa, vì ngồi kiết già tâm sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng. Thầy rất sợ 18 loại tưởng xuất hiện, nên chỉ ngồi (47) tựa cửa thất, nhìn trời mây, cây cỏ mà tác ý: “TÂM NHƯ ĐẤT, LY THAM, SÂN, SI CHO THẬT SẠCH”. Nhờ tác ý như vậy, tâm Thầy lần lượt quay vào định trên thân, Suốt ngày đêm Thầy không ngủ, luôn luôn biết hơi thở ra, vô và cảm giác toàn thân. Chính lúc này tâm Thầy đang quán trên thân, tức là Thầy đang tu tập Tứ Niệm Xứ mà không biết. Tâm định trên thân suốt sáu tháng trời, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống đều biết chỉ có một tâm đó.

image

Thị Giả Mật Hạnh (48)

Một hôm, trên tâm thanh tịnh đó xuất hiện Bốn Thần Túc, Thầy liền biết một cách rõ ràng, nhưng cái biết đó không phải là ý thức, mà cái biết đó là thức uẩn, nên Thầy dùng thần lực đó nhập Bốn Định Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Thầy hoàn toàn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Thầy biết rất rõ chỉ còn một đời sống này nữa mà thôi. Tâm Thầy không còn một chút tham, sân, si, mạn, nghi nào cả.

Sau sáu tháng tu tập với câu tác ý đơn giản, mà thành công vĩ đại không ngờ. Sự thành công này mở màn cho nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo ra đời.

Thầy mở cửa thất đi ra làm người chiến thắng vinh quang, sau hơn mười năm giam mình trong cô đơn hiu quạnh, Thầy đi đến mẹ mình nói: “Từ nay mẹ khỏi mang cơm vào thất, vì con sẽ ra đây ăn cơm với mẹ. Con đã tu xong rồi”.

Mẹ Thầy vui mừng quá đỗi, nói: “Thời gian qua mẹ tưởng con điên mất, và nhất là lo sợ con chết”.

Có lẽ lời nguyện hứa từ kiếp nào đã làm tròn, bà cụ ra đi sau đấy ba tháng. (49)

Mẹ ra đi vào cõi vĩnh hằng, trong nhà chỉ còn lại hai anh em, nên thầy Thông Lạc xin một đứa cháu mới tám tuổi, đặt cho pháp danh là Mật Hạnh, về nuôi, cho đi học và dạy tu hành.

Sau mười năm nhọc nhằn nuôi mẹ, nuôi anh, giờ đây, người em được Thầy giúp đỡ mọi công việc nặng nhọc, đặt cho pháp danh là Diệu Quang và lại dạy tu hành ngồi thiền xả tâm. Đó là hai người đệ tử cư sĩ đầu tiên được quy y với Thầy. (50)

image

Tạo duyên giáo hóa chúng sanh

image

Thấy mình không có duyên giáo hóa chúng sanh, nên Thầy muốn thị hiện Niết Bàn để gây niềm tin cho mọi người rằng: Thời mạt pháp vẫn có thể tu chứng. Việc lợi ích chúng sinh của Thầy chỉ như vậy, chỉ là gây niềm tin cho mọi người bằng hình ảnh Niết Bàn của mình. Thầy cất một cái nhà sàn định dùng làm giàn hỏa thiêu. Nhưng Thầy thấy chúng sanh còn quá khổ, bỏ đi sao đành, con đường tu hành theo Phật giáo để được giải thoát thì bị kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ dìm mất, còn mình thì không có duyên, làm sao (51) cứu họ đây. Thầy suy tư rất nhiều để tìm mọi cách độ chúng sanh. Rồi Thầy lại nhớ ngày xưa đức Phật còn hóa duyên độ chúng sanh, thì Thầy bây giờ cũng vậy. Phải hóa duyên độ chúng sanh, nhưng phải bằng cách nào?

Rồi Thầy tự trả lời câu hỏi: Phải tạo duyên mới chớ sao? Nhưng tạo duyên mới như thế nào? Người nào? Ở đâu?

Để trả lời những câu hỏi này, Thầy dùng trí tuệ tu chứng quan sát khắp nơi: Chỉ thấy có Sư phụ (Hòa thượng Thanh Từ), là nơi tạo duyên hóa độ chúng sanh dễ dàng.

Sư phụ người đã dạy bảo, đã khích lệ mình mới có sự tu chứng như ngày hôm nay, Thầy tìm về núi cũ để thăm Sư phụ và tạo duyên giáo hóa chúng sanh.

Cảnh vật nơi Chân Không thay đổi nhiều quá, đường lên núi được lát đá, sắp cấp dễ đi hơn nhiều. Hai bên đường là những am thất sang trọng, thầy Phước Hảo bỡ ngỡ nhìn ông già xa lạ từ đâu đi đến, tự xưng là Thông Lạc. Thầy Thông Lạc nói:

  • Thầy nhớ tôi không? Tôi là Thông Lạc đây! (52)

Thầy Phước Hảo không tin người đứng trước mặt mình là người huynh đệ Thông Lạc ngày xưa. Thông Lạc ngày xưa đẹp đẽ, nho nhã bao nhiêu, thì ông già này tiều tụy già cỗi bấy nhiêu, mái tóc dài lõa xõa, chòm râu bạc lơ thơ, răng chiếc còn, chiếc mất, làm sao là Thông Lạc được.

Nhưng dù sao, thầy Phước Hảo cũng nhận ra được, và huynh đệ rất mừng tay nắm tay. Sau khi uống nước xong, thầy Phước Hảo giới thiệu lên Sư phụ. Đi vòng qua Thiền Đường uy nghi mát mẻ, qua tăng đường chỉ còn trơ lại nền đất, lên dốc Đại Mai uốn quanh, khỏi cốc thầy Kiến Thiện là phương trượng Sư phụ. Sư phụ nhận ra thầy Thông Lạc liền. Thầy Thông Lạc thưa:

  • Thưa Thầy! Sau bao năm xa Thầy, giờ đây con đã có trí tuệ và nhập định một cách dễ dàng.

Sư phụ bảo:

  • Chú nói chú có trí tuệ, bây giờ tôi hỏi mà chú đáp được thì tôi công nhận.

Thầy Thông Lạc nói:

  • Thỉnh Thầy hỏi.

Sư phụ đưa ra một công án thiền:

  • Có một thiền sư hỏi thiền (53) khách: “Phật là gì?”. Thiền khách đáp mãi mà thiền sư không đồng ý. Bây giờ tôi hỏi chú:

  • Phật là gì?

Như trái banh nổi trên nước, đụng là xoay, đẩy là chạy, thầy Thông Lạc liền đáp:

  • Thầy có thấy lá cây rung trước gió chăng?

Sư phụ gật đầu và đưa ra một công án khác:

Có một thiền khách hỏi Động Sơn:

  • Thế nào là đại ý Phật pháp?

Động Sơn đáp:

  • Ba cân gai.

Vậy tôi hỏi chú:

  • Ba cân gai là gì?

Thầy Thông Lạc đáp nhanh như gió, không cần suy nghĩ:

  • Đạo không lìa đời.

Sư phụ gật đầu, đọc một đoạn trong kinh Lăng Già để ấn khả chỗ đến của thầy Thông Lạc, tức là Thầy đã kiến tánh hoàn toàn. (54)

Theo Thiền Tông, kiến tánh thành Phật, người thông suốt 1.700 công án thiền là trí, chứ không còn là thức phàm phu nữa.

Sư phụ có bảo:

  • Nếu chú có ở gần tôi, chú đã đến chỗ này sớm hơn.

Thầy Thông Lạc lại thưa:

  • Thưa Thầy cho phép con nhập Niết Bàn.

  • Năm nay chú bao nhiêu tuổi?

  • Dạ, hơn năm mươi tuổi!

  • Chú hãy còn trẻ lắm, hãy ở gần tôi thêm lợi ích và trợ duyên tôi giáo hoá.

Duyên đã tạo ra được, từ đây thầy Thông Lạc bình thản ở lại và tìm mọi cách dựng lại Chánh pháp của Phật. Sư phụ lại đưa cho Thầy nhiều kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông để mở mang kiến thức. (55)

--o0o--

Chỉ có người tu chứng mới thống nhất Phật Giáo

image

Hôm nay, ngày 11 tháng 3 Âm lịch, năm 1987, thầy Thông Lạc lại về thăm Sư phụ.

Sư phụ đang ngồi trên võng, nơi nhà mát phương trượng, với vài ba phật tử quen thuộc ngồi dưới nền. Thầy Thông Lạc đến xá chào và ngồi xuống bên phải gần Sư phụ. Các phật tử đi theo Thầy cũng ngồi xuống chỗ thích hợp. Trong buổi nói chuyện này, anh Đỗ Đình Đồng đã trình nhiều ý kiến về Phật giáo và Thiền Tông với Sư phụ. Câu chuyện ban đầu (56) đi dần đến kinh nghiệm tu hành. Thầy Thông Lạc thưa:

Thưa thầy, theo kinh nghiệm của con, người tu thiền phải xả bỏ tận gốc các kiến giải, tưởng giải, vì sự hiểu biết đó chỉ là hiểu biết ảo tưởng, chứ không phải sự hiểu biết của tri kiến giải thoát. Như ngày trước con tu, không xem kinh sách gì, đến khi con lên trình Thầy. Thầy hỏi là con bèn đáp theo Tri Kiến Trực Giác, chứ không do ý thức suy nghĩ phàm phu.

Hòa thượng Thanh Từ bảo:

  • Không phải thức như thế này. Có hai loại trí:

  • Một là Trí Hữu Sư.

  • Hai là Trí Vô Sư.

Trí hữu sư do học, còn trí vô sư do tâm thanh tịnh. Trí vô sư này mới chống lại với giặc sanh tử được, còn trí hữu sư thì không chống được. Trí tuệ là cái chính yếu để phá trừ vô minh được giải thoát. Ngày xưa, các Tỳ kheo dù nhập định đến 7, 8 ngày mà chưa thấy lý Tứ Đế vẫn không chứng A La Hán, vì trí hữu sư vẫn là phàm phu trí. (57)

Sau đó, Sư phụ lại đề cập đến vấn đề Nguyên Thủy và Đại Thừa đang là điều chú ý hiện nay. Thầy bảo, cũng là đạo Phật, mà hai bên đi hai đường dường như trái hẳn nhau; không thông cảm, không thống nhất gì được. Anh Đỗ Đình Đồng tỏ vẻ bi quan về việc thống nhất, dung hợp Nguyên Thủy và Đại Thừa là điều quá khó khăn, xưa nay không ai nghĩ tới. Thầy Thông Lạc thưa:

  • Thưa Thầy, theo con thấy mình cứ biểu hiện bằng sự tu chứng của mình. Họ thấy được điều đó rồi theo mình là tự nhiên thống nhất.

Sư phụ bảo:

  • Được mấy người tu chứng, và bao lâu mới tu chứng. Dĩ nhiên điều này là hay, nhưng đòi hỏi thời gian. Trong khi vấn đề hiện nay cấp bách là phải giải quyết liền. Có ba yếu tố có thể giúp cho sự thống nhất:

Một là biểu hiện qua sự tu hành chân chánh của mình. Điều này đòi hỏi bên Đại Thừa phải trong sáng, không để xen lẫn những hình thức mê tín, dị đoan trái tinh thần giải thoát, giác ngộ của đạo Phật, phải có những người tu hành có kết quả rõ rệt; (58) phải giữ gìn giới luật nghiêm túc; phải sợ hãi những lỗi lầm nhỏ nhặt trong giới luật.

Hai là giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa phải được dẹp bỏ những kiến giải, tưởng giải làm sai lệch ý Phật. Nhất là kinh sách Đại Thừa xây dựng thế giới siêu hình ảo tưởng, tạo thành một tôn giáo thần quyền, chuyên cúng bái cầu siêu, cầu an tạo ra nhiều sự mê tín, dị đoan, lạc hậu, khiến phật tử mất hết sức tự lực, chỉ còn tha lực cầu cạnh quỷ thần. Những tư tưởng sai lệch của Đại Thừa như vậy cần phải dẹp bỏ, thì mới có thể hòa hợp với Nguyên Thủy Nam Tông.

Ba là nghi thức. Mình là người Việt Nam. Phật giáo là Phật giáo Việt Nam, mà bên thì tụng kinh bằng tiếng Pàli, bên thì tụng bằng tiếng Hán, người Việt Nam nghe không hiểu gì hết.

Ngừng một chút, Sư phụ tiếp:

  • Nội cái việc hai tạng kinh không đồng nhau là đã rắc rối rồi. Hoà thượng Minh Châu chỉ nhận tạng kinh Pàli là đạo Phật, còn cho kinh điển Đại Thừa là ngoại đạo. Hòa thượng Trí Tịnh thì bảo ai không nhận kinh điển Đại Thừa kẻ đó là ngoại đạo. Hai (59) ông Hòa thượng lớn của giáo hội còn chưa thông cảm nhau, huống hồ người dưới.

Không thể nào giáo lý Đại Thừa và Nguyên Thủy không trái nhau, hai giáo lý này nghĩa lý cách xa nhau như một trời, một vực, vì thế không thể thống nhất giáo lý được, mà thống nhất giáo lý không được thì làm sao thống nhất hai hệ phái lớn này được, Hai hệ phái lớn không thống nhất được thì các chi phái nhỏ, các nhánh khác dễ dàng gì thống nhất họ được.

Anh Đỗ Đình Đồng vui vẻ thưa:

  • Con thấy việc làm này rất khó, chỉ có những người tu chứng mới làm nổi như ý Thầy Thông Lạc.

Thầy Thông Lạc cũng đồng ý:

  • Đây chỉ còn là cách duy nhất mà thôi.

Sư phụ bảo:

  • Tôi chỉ gợi ý thôi, còn để cho mấy chú sau này làm.

Nói xong, Sư phụ quay nhìn những đệ tử trẻ chúng tôi ngồi gần đấy.

Đã đến giờ ngọ trai, trước khi lui ra, thầy Thông Lạc thưa:

  • Con muốn thưa (60) chuyện riêng với Thầy, nếu được Thầy cho phép, con gặp Thầy vào buổi chiều.

  • Ờ, hai, ba giờ chiều rồi tới. (61)

--o0o--

Thầy trò cảm thông

image

Ba giờ chiều, thầy Thông Lạc vào hầu chuyện với Sư phụ, ba phật tử lúc sáng cùng đi theo.

Thầy Thông Lạc thưa:

  • Thưa Thầy, từ ngày con lên núi trình Thầy, được Thầy ấn chứng, con có xin Thầy cho phép nhập Niết Bàn, nhưng Thầy bảo con ở lại trợ duyên Thầy giáo hoá. Vì thế con không đi trước Thầy. Theo lời Thầy dạy, con (62) tiếp tục nghiên cứu các kinh sách Đại Thừa. Và con cũng tuỳ duyên tiếp người mới học. Nhưng có những lời đồn quanh quất nơi các phật tử bên ngoài, là đường lối con khác đường lối Thầy, gây chia rẽ giữa con với Thầy. Thưa Thầy, con tuỳ căn cơ người mà lập hai pháp, bên Thiền bên Định, bên thiền về quán để dạy người xả chướng ngại pháp. Còn Thầy dạy Bát Nhã cũng là quán, hoặc biết vọng không theo cũng là định, không có gì khác nhau. Hôm rồi, có những phật tử ở Cần Thơ đến nói con về việc này, rồi họ mời con xuống dưới để giải thích.

Thưa thầy, hôm nay con lên đây để trình việc này và cũng để xóa tan những dư luận bên ngoài, có khi sẽ lan tới bên trong. Xin Thầy cho vài huynh đệ về phụ với con, như để xác định lại rằng đường lối của con không khác đường lối của Thầy, làm sáng tỏ chỗ dư luận như vậy.

Sư phụ bảo:

  • Điều đáng ngại là thầy trò không thông cảm nhau, còn khi thầy trò đã thông cảm với nhau thì dư luận ở bên ngoài không quan trọng. Việc đưa người về đó không tiện, vì hành chánh giấy tờ họ đã ổn định ở đây rồi, (63) đưa qua đưa lại mất công. Khi nào thuận tiện tôi sẽ đi thăm là được rồi.

Các đạo hữu mừng rỡ:

  • Sư ông đến thăm còn gì quí bằng.

Như vậy xem như chuyện thầy Thông Lạc lên thăm đây là mỹ mãn.

Sư phụ lại nói về tình hình Phật giáo hiện tại, và bảo hiện nay nhà nước đang xây dựng một viện nghiên cứu triết lý Phật giáo, nhất là Phật giáo Việt Nam thời Lý, Trần.

Cư sĩ Thiện Chí thưa:

  • Thưa sư ông, nhiều người nói sư ông bác Tịnh Độ?

Thầy cười, bảo:

  • Nếu chấp nhận Tịnh Độ thì đã tu Tịnh Độ mất rồi! Tôi không nói là bác, nếu ai hỏi về Tịnh Độ tôi chỉ giải thích niệm Phật đến chỗ nhất tâm.

Thầy Thông Lạc thưa:

  • Thưa Thầy, ngoài miền Trung và miền Bắc có nơi nào tu thiền không?

Sư phụ bảo: (64)

  • Ở ngoài Bắc, nơi chùa Hòa Giai có sư cụ pháp chủ Đức Nhuận tu theo thiền Tào Động, lối phản quang tự tánh. Còn ở miền Trung thì hoàn toàn không còn nữa, mặc dù trước đây miền Trung là nơi truyền dạy thiền của hai ngài Nguyên Thiều và Liễu Quán.

Sư phụ nói thêm:

  • Mình nói tu theo Đại Thừa, mà Thiền Tông là cốt tủy của Đại Thừa thì không chấp nhận. Hồi tôi lập tu viện Chân Không để dạy thiền, cả giáo hội hồi đó không ai đồng ý cả, chỉ có Hòa thượng Thiện Hòa vì tình cảm riêng mà ra thăm hỏi. Trong khi thời đó, nhóm Lương Sĩ Hằng dạy thiền xuất hồn hoàn toàn sai với đạo Phật thì giáo hội không nói được một lời nào để phê phán. Trái lại, tôi dạy thiền của đạo Phật thì các vị lạnh lùng, xa cách. Bởi vậy, việc làm của tôi bao nhiêu năm qua là việc làm trong cô đơn, yên lặng. Phật giáo Việt Nam mình hầu hết 99 phần trăm là Tịnh Độ, chỉ bắt đầu từ khi tu viện Chân Không xuất hiện thì mới có thiền. Cho nên, tiếng nói của thiền thật là bơ vơ, lạc lõng.

  • Hồi trước kia, trong một kỳ họp của giáo hội, với tư cách là người trong ban hoằng pháp, tôi phát biểu chư tăng bấy giờ có nhiều (65) người muốn chuyên tu, xin giáo hội cho lập những Tịnh viện, Thiền viện, làm cơ sở cho chư tăng chuyên tu ròng tu tập. Kỳ đó thượng tọa Thiện Minh làm chủ tọa, các vị bác ý kiến tôi không tiếc lời, bác thẳng tay.

Thầy Thông Lạc tiếp lời:

  • Tuy Sư phụ nói như vậy, nhưng riêng chúng con lại thấy khác.

--o0o--

Có thể đối với giáo hội trước kia, Sư phụ là người cô độc đi con đường của mình, nhưng từ mọi miền đất nước, từ nhiều nơi trên thế giới, với những người thiết tha tu tập mà không thỏa mãn nơi sinh hoạt của giáo hội, đã hướng về Sư phụ như ngọn hải đăng rực sáng cao cả, soi phá bóng đêm âm u trên biển khổ trầm luân sinh tử, giúp họ vượt qua đêm dài tăm tối si mê, đưa họ trở lại lối tu cốt tuỷ của đạo Phật.

Sư phụ không cô đơn, vì pháp âm của Người vang mãi trong lòng muôn người chân thành vì đạo pháp; Sư phụ không cô đơn, vì con đường Người vạch lối có vô số người bước theo và tìm thấy nơi đây bình an và hạnh (66) phúc; Sư phụ không cô đơn, vì hàng đệ tử chúng con vững bước theo Người, nối tiếp sứ mạng của Người, làm trong sáng đạo Phật khỏi những sai lầm cực đoan và mê tín. Vì thế mà hiện giờ Sư phụ không còn cô đơn nữa, con đường của Sư phụ đi là con đường sáng chói huy hoàng, mà chúng con là những người thực hiện ánh sáng ấy. (67)

--o0o--

Giai đoạn chuyển biến Phật Giáo từ Tịnh tới Thiền

image

Hôm thứ bảy, ngày mùng 7 tháng 3 Âm lịch vừa rồi, có Hòa thượng Minh Châu, cùng với ông Đức Phương, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Tống Anh Nghị, là những người chịu trách nhiệm tờ báo Giác Ngộ, tờ báo Phật giáo hiện nay, đến Thiền viện thăm Sư phụ. Những vị kia hầu hết đều quen thuộc đối với Phật giáo, còn ông Đức Phương là chủ bút báo Giác Ngộ. Chúng tôi đã đãi các vị bữa cơm trưa với các món ăn tự sản xuất được như: mít kho, đào chiên, canh rau dền. Sau (68) buổi nghỉ trưa, ngồi nói chuyện với Sư phụ, ông Đức Phương nhận xét:

  • Tôi nghe Thầy là người tu theo Đại Thừa, nhưng khi đọc cuốn “Chìa Khóa Học Phật”, tôi thấy Thầy nói về đức Phật rất thực tế, không có vẻ gì huyền thoại.

Ý ông nói là Nguyên Thủy mà tránh dùng chữ quá rõ.

Sư Phụ đáp:

  • Tôi không để ý đến những khía cạnh khác, với tôi đạo Phật tùy bệnh cho thuốc.

Ông Đức Phương:

  • Biết bệnh biết thuốc cũng khó chứ.

Thật ra Sư phụ muốn gạt vấn đề Nguyên Thủy và Đại Thừa qua một bên, chia đôi hai nhánh làm gì, tùy bệnh thô thì nói pháp thô, bệnh tế thì nói pháp tế, với người chưa tỉnh thì nói pháp giải thoát, với người tỉnh rồi thì nói lý tưởng độ sanh.

Các ông khẩn khoản mời Sư phụ viết bài cho báo Giác Ngộ.

Sư phụ có vẻ từ chối, nói rằng: (69)

  • Tôi là người nhiệt tình, cũng muốn nói lên những điều cần phải nói, nhưng những điều tôi đã nói lại có người hiểu lầm. Riết rồi tôi chỉ thích coi ngó làm ruộng, làm rẫy mà thôi.

Ông Tống Hồ Cầm lại khuyến khích:

  • Thầy là con người văn hoá, công việc văn hoá là thích hợp chứ.

Ông Võ Đình Cường lại thêm:

Thôi, Thầy viết bài cho đặc san trong Phật đản kỳ này đi. Có lẽ trong nội bộ Phật giáo hiểu lầm Thầy thôi. (70)

--o0o--

Thiền Tông không làm chủ Sanh, Già, Bệnh, Chết

image

Đang thuật chuyện thầy Thông Lạc, tôi lại nhắc đến các ông, bây giờ giải thích sự kiện hiểu lầm, tôi lại phải nhắc chuyện nhà Tổ. Khi cất xong nhà Tổ, Sư phụ nói chuyện với tứ chúng. Trong bài nói, Sư phụ có dẫn thiền sư Thường Chiếu.

Thần Nghi hỏi thầy là Thường Chiếu:

  • Mọi người đến thời tiết này, chỗ ngộ này, vì sao đều theo thế tục mà chết?

Thường Chiếu bảo: (71)

  • Ngươi nhớ được mấy người không theo thế tục mà chết?

  • Một mình tổ Đạt Ma.

Thường Chiếu hỏi:

  • Có những gì đặc biệt?

Thần Nghi thưa:

  • Một mình đạp sóng trở về Tây.

  • Núi Hùng Nhĩ là nhà ai? (ý nói Tổ Đạt Ma cũng chết chôn trong núi này).

Thần Nghi thưa:

  • Chỉ là chỗ chôn chiếc giày trong hòm mà thôi.

  • Lừa người lấy lợi, đứng đầu là Thần Nghi (ý chê Thần Nghi đi ngõ khác với Thiền).

  • Đâu thể nói Tống Vân truyền dối việc vua Trang Đế quật mồ thì sao?

Thường Chiếu bảo:

  • Một con chó lớn sủa láo, mấy con chó nhỏ sủa theo.

  • Hòa thượng cũng tùy tục chăng?

  • Tùy tục. (72)

  • Vì sao như thế?

  • Ấy là cùng người đồng chết

Thần Nghi chợt tỉnh ngộ, lễ bái thưa:

  • Con đã hiểu lầm hết rồi.

Người theo Thiền Tông cốt ngộ được pháp thân bất sanh bất diệt, còn cái thân tứ đại này theo luật vô thường phải có ngày tan hoại. Phật cũng thế. Không làm chuyện lạ, bày trò sống lâu với thân tứ đại này chỉ vì dạy người giác ngộ pháp thân vượt ngoài sanh tử.

Thần Nghi chưa ngộ pháp thân nên chỉ nhìn nơi chuyện lạ, ca ngợi tổ Đạt Ma đã tịch chôn trong tháp ở núi Hùng Nhĩ rồi mà còn sống lại, ra khỏi tháp đi về Ấn Độ, gặp sứ giả Tống Vân trên núi Thống Lãnh, Tống Vân về thuật lại, vua Trang Đế quật tháp chỉ còn một chiếc hài.

Thiền sư Thường Chiếu đã quở trách những người đến với đạo Phật chỉ để ý chuyện lạ, không sáng lý tánh qua câu: “Một con chó lớn sủa láo, mấy con chó nhỏ sủa theo”. Sư phụ dẫn chuyện này để khẳng định đường đi của Phật giáo không chú trọng (73) chuyện lạ, vì như thế có thể chìm vào dị đoan, mê tín.

Nhưng không biết trong những người đứng nghe lúc đó, nghe thế nào mà hiểu lầm rằng con chó sủa láo chính là công kích các hệ phái khác.

Trước khi ra về, các ông xin những cuốn sách Sư phụ đã trước tác căn bản như: “Mới Vào Cổng Chùa”, “Yếu Chỉ Thiền Tông”, “Hé Mở Cửa Giải Thoát”.

Sư phụ nói tiếp với thầy Thông Lạc và các phật tử:

  • Tất cả những việc tôi âm thầm làm từ trước, trong hoàn cảnh không thích hợp như khôi phục Thiền Tông, sau giải phóng thì tổ chức sinh hoạt lao động trong thiền viện, bây giờ những việc đó bắt đầu có cơ duyên thích hợp, từ lâu yên lặng, bây giờ mới nói lên tiếng nói…​ (74)

--o0o--

Huynh đệ tu viện Thường Chiếu thưa hỏi

image

Vì thầy Thông Lạc đến sáng mai mới về, nên tối nay huynh đệ chúng tôi khẩn khoản thỉnh Thầy hoan hỷ cho chúng tôi tham vấn. Sau giờ xả thiền, chúng tôi trải chiếu, bày trà nơi gian nhà trống và mời Thầy đến.

Thầy Thông Quán đã thay mặt huynh đệ hỏi trước: (75)

  • Thưa Thầy, con nghe Thầy có dạy các pháp tu định và tu quán, các pháp này thế nào?

Thầy Thông Lạc bảo:

  • Hai phép tu định và tu quán không khác nhau với đường lối của Thầy viện chủ, chỉ là tuỳ căn cơ người học mà Thầy thiên về định hay về quán thôi (Thầy Thông Lạc có thói quen xưng “Thầy”, gọi chúng tôi là “huynh đệ”, có lẽ vì Thầy thấy thân mật, chúng tôi cũng thấy cởi mở).

Với người thông minh, học nhiều - Thầy tiếp - Thầy cho họ pháp quán xả tâm để đi suốt con đường tri kiến giải thoát tận đỉnh. Ngay tri kiến giải thoát tận đỉnh là tâm bất động, tức là Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định là mục đích của đạo Phật, người tu tập tới đây muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn. Muốn thực hiện là được liền, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Cho nên, trong kinh thường dạy: “Hướng tâm đến Túc Mạng Minh; hướng tâm đến Thiên Nhãn Minh; hướng tâm đến Lậu Tận Minh v.v…​”. Nhưng các huynh đệ hãy lưu ý, muốn đạt được tâm bất động như vậy mà không tu tập Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ đạt được. Muốn tu tập (76) Tứ Niệm Xứ sung mãn mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma.

Tùy căn cơ của mỗi người, đôi khi Thầy cho họ một câu hỏi khó giải để diệt ý thức phân biệt, nhờ đó nghi tình sẽ phát khởi, khi nghi tình phát khởi thì cái nghi chôn sâu vào tâm họ, chờ duyên khai phát cái nghi đó. Cái nghi bùng vỡ là pháp tưởng hiện tiền, 1.700 công án họ đều phá sạch, không một cái nào dấu họ được. Nhưng cái khuyết ở trường hợp này là trên đường đi họ dễ sanh ngã mạn, nói năng to lớn. Người thầy phải biết trị cái bệnh này, biết “thằng này nói dóc”, chặn lại và sách tấn họ vượt qua tiếp, khéo chuyển kiến giải, tưởng giải thành tri kiến giải thoát. Đa số người kiến giải, tưởng giải ở phương tiện này đều phải hàm dưỡng nhiếp tâm, an trú tâm và sức tỉnh giác rất cao để bất động tâm, chứng ngộ chân lí.

Còn với người trì độn, ít học, Thầy chỉ họ tu Định Niệm Hơi Thở, từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ 19. Nếu họ vào định thật sự rồi, tức là vào chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là chân lí thứ ba của đạo Phật (77) trong Tứ Diệu Đế. Cái khuyết ở trường hợp này là họ dễ chìm trong si định, cái định si mê, ham ngủ, lười biếng. Nếu người thầy khéo gỡ mối, đưa họ qua khỏi trạng thái si mê này thì họ chứng đạo. Trường hợp người đi qua phương tiện tu Định Niệm Hơi Thở này, khi đạt được đề mục thứ 19 thì cũng là chứng ngộ luôn.

Thầy Thông Vân thưa:

  • Trong kinh pháp Bảo Đàn. Lục tổ Huệ Năng dạy: “Niệm khởi liền giác, không sợ vọng khởi, chỉ là đừng lầm vọng tưởng”. Lời dạy này có khác với Thầy chăng, thưa Thầy?

Thầy Thông Lạc bảo:

  • Cái diệt niệm của Tiểu Thừa là diệt niệm ác, còn niệm thiện không diệt, cho nên Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, hoặc: “Thấy lỗi mình không thấy lỗi người”, để vào Bất Động Tâm Định. Cho nên khác với cái giác niệm của Đại Thừa. Với Đại Thừa, niệm khởi mình chỉ biết thì nó không còn là vọng tưởng nữa. Tuy nhiên, trong Thiếu Thất Lục Môn, tổ Đạt Ma có dạy lý nhập và hạnh nhập. Người thượng (78) căn khi nghe một câu liền ngộ, và từ đó sống luôn với chỗ ngộ của mình, đây gọi là lý nhập. Nhưng với người kém hơn phải nhờ hạnh nhập, tức là tu định một thời gian mới có thể thấy tánh.

Lục Tổ có bảo: “Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”; “Trước niệm không sanh là Phật, sau niệm không thêm cái diệt chỗ đó là tâm”. Nếu giữ được như vậy lâu ngày thì thành viên mãn. Đó là theo pháp môn ảo tưởng của Đại Thừa, Thiền Tông nên chỉ nói suông, chứ không thể thực hiện được. Cho nên tổ sư và các đệ tử nhiều đời nhiều kiếp chỉ chết cứng trong những kiến tưởng giải này không lối thoát, vì thế không ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết được. Còn người nhập định như gốc cây, cục đá, chẳng đem lợi ích gì cho mình, cho người. Những loại thiền định ngôn ngữ suông này, nó đã diệt nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo xuống tận đáy vực thẳm. Vì thế, hỏi đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, thì từ Thiền sư tổ cho đến các Thiền sư con đều không ai biết, họ chỉ biết kiến tánh thành Phật. Phật của họ là Phật phạm giới, tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ, nên ăn uống phi thời có sao (79) đâu. Họ cho rằng dâm dục cũng đâu có mất Phật tánh, vì tánh Phật xưa nay đều có sẵn. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Uống rượu, ăn thịt như Tế Công, Tuệ Trung cũng đâu có mất Phật tánh.

  • Thưa Thầy, có ý kiến Tổ sư thiền là đến siêu phương tiện, không qua thứ lớp định huệ đồng thời. Còn Thầy chia hai phương tiện như vậy có hợp chăng?

  • Đây chỉ là phương tiện ban đầu của Thầy để đưa người mới học đến cửa. Thật ra không phải căn cơ người nào cũng giống nhau. Người thượng thượng căn một lần nghe là đốn chứng viên mãn. Người thượng căn có đốn ngộ cũng phải tiệm tu. Còn người trung, hạ căn phải có phương tiện mới xả tâm rốt ráo. Như ngài Khuê Phong, tuy đã ngộ, nhưng Ngài tự thấy mình còn ái kiến nên bỏ vào núi tập định ngót mười năm mới sạch.

Thầy Thông Quán lại thưa:

  • Thưa, Thầy có dùng lối chỉ thẳng như các vị thiền sư không?

Thầy Thông Lạc bảo: (80)

  • Có, có khi qua cái dụng để chỉ cái thể, có khi đốn cơ gạt bỏ tri thức khiến họ ngộ nhập. Nhưng trường hợp này ít ỏi.

Một Thầy mới đến thiền viện thưa:

  • Thưa Thầy, con dùng lối sổ tức để tập tu ban đầu, nhưng trong mười hơi đang đếm vẫn còn vọng niệm xen lẫn.

Thầy Thông Lạc bảo:

  • Vậy là còn thiếu phước, nên tu thập thiện, sư đệ hãy phát nguyện tu thập thiện, bắt đầu khởi tu tập ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp như trong kinh Thập Thiện dạy. Khi tu tập pháp này thuần thục rồi, thì sư đệ mới tiếp tục tu 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở thì sẽ không còn vọng tưởng xen lẫn vào nữa.

  • Thầy Thông Quán lại hỏi:

  • Nếu không tỉnh giác có bị các pháp cột trói không, thưa Thầy?

  • Không tỉnh giác là bị các ác pháp cột trói. Cho nên tu tập cần phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác có bốn giai đoạn tu tập: (81)

1- Giai đoạn thứ nhất: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý một lần: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi tác ý xong câu này rồi tiếp tục đi. Đi và đứng lại tác ý như vậy đúng 30’ mới xả nghỉ.

2- Giai đoạn thứ hai: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại thì tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi đi xong 10 bước đứng lại tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ.

3- Giai đoạn thứ ba: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước ngồi xuống kiết già hay bán già lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra, hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại đứng dậy tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi đi xong 10 bước đứng lại rồi ngồi xuống tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ.

4- Giai đoạn thứ tư: Đi kinh hành theo pháp Thân Hành Niệm, pháp này phải được trực tiếp với người có kinh nghiệm dạy, chứ đừng tự mình tu tập thì dễ bị sai lệch rất (82) nguy hiểm. Pháp này mỗi hành động trong thân đều phải tác ý trước rồi mới hành động sau, có nghĩa là lệnh đâu thì hành động phải theo đó mà thi hành.

Thầy Thông Quán hỏi:

  • Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không, thưa Thầy?

  • Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không ư? Đó là đã rơi vào không, như cây đá rồi. Người tu hành mà để thành cây đá thì có ích lợi gì. Câu hỏi của sư đệ không bao giờ có trường hợp xảy ra như vậy. Không tỉnh giác tức là mê. Mê có hai ngả:

  • Ngả thứ nhất là bị vọng tưởng.

  • Ngả thứ hai là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.

Hai ngả này xác định khi mê thì không chạy đâu khỏi, không rơi ngả này thì phải lọt ngả khác, cho nên không bị các pháp cột trói là không có.

Không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không rồi. Đã bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, (83) ngoan không, còn tỉnh đâu mà các pháp cột trói. Có đúng như vậy không các huynh đệ.

  • Cho nên không bị vọng tưởng lôi kéo thì ngay đó là tỉnh giác rồi, Có tỉnh giác thì các pháp làm sao trói buộc? Câu hỏi của sư đệ vô lý, chỉ đặt ra hỏi cho có hỏi chứ không có nghĩa lý gì cả.

Thưa các huynh đệ! Muốn thưa hỏi tu hành hay thưa hỏi để nói chuyện tào lao? Người tu hành không phí thời gian vô ích. Sau này sư đệ muốn thưa hỏi thì phải thưa hỏi những câu hỏi có ý nghĩa trong vấn đề tu tập, và cũng không nên hỏi những câu hỏi ngoài vấn đề.

Đưa cái ly ra, thầy Thông Quán lại hỏi tiếp:

  • Bạch Thầy, nếu bảo thấy cái ly là chạy theo vật, còn nói không thấy cái ly là phủ nhận sự hiện hữu, vậy phải làm sao?

  • Thấy cái ly mà chạy theo vật là phàm phu, không thấy cái ly là ngoại đạo chấp không (Đại Thừa Bát Nhã).

Thầy Thông Quán lại hỏi tiếp:

  • Bạch Thầy, các thiền sư ngồi thiền biết thân hay không biết thân? (84)

  • Thiền định có nhiều cấp độ nhập định, nên các trạng thái định cũng có rất nhiều. Thầy xin kể cho các sư đệ nghe thiền định được phân làm hai loại:

1- Loại nhập định còn biết thân gọi là Tâm Định.

2- Loại nhập định không biết thân gọi là Thân Định.

Tâm định gồm có những loại định như sau:

  1. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác

  2. Định Vô Lậu

  3. Định Niệm Hơi Thở

  4. Định Sáng Suốt

  5. Định Tư Cụ (Tứ Chánh Cần)

  6. Định Tứ Niệm Xứ

  7. Định Thân Hành Niệm

  8. Định Từ Tâm

  9. Định Bi Tâm

  10. Định Hỷ Tâm

  11. Định Xả Tâm

  12. Định Tứ Bất Hoại Tịnh

  13. Định Bất Động Tâm

  14. Định Vô tướng Tâm

  15. Định Diệt Tầm Giữ Tứ (85)

  16. Định Sơ Thiền

Thân định gồm có những loại định như sau:

  1. Định Nhị Thiền

  2. Định Tam Thiền

  3. Định Tứ Thiền

  4. Định Không Vô Biện Xứ Tưởng

  5. Định Thức Vô Biên Xứ Tưởng

  6. Định Vô Sở Hữu Xứ Tưởng

  7. Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

  8. Định Diệt Thọ Tưởng

Còn riêng các loại thiền định khác của pháp Yoga, của Mật Tông, của Minh Sát Tuệ, của Thiền Đông Độ, của kinh sách phát triển Đại Thừa, của pháp Vô Vi xuất hồn ông Tám, ông Tư, của Tiên đạo Lão Tử, Trang Tử v.v…​ đều thuộc thiền định tưởng, không được ghép vào thiền của Phật giáo, vì những loại thiền định này không ly dục ly ác pháp, không thực hiện được Tứ Thần Túc và Tam Minh, nó thuộc về thiền định của ngoại đạo.

Thầy Thông Quán lại hỏi tiếp:

  • Bạch Thầy, thiền sư khi không tiếp duyên, không khởi trí dụng, có thấy các pháp là huyễn hóa không?

  • Khi không (86) khởi trí dụng thì có pháp nào mà nói huyễn nói chơn?

Thầy Thông Quán lại thưa:

  • Bạch Thầy, từ lâu chúng con có những thắc mắc về Thầy, nay xin Thầy hoan hỷ giải bày cho chúng con hết mọi nghi ngờ. Bạch Thầy, lần trước con có nghe Thầy nói vấn đề tu có chim thú cúng dường, lại nghe Thầy xin Thầy viện chủ nhập Niết Bàn. Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng?

Thầy Thông Lạc thong thả bảo:

  • Trong kinh Bát Thành có dạy tám pháp độc nhất, người tu hành chỉ cần ôm một pháp tu tập cũng đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Tám pháp ấy gồm có:

  1. Từ tâm

  2. Bi tâm

  3. Hỷ tâm

  4. Xả Tâm

  5. Sơ thiền

  6. Nhị thiền

  7. Tam thiền

  8. Tứ thiền (87)

Người tu tập từ tâm, tâm luôn luôn lúc nào cũng biết yêu thương, chứ không biết ghét, biết giận hờn ai cả. Họ thực hiện đức hiếu sinh, không phải họ chỉ thương mọi người, mọi loài động vật mà còn thương tất cả cỏ cây, sông núi, không khí, nước uống v.v…​ Như ông Phú Lâu Na, Người đã thực hiện từ tâm đến rốt ráo hiện tiền, nên chứng quả A La Hán cũng do từ pháp từ tâm Tứ Vô Lượng.

Một hôm, ông Phú Lâu Na xin Phật đi giáo hóa ở một nước xa xôi. Đức Phật bảo:

  • Dân ở đó hung dữ lắm, họ sẽ chửi mắng con đó.

Ông trả lời:

  • Dân ở đó họ còn thương con, họ chưa lấy cây đánh con.

  • Họ sẽ lấy cây đánh con.

  • Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy cây đánh con, chứ chưa lấy dao giết con.

  • Họ sẽ lấy dao giết con.

  • Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy dao giết con, vì con còn mang thân này là còn khổ đau, mất thân này con vào Niết Bàn, không còn đau khổ nữa. (88)

  • Thôi! Con cứ đi, đi!

Người tu Từ Tâm như vậy, từ trường thiện phóng xuất nơi họ ở, do đó, tất cả chúng sanh đều sống bên họ không sợ hãi. Người tu hành có từ tâm như vậy, nên mới có những loài vượn hái trái cây cúng dường. Phật và những đạo sĩ tu khổ hạnh trong rừng thường xảy ra những trường hợp này.

Còn ở đây, khi huynh đệ muốn cho chim thú cúng dường thì chim thú không cúng dường. Chim thú cúng dường là do từ tâm. Có đúng như vậy không các huynh đệ.

Thầy xin lập lại câu hỏi thứ hai của thầy Thông Quán:

  • Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng?

  • Có lẽ lo tu thiền tri vọng nên sư đệ không học bài pháp Tứ Diệu Đế sao? Vậy Diệt Đế là gì? Diệt Đế không phải là Niết Bàn sao. Phật dạy: Người tu hành trước tiên phải giác ngộ chân lí rồi sau mới hộ trì và bảo vệ chân lí, nếu không ngộ được chân lí thì biết cái gì mà hộ trì, bảo vệ. Thiền Đông Độ không dạy sư đệ kiến tánh rồi khởi tu sao? (89)

Năm anh em Kiều Trần Như nghe xong bài pháp này liền chứng quả A La Hán. Sư đệ không nhớ, Thiền Tông dạy: “Kiến tánh Thành Phật”. Vậy Phật là gì? Không phải Niết Bàn sao?

Nói nhập Niết Bàn là nói danh từ, chứ từ khi kiến tánh thành Phật là đã nhập Niết Bàn chứ còn chỗ nào nữa. Cho nên, người tu hành chứng đạo thì thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn. Thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn, còn người tu chứng thân đã chết thì gọi là Vô Dư Niết Bàn.

Vậy mà sư đệ nói: Thầy còn thấy Niết Bàn nào để nhập chăng?

Tội nghiệp sư đệ quá, sư đệ đừng lấy những câu phá chấp của kinh sách Đại Thừa mà hiểu lầm, rằng còn thấy Niết Bàn là chưa biết Niết Bàn.

Sư đệ đưa câu hỏi này ra chứng tỏ sư đệ không có nghiên cứu kinh sách, chỉ đọc một vài cuốn kinh Đại Thừa, giống như người trì độn công phu, tu tập trong ngu si.

Nói chân lí tức là nói một sự thật, một sự thật thì người chưa tu cũng phải nhận ra, nếu người chưa tu không nhận ra được thì đó đâu phải là chân lí. Như Phật tánh đâu (90) phải là chân lí, người tu gần chết mà còn chưa kiến tánh được, huống là người chưa tu thì biết gì là Phật tánh. Cho nên, Phật tánh không phải là chân lí. Còn Diệt Đế là chân lí. Tại sao dám khẳng định Diệt Đế là chân lí?

  • Thứ nhất là kinh thường nhắc đến Bốn Chân Lí của Phật giáo.

  • Thứ hai là kinh đã xác định Diệt Đế là diệt hết lòng ham muốn.

  • Thứ ba là chỉ định trạng thái hết lòng ham muốn. Đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

  • Thứ tư là trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Bốn điều nêu trên đây nếu người nào chưa tu cũng nhận ra được, đó là một trạng thái thật sự của con người, chứ không phải là cảnh giới bên ngoài, là con người không ai là không nhận ra được. Chỉ có sư đệ Thông Quán hiểu lầm, tưởng Niết Bàn mà thầy Thông Lạc nói nhập là cảnh giới bên ngoài như cõi Cực Lạc hay cõi Thiên Đàng.

Nghe đến chỗ này, các huynh đệ đều cởi mở, vui vẻ. (91)

Sáng hôm sau, thầy Thông Lạc đã chào Sư phụ và từ giã huynh đệ ra về. Chúng tôi trân trọng xá Thầy, một đại sư huynh đã cho chúng tôi tấm gương tu hành lớn lao. Chúng tôi cũng nguyện theo tấm gương tinh tấn của Thầy, vững bước đi theo đường mà Sư phụ đã vạch lối, con đường thiền giáo đồng hành, mà trong đó việc tìm lại căn bản giáo lý của đức Phật là điều quan trọng.

HẾT (92)

image

PHẦN II - TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT

image

LỜI NÓI ĐẦU

image

“Trở Về Đạo Phật”là một tập sách mỏng, do bác sĩ Trí và Đức Tâm ghi lại từ một cuộn băng cassette, đã được ghi âm buổi tọa đàm của Trưởng lão Thích Thông Lạc với quý tu sĩ tăng, ni Đại Thừa, Thiền Tông và phật tử Thành phố Hồ Chí Minh, tại tu viện Chơn Như. (95)

“Trở Về Đạo Phật”là một lời khuyên chân thành, với tâm tha thiết, đầy lòng yêu thương của Trưởng lão Thích Thông Lạc với những tu sĩ tăng, ni và phật tử đang tu hành theo Phật giáo.

Chúng tôi thấy những lời khuyên quá thành thật này đối với mọi người có lợi ích rất lớn, nhất là cho những hàng tu sĩ tăng, ni và phật tử có quyết tâm hành trì để tìm cầu sự giải thoát ngay liền.

“Trở Về Đạo Phật”với lời nói nhẹ nhàng, so sánh cụ thể, làm sáng tỏ thiền định của Phật giáo Nguyên Thủy và thiền định của kinh sách phát triển Đại Thừa, khiến cho những ai có kinh nghiệm tu hành thì biết ngay mình đang tu tập những pháp môn của ngoại đạo, mà từ lâu (96) cứ ngỡ rằng mình tu hành theo chánh Phật giáo. Sự đau lòng nhất của chúng ta là bị kinh sách phát triển lừa đảo mà không biết. Cho nên, khi nghe được những lời khuyên dạy này, chúng ta như người mù được sáng mắt, như người đang nằm mộng choàng tỉnh dậy.

Nhờ đọc tập sách “Trở Về Đạo Phật”, chúng tôi thấy con đường Phật giáo mở bày một lộ trình thẳng tắp dẫn đến cứu cánh rõ ràng, cụ thể, chứ không còn mơ hồ, trừu tượng, ảo giác như các pháp môn của kinh sách phát triển.

Thấy sự ích lợi của những lời khuyên nhủ như vậy, nên chúng tôi xin phép Trưởng Lão cho in tập sách này, để mọi người cùng đọc, cùng được lợi ích như nhau mà không còn (97) sợ bị giáo pháp ngoại đạo lừa đảo nữa. (Trước kia, tập sách này được in chung trong Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ, tập 3)

Với tập sách mỏng này, chúng tôi ước nguyện cho mọi người khi được đọc, nó sẽ mang lại cho tu sĩ tăng, ni và quý phật tử một niềm vui an lạc, với tâm hồn thanh thản và vô sự.

Từ đây, đạo Phật chỉ còn có một con đường duy nhất, đó là con đường Giới, Định, Tuệ mà Trưởng lão Thích Thông Lạc đã khai quang con đường ấy cho chúng ta, và cho bao thế hệ ở ngày mai, khi đến với đạo Phật không còn ngỡ ngàng, lo lắng sai pháp như các thầy, tổ của chúng ta trước kia nữa.

Thay mặt mọi người, chúng tôi xin thành thật biết ơn bác sĩ Trí và Đức (98) Tâm, những người đã ghi chép lại lời dạy này của Trưởng lão Thích Thông Lạc. Nếu trong tập sách này có điều chi sơ sót, xin quý vị vui lòng góp ý và bỏ qua cho. Chân thành cảm ơn quý vị. Chúc quý vị may mắn, trên bước đường tu học sớm thành đạt viên mãn.

Kính ghi

Phật tử Tu Viện Chơn Như (99)

image

Trở về Đạo Phật

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! Quí vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những thì giờ quí báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về tu viện Chơn Như với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của chúng tôi, và cũng để tìm hiểu pháp môn tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào? Và kết quả ấy có lợi ích gì trong đời sống thiết thực của con người hay không? Sự giải thoát, kết quả mà chúng tôi đã tu tập có phải là sự giải thoát của đạo Phật hay không? (101)

Để trả lời những câu hỏi thắc mắc trên đây của quí vị, tức là chúng tôi kể lại sự tu hành của chúng tôi, và chính cũng là giải được mối nghi ngờ trong tâm của quí vị.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! Từ lâu quí vị đã hướng thân tâm của mình về Phật pháp, từng đi chùa lễ Phật, tụng kinh, bái sám; từng đi nghe thuyết giảng kinh sách; từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của đức Phật với một lòng chân thành. Nhưng quí vị rất đau lòng và nghi ngờ Phật pháp, vì tận mắt quí vị đã chứng kiến, mắt thấy, tai nghe, quí vị nghe các bậc chân tu mà quí vị đã từng gặp trong cuộc đời của mình. Các vị ấy là những bậc Thầy, Tổ của quí vị, đã từng hướng dẫn cho quí vị biết Phật pháp, biết tu học Phật pháp, đã từng chỉ dạy cho quí vị biết cách thức tu tập như: niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, làm các điều lành, và còn dạy cho quí vị biết thiền quán xả tâm, tham thiền nhập định theo Thiền Đông Độ, thiền Yoga v.v…​ Mỗi vị đều đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quí vị, để mong quí vị đạt được sự giải thoát. Nhưng khi ra đi vào cõi Niết Bàn, các vị ấy không giải thoát, phải chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi thở chẳng (102) ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.

Suốt cuộc đời quí vị phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của những Thầy, Tổ mình, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn một sự đau khổ, thì làm sao quí vị không nghi ngờ Phật pháp được?

Ngược lại, những gì quí vị đã được học trong kinh điển nói về các Tổ và các Thiền sư, tu như thế nào mà khi chết được tự tại, làm chủ sanh tử luân hồi, mà hiện giờ thì không thấy có ai tu tập được. Hay đây chỉ là huyền thoại, để lừa bịp người sau chăng? (103)

--o0o--

Giới, Định, Tuệ

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề chính của buổi nói chuyện hôm nay.

Để trả lời câu hỏi thứ nhất: Pháp môn tu hành của chúng tôi là Pháp môn nào?

Xin trả lời, chúng tôi tu hành theo pháp môn Giới, Định, Tuệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật pháp, chúng tôi đã từng học (104) qua những lời di chúc của đức Phật. Lời di chúc là lời dạy sau cùng của đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn. Lời di chúc thứ nhất, đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết Bàn”. Lời dạy này chúng tôi ghi khắc mãi trong tim, không bao giờ quên và cũng không bao giờ quên ông Thầy của chúng tôi là giới luật và giáo pháp, là chỗ nương tựa vững chắc cho sự tu hành của chúng tôi ngày mai.

Lời di chúc thứ hai, đức Phật dạy: “Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật mất”. Nhớ lời dạy này, hình ảnh giới luật là hình ảnh của đức Phật, nên chúng tôi nghiêm khắc mình trong giới luật, không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Chúng tôi lấy đó làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.

Lời di chúc thứ ba: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, các pháp lành đều nhờ đó mà sanh, các Tỳ kheo hãy nhớ lấy mà tu tập”.

Lời di chúc thứ tư, đó là lời di chúc không lời, khi nhập Niết Bàn, đức Phật nhập từ Sơ (105) Thiền đến Tứ Thiền, nhập đi nhập lại tới ba lần rồi mới chịu nhập Niết Bàn.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, ở đây đức Phật muốn nhắc nhở người sau phải ráng dụng công tu tập thiền định này, đừng bao giờ tu tập những loại thiền định nào khác. Vì trong cuộc sống hiện giờ của chúng ta, trong thời đức Phật đã qua và cũng như trong tương lai nhiều thế hệ ở ngày mai vậy, sẽ có biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thứ thiền nào đưa chúng ta đến sự làm chủ và giải thoát được thân tâm, nhất là chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên đức Phật đã xác định rõ, chỉ có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ báo thân và chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi. Vậy xin quí vị phật tử hãy lưu ý chỗ này. Cho nên khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong, đó là Ngài di chúc cho chúng ta phải nhập Thiền Thứ Tư mới xả bỏ báo thân, và mới nhập vào Niết Bàn.

Thể theo những lời di chúc này, chúng tôi tu tập ngày đêm không biết mệt mỏi, ốm đau quyết không bỏ giờ tu, suốt sáu tháng rưỡi trời trong thất, chịu từng đắng cay gian khổ để chiến đấu với tạp khí thói quen, tật xấu; với nghiệp lực quá nặng nề; với tâm tham ái, (106) dục vọng dẫy đầy. Nhiều khi chúng tôi tưởng chừng không thắng nổi. Nhưng với sức bền lòng như sắt đá; với tinh thần kiên cường, gan dạ, dũng cảm giữ thân tâm sừng sững như núi đá; với nghị lực, dũng cảm, quyết liệt xông tới như thác đổ, chúng tôi đã chiến thắng giặc sinh tử, làm chủ thân tâm của chính mình, và chứng nghiệm được sự giải thoát của đạo Phật một cách hùng hồn, anh dũng. (107)

--o0o--

Mục đích giải thoát

image

Để trả lời câu hỏi thứ hai: Sự tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! Giới luật là pháp môn tu tập để ly dục ly ác pháp, nên giải thoát được đời sống của con người ra khỏi mọi ham muốn và mọi sân hận, phiền não khổ đau. Chúng tôi đã chứng nghiệm được điều này rất thực tế và cụ thể. Ví dụ, trước kia chúng tôi ăn ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời gì hết, cơ thể thì rất khỏe mạnh, (108) ít hay bệnh tật, suốt ngày không lo ăn uống gì cả, tâm ít vọng tưởng, ít ngủ. Ăn ngày một bữa, chúng tôi tìm thấy giải thoát được hai bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ, tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quí vị không thể nào phủ nhận được. Cũng từ trong sự tu giới luật này, chúng tôi đã tìm được giải thoát nhiều điều trong đời sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn, không cho phép chúng tôi kể dông dài, làm mất thì giờ của quý vị vô ích.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, thiền định của đạo Phật, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát, tự tại sanh tử, làm chủ sự sống chết của thân tâm. Chúng tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể.

Ví dụ, chúng tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, chúng tôi cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, an lạc. Đó là một bằng chứng rất cụ thể.

Như vậy, về đời sống, sự tu hành của chúng tôi có giới luật làm khuôn mẫu mực cho cuộc sống, nên tâm lúc nào cũng ly dục, (109) ly ác pháp, vì thế thân tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Còn về phần chết, chúng tôi đã có Tứ Thần Túc nên làm chủ được hơi thở một cách dễ dàng. Vì thế làm chủ sự chết không còn khó khăn, nên chúng tôi muốn chết hồi nào cũng dễ dàng chết, và muốn sống hồi nào cũng dễ dàng sống như trở bàn tay; như lấy đồ trong túi áo. Do tu tập đúng pháp của đức Phật, chúng tôi đã làm chủ sự sống chết theo ý muốn của mình. Quí vị có tin không? Nếu không tin thì quí vị cứ xét qua đời sống giới luật đức hạnh của chúng tôi thì rõ. Nhưng riêng chúng tôi tu hành được giải thoát, làm chủ sự sống chết là mãn nguyện, còn tin hay không tin đó là quyền của quý vị.

Sau khi có đủ năng lực làm chủ thân tâm, chúng tôi dùng năng lực ấy quan sát không gian và thời gian, thọ hưởng an lạc suốt trong tuần lễ chứng đạo. Vì thế, trong thời gian ấy, chúng tôi thực hiện Tam Minh, từ Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh đến Lậu Tận Minh. Lậu Tận Minh là trí tuệ cuối cùng trong sự tu tập của chúng tôi. Đến đây chúng tôi đã có đủ: GIỚI, ĐỊNH, TUỆ theo con đường tu tập mà đức Phật đã vạch ra chỉ dạy từ ngàn xưa. (110)

Sự lợi ích của Phật Giáo

image

Để trả lời câu hỏi thứ ba, là kết quả ấy có ích lợi, thiết thực giải thoát cho đời người hay không?

Đạo Phật là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, nó là đạo đức của loài người trên hành tinh này, nhờ nó mà con người mới thoát ra khỏi bản tính của loài động vật. Vì thế, có lý đâu mà không lợi ích, thiết thực giải thoát cho mọi người. Tu tập ít có lợi ích ít; tu tập nhiều có lợi ích nhiều. Vì nó là đạo (111) đức nhân bản của loài người; nó là khuôn vàng, thước ngọc đo sự sống của con người, mới xác định con người thật là con người, hay là con người còn mang bản chất của loài cầm thú. Cho nên, làm người cần phải tu học, không thể phủ nhận và từ chối đạo đức này được. (112)

--o0o--

Phạm hạnh

image

Để trả lời câu hỏi thứ tư: Sự giải thoát đó có phải của đạo Phật hay không?

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! quí vị hãy vui lòng đọc lại các kinh điển nguyên thủy của đạo Phật, rồi nghiệm lại đời sống của đức Phật và đời sống của chúng tôi. (113)

Đời sống của đức Phật:

1- Ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời.

2- Ngủ ít, thường đi kinh hành suốt đêm. (Đi trong chánh niệm tỉnh giác; đi trong sự quán thân trên thân của Tứ Niệm Xứ để nhiếp phục tham ưu)

3- Không có của cải, châu báu, ngọc ngà, tiền bạc và cũng không có chùa to, Phật lớn sang đẹp.

4- Sống lấy gốc cây làm giường nằm, chết dưới gốc cây (Sa la song thọ).

Hiện giờ chúng tôi cũng sống như vậy: Không ăn uống lặt vặt phi thời; nhà ở bằng cây tầm vông, vách bằng liếp đan; và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và cũng chết dưới gốc cây như đức Phật; ngủ ít, đi kinh hành nhiều.

Đó là lối sống của đức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Cho nên quí vị không thể nào phủ nhận rằng chúng tôi sống và tu sai pháp Phật được.

Phần làm chủ thân tâm thứ hai cũng rất cụ thể. Đức Phật tuyên bố trước mọi người còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập Niết Bàn. Điều (114) này đức Phật đã giữ đúng lời hứa. Chúng tôi đã nhập được Tứ Thiền, phá được thọ, tịnh chỉ được hơi thở, cho nên chúng tôi cũng làm được điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân. Nhờ tu tập đạt được kết quả như vậy, nên chúng tôi rất mãn nguyện với sự tu tập của mình.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử! Chúng tôi có sống và làm khác đức Phật hay không? Ở đây quí vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được. Xưa đức Phật đã làm được điều gì thì bây giờ chúng tôi cũng làm được như vậy. Tuy rằng chúng tôi không giảng kinh, thuyết pháp như các thầy khác, nhưng chúng tôi thân giáo bằng hành động thân, khẩu, ý; bằng sự sống của chúng tôi để hướng dẫn người qua kinh nghiệm tu hành bản thân của mình, hơn là ngôn ngữ. Vì sự hướng dẫn này, theo chúng tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn là thuyết pháp bằng lời nói suông.

Trên đường tu theo đạo Phật, chúng tôi tu hành như vậy, không còn sợ sai trái với đạo Phật, và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa đạo Phật.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, khi nghe chúng tôi nói đến đây, quí vị nên (115) nghỉ xả hơi một chút, để ngồi suy ngẫm lại những gì chúng tôi đã nói ra, những kết quả đời sống phạm hạnh của chúng tôi với đời sống của đức Phật có đúng hay sai. Sai thì xin quý vị cho biết thêm những ý kiến, để chúng tôi chứng minh những lời Phật dạy, khiến cho quý vị không còn nghi ngờ nữa. (116)

--o0o--

Giới luật là một vị thầy được Đức Phật di chúc

image

Sau thời gian nghỉ xả hơi, bây giờ chúng ta lại tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang lúc nãy…​

Sau khi được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quí vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng chờ đợi đến ngày ra thất của chúng tôi. Nay quí vị đã được giải bày thông suốt. Nhưng chúng tôi biết chắc quí vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là con đường Thiền Đông Độ mà Thầy chúng tôi (HT.TT) đã dày công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm nay, kể từ năm (117) 1970 cho đến nay, quá trình thời gian rất dài. Nhưng nhìn lại trong đó, không thấy có kết quả gì thì mọi người cũng phải nghi ngờ. Thời gian là một xác chứng cụ thể của con đường thiền đó, mà không chứng minh được. Do đó quí vị phải có một mối nghi trong tâm là đúng, nhưng còn e ngại chưa muốn hỏi chúng tôi. Chúng tôi hứa sẽ giải nghi cho quí vị, nếu có đủ thì giờ, bằng không chúng ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ, chúng ta trở lại vấn đề.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, nãy giờ quí vị đã suy ngẫm những gì chúng tôi đã nói. Chúng tôi xin nhắc lại, quí vị đã biết ai là Thầy của quí vị, người đó sẽ dẫn dắt quí vị trên đường tu theo đạo Phật mà không hề sợ lạc lối. Chúng tôi xin hỏi quí vị một lần nữa: Thầy của quí vị là ai? Quí vị cứ trả lời xem, đừng dựa vào huyền sử 33 vị Tổ sư thiền Đông Độ và Trung Hoa, vì đó là sự dựng lên những trang sử không có thật của người sau.

Kính thưa quí vị, nãy giờ quí vị không trả lời là vì quí vị còn dè dặt, để chúng tôi trả lời thay cho quí vị.

Kính thưa quí vị, căn cứ theo kinh sách Nguyên Thủy, thì Thầy của quí vị không phải (118) là chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương, bằng thịt như quí vị. Chúng tôi và 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa cũng không được đức Phật chỉ định làm người thừa kế, dẫn dắt quí vị trên đường tu học theo đạo Phật. Cho nên, quí vị đừng nương tựa theo chúng tôi, hoặc theo các vị Tổ sư thiền để mà tu hành. Nhất là nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quí vị:

1- Chúng tôi không phải là người thừa kế của đạo Phật, vì thế chúng tôi không đủ niềm tin đối với quí vị. Khi quí vị nghe người ta nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành không đúng đạo Phật, tu theo ngoại đạo, thì chừng đó quí vị còn giữ được niềm tin đối với chúng tôi nữa chăng?

2- Thời điểm hiện giờ Phật giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật giáo đắm danh, tham lợi, lòng ganh tị nhỏ nhen, ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tỵ hiềm cao độ.

3- Pháp môn tu hành của đạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo, khó phân biệt tà chánh. (119)

4- Các bậc Tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi vì sợ Thầy, Tổ buồn phiền.

5- Lòng người còn tham danh, đắm lợi, tham mê sắc dục, không muốn rời xa 5 thứ dục lạc của thế gian (danh, lợi, sắc, thực, thùy).

6- Đời người còn lạc hậu, nặng lòng mê tín, thường cầu khẩn, bái lạy, tụng kinh, niệm chú, lấy đức Phật làm chỗ tha lực nương tựa cứu khổ, cứu nạn, chứ không tự lực cứu mình, khiến đạo Phật thành đạo Thần.

7- Ham mê thần thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ, vị lai.

8- Lòng người bây giờ thiếu thành thật, thường dối Thầy, dối Tổ, dối mình và dối người khác.

9- Tham danh học thức cao, chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.

10- Những bậc chân tu không xu hướng chính trị bên này, bên kia, thì bị cô lập mọi cách.

Do 10 điều trên đây, quí vị không nên theo chúng tôi tu hành, vì theo tu hành rất khó khăn cho quí vị và chúng tôi. Vả lại, theo (120) chúng tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để lại một trang sử chia rẽ Phật giáo không tốt đẹp. Xưa, Huệ Khả bị giết, lục tổ Huệ Năng bị hành thích. Gần đây, tổ sư Minh Đăng Quang bị bắt cóc mất tích, ông Đạo nằm Nguyễn Văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, người Thầy của quí vị không phải là chúng tôi, mà chính là Giới Luật. Giới luật là người thừa kế của đức Phật, đã được đức Phật chỉ định trước giờ nhập Niết bàn. Chính chúng tôi tu học cũng từ ông thầy giới luật mà có được như ngày hôm nay. Vậy, quí vị hãy trở về nương tựa nơi ông Thầy giới luật của quí vị đi. Đừng nương tựa vào ai hết, dù bất cứ ông Thầy nào. Họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một chút kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng, mà cuộc sống tu hành của họ chẳng có ra gì, chỉ có miệng lưỡi. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm kinh mất gốc. (121)

--o0o--

Tăng, ni xem nhẹ Giới Luật

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, vả lại kinh sách còn do tưởng giải của người sau, thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ rồi cho rằng đúng. Do đó, họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của đạo Phật ở đời sau. Họ không dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né, viện cớ này, cớ kia, hoặc chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh của đạo Phật. (122)

Tóm lại, chẳng nghe ông thầy giới luật nên tình trạng Phật giáo mới ra nông nỗi này:

Họ dám bẻ vụn giới luật, biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần. Hiện giờ chùa là nơi cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm, bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày giờ tốt, xấu, dựng vợ, gả chồng…​ Vì thế, chùa là nơi sinh hoạt mê tín dị đoan;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành nghĩa địa, nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân, để phật tử tới lui cúng bái và giỗ chạp làm tuần, làm tự, cúng vong, tiễn linh lúc nào cũng ồn náo, biến thành nơi phục vụ mê tín cho những người phật tử còn lạc hậu;

Họ dám bẻ hỏng giới luật và giáo pháp của Phật, biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của phật tử, của khách hành hương tham quan du ngoạn, bắt tăng, ni phục vụ cơm nước để được lòng phật tử, để còn được cúng dường;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao, làm đủ mọi thứ nghề nghiệp, biến tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng v.v…​ còn (123) đâu có những thì giờ để tu hành, thật là phí uổng một đời người;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt tăng, ni phục vụ, còn gì thể thống đạo đức của người tu. Họ chỉ biết có tiền, có lợi, mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân, để có miếng cơm, manh áo hằng ngày không đúng tư cách của người tu sĩ. Họ lấy gương Bách Trượng, một ngày không làm một ngày không ăn, sách động tu sĩ lao động để xây dựng chùa to, Phật lớn như cung đình, lao tác quần quật như con ong, và như vậy còn gì là đời tu của tu sĩ;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành cơ quan từ thiện xã hội, nay kêu đoàn phật tử này quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn phật tử khác quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ kia. Họ đâu biết rằng, bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật giáo mới còn, chứ đâu phải làm những việc từ thiện này. Làm việc từ thiện là của người cư sĩ. Thời đức Phật còn tại thế, ông Cấp Cô Độc là người cư sĩ làm những việc từ (124) thiện này nên mới có tên là Cấp Cô Độc, còn bây giờ tăng, ni là Cấp Cô Độc, là nhà từ thiện, họ không còn là những bậc Thánh tăng và Thánh ni nữa;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, biến chùa thành Tuệ Tĩnh đường, trạm y tế, bệnh viện, trạm xá, trường học, biến tu sĩ thành thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược sĩ, y tá, giáo viên…​ khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm, thanh tịnh;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, chuyên lo đào đất làm hồ, xây dựng chùa to tháp lớn, biến tăng, ni thành lao công, quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, đi quyên góp tiền phật tử xây chùa to, tháp lớn như đền đài, cung điện các vua chúa, và tạo cây cảnh, vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ phật tử và khách tham quan, biến tu sĩ trở thành những lao công quét dọn công viên và chăm sóc cây cảnh. Những việc làm này ngược lại đạo giải thoát của Phật;

Họ dám bẻ hỏng giới luật, đi khất thực không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin đô la, làm những việc đồi bại như những người (125) ăn mày khất cái. Những hình ảnh này thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay…​

Những điều quí vị đã làm ở trên đều phạm vào giới luật của đức Phật. Vì danh, vì lợi sang đẹp mà quí vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, những việc làm này không phải là tu sĩ Phật giáo làm. Nếu trong kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau, họ bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác mà thêm vào.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, những gì quí Thầy đã làm và chúng tôi đã nói ở trên không phải là những gì làm sai đối với thế gian, những người thế tục, nhưng chỉ là sai đối với đạo Phật, lại đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên chúng tôi nói Phật giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác là vậy.

Phật giáo chủ trương đường lối buông xả, mục đích của đạo Phật là để tìm giải thoát cho mọi cá nhân ra khỏi sự đau khổ, sanh, lão, bệnh, tử của đời người. Cá nhân được thoát khổ thì xã hội mới an vui. Cá nhân còn đau khổ thì quí vị có giải quyết từ thiện bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ, và còn đau khổ hơn thế nữa. Tuy rằng trước mắt, tạm thời quí vị an ủi họ một chút mà thôi, vì (126) bản chất dục vọng, tham lam, ham muốn, ganh tị hơn thua, gian dối xảo trá, giết sinh linh, ăn thịt chúng sinh của loài người ngàn đời không bao giờ từ bỏ được. Do nguyên nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn, mánh khóe gian xảo. Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao, súng đạn. Giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống còn của mình, do đó thế giới mới có chiến tranh liên miên, không nước này thì cũng nước khác.

Vì thế, đạo Phật nhắm vào giải quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu. Cá nhân hay tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có danh cầu từ thiện thì không phải là từ thiện. Làm từ thiện để được tiếng thiện thì còn nghĩa lý gì là từ thiện. Làm từ thiện là do lòng yêu thương trước cảnh bất hạnh của những người khác.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, vì việc làm từ thiện mà cá nhân và gia đình quí vị toàn là gặp đau khổ, không thiện chút nào.

Kính thưa quí vị, những điều chúng tôi nói ở trên, tăng, ni hay là những người từng học (127) giới luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này. Nhưng có điều hiện giờ, sự tu hành của họ không có chất liệu giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết suông, nên họ phải chuyển qua làm những việc từ thiện này để tiêu thụ cái nợ đàn na thí chủ. Nếu không thì làm sao nuốt trôi được.

Giới luật của Phật còn đó, nó là bậc Thầy của quí vị, nó thường ngăn cấm quí vị làm những điều sai, cớ sao quí vị không nương tựa vào ông Thầy của mình, để sửa những điều sai, để mình trở thành những người tốt, có đạo đức, biết thương yêu sự sống của muôn loài. Ngược lại, không nương vào giới luật mà lại nương tựa vào những Thần, Thánh, Quỉ, Ma, hoặc những đấng sáng tạo ảo giác, để cho Phật giáo bây giờ mới ra nông nỗi này!

Nếu quí vị tu hành đúng giới luật, nghiêm khắc mình trong giới luật, thì đó chính là con đường của đạo Phật, con đường giải thoát thật sự. Hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã chấn hưng Phật giáo, chứ đâu phải cất chùa to tháp lớn mới gọi là chấn hưng. Đạo Phật không cần những thứ này, chỉ cần những hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị làm sáng tỏ Phật pháp, chứ đâu cần có tăng, ni cho nhiều mà (128) giới luật chẳng ra gì. Hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một ngàn lần quí vị làm công tác từ thiện xã hội.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, đến đây chúng tôi xin quí vị nghỉ xả hơi một chút, để suy ngẫm lại những điều chúng tôi đã nói. (129)

--o0o--

Xả bỏ Danh lợi

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, bây giờ chúng ta nên trở lại vấn đề. Sau khi được nghe chúng tôi kể lại sự tu hành và chỉ định ông Thầy của quí vị, quí vị phải cẩn thận nghiên cứu kỹ, pháp môn nào tu được, pháp môn nào không tu được, pháp môn nào của chính đức Phật, còn pháp môn nào không phải của đức Phật, và ai là ông Thầy của quí vị. Do sự cẩn thận suy xét, chúng tôi tin chắc rằng quí vị sẽ hướng về chúng tôi. Nhưng (130) kính thưa quí vị, chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có chỗ ăn, chỗ ở cho quí vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người khác.

Khi nghe chúng tôi nói đến đây, quí vị rất lấy làm ngạc nhiên có phải vậy không? Tuy quí vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng rằng: Tu viện Chơn Như trước mắt đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa, thì bảo sao chúng tôi tin được?

Xin thưa với quí vị phật tử, từ những khu đất rộng rãi này đến những ngôi nhà chư tăng, ni ở, cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền đường, Tổ đường, phòng vệ sinh, phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều của các cư sĩ như: Cô Út Diệu Quang ở đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng Minh Tâm, cô Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Mười, Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ Ngọc và Cháu Tùng v.v…​ Còn những cái ăn cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa. Từng thùng gạo, từng ổ bánh mì, từng chai nước tương, từng hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà bông, bột ngọt, vải xồ, y áo và thuốc thang trị bệnh. Cho nên, chúng tôi đâu có gì để nuôi quí vị.

Xưa đức Thế Tôn không có nuôi một vị (131) tỳ kheo nào hết. Các vị muốn tu theo đạo Phật phải tự đi xin mà ăn. Chúng tôi bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Chúng tôi đâu dám làm phiền những vị cư sĩ này, vì kinh tế gia đình của họ có mức độ.

Kính thưa quí vị, chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền cất chùa, hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình. Vì đức Phật và giới luật không có dạy chúng tôi làm điều đó. Nếu quí vị phật tử có nghĩ đến chúng tôi là những kẻ tu hành chơn chánh, thì cúng dường cho chúng tôi được no lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì chúng tôi chịu đói lòng và rách nát. Dù sống trong cảnh trạng như vậy, chúng tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở, xin xỏ cùng ai. Còn ngược lại, quí vị cúng dường mà không có tâm thành thì chúng tôi thà chịu đói, chứ không thọ dụng. Cúng dường những vật dụng không đúng chánh pháp thì chúng tôi cũng chẳng dùng.

Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo nghiêm khắc mình trong giới luật, không thể dùng những lời hoa mỹ đẹp đẽ, giả dối đạo đức để lừa gạt người, làm danh, làm lợi cho mình. (132) Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không dám dùng những điều mê tín, dị đoan, bùa linh, chú thuật giỏi, nói chuyện quá khứ, vị lai như coi bói, xem tướng, coi sao, giải hạn để gạt người bằng cách vô lương tâm. Gây tạo sự mê tín cho muôn người là điều bất chánh, phi đạo đức. Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, không thể tổ chức hành hương đi chỗ này, chỗ kia, hoặc đi mười chùa, hai mươi chùa, để khéo léo móc túi tiền của phật tử ham vui thích đi.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, vì thế chúng tôi không có chùa, không có cơm để ban cho quí vị ăn, không có áo để cho quí vị mặc. Chúng tôi là những người giải thoát hoàn toàn, không có gì cả, ngoài cái bát để ăn cơm hàng ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân. Nếu quí vị muốn tu theo chúng tôi, thì chỉ khi nào có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường, chứ quí vị không được kêu gọi họ. Khi nào quí vị có chỗ ăn, chỗ ở, thì quí vị thỉnh mời chúng tôi về đó. Chúng tôi sẽ cho người hướng dẫn quí vị tu hành. Khi quí vị tu xong thì cũng là lúc chúng tôi sẽ liền rời khỏi nơi đó và ẩn mình trong hang đá, gốc cây. Chúng tôi là những người đã sống buông xả hết, vì thế chúng tôi được tự tại giải thoát, không còn vướng bận (133) chuyện trần ai. Khi đủ duyên, chúng tôi hướng dẫn quí vị, thiếu duyên, chúng tôi ẩn mình trong núi hoặc nơi thanh vắng ít người, quí vị khó lòng mà tìm. Sau ngày ra thất, quí vị có về Chơn Như nhưng quí vị cũng khó mà gặp lại chúng tôi.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, nếu quí vị muốn học kinh nguyên thủy thì quí vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở thiền viện Vạn Hạnh thành phố H.C.M, nếu quí vị muốn tu thiền Đông Độ thì quí vị hãy đến Hoà thượng Thích Thanh Từ ở thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, nếu quí vị muốn tu theo Tịnh Độ thì quí vị hãy đến Hoà thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Đức Thủ Đức, nếu quí vị muốn tu theo Mật Tông thì quí vị hãy đến Hòa thượng Thích Tịch Chiếu ở Bình Dương, nếu quí vị muốn tu theo thiền Đốn Ngộ thì quí vị hãy đến Hòa thượng Bửu Thắng ở Gò Công, nếu quí vị muốn tu theo thiền Công Án thì quí vị hãy đến Hòa thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân, Chợ Lớn thành phố H.C.M. Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quí vị đúng với sở nguyện của mình.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, tại sao Tu viện Chơn Như không đề Thiền viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba pháp môn Giới, Định, Tuệ (134)nên không thể nào đề Thiền viện được, vì thế chúng tôi dùng chữ Tu viện mới đúng nghĩa của ba pháp môn này. Ngày xưa, đức Phật không tự xưng mình là Thiền sư, mà chỉ xưng mình là bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và nam nữ cư sĩ phật tử, một sự vô ý hay hữu ý mà người ta chạy theo xu hướng Thiền Tông rầm rộ, rồi tự đặt tên chùa là Thiền viện này, Thiền viện nọ, để thu hút lòng hiếu tu thiền của người phật tử. Chúng tôi tu theo đạo Phật, không bị chạy theo mọi xu hướng của thời đại và mọi phong trào của quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng và làm cái gì sai, để không lầm lỗi, để không bị ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người. Vì vậy tên Tu Viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng, không bị ảnh hưởng của Thầy, Tổ. Chùa xây cất bằng tầm vông liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ, không quên. (135)

Chúng tôi không phải Phật, Bồ tát, A la hán

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, hôm nay, khi được nghe chúng tôi kể lại sự tu hành, xin quí vị đừng nghĩ rằng chúng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán. Chúng tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả. Chỉ hằng ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày chúng tôi làm chủ được nó nên không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán. Vì chúng tôi thấy mình cũng bằng xương, bằng thịt như chính quí vị vậy, cũng cười, cũng (136) nói vui vẻ như quí vị. Vì thế, chúng tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán. Chúng tôi chỉ là con người như bao nhiêu người khác, nhưng nhờ tu tập làm chủ thân tâm, chúng tôi trở thành con người biết cách làm chủ mình, nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô ác, miệng không nói lời hung dữ, gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng bậy.

Chúng tôi cũng chẳng phải là Thánh đức, Hiền nhân, Siêu nhân. Chúng tôi là con người bình thường như bao con người khác. Nhưng có điều, chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi không bao giờ làm khổ mình, khổ người, và cũng biết chắc rằng chúng tôi chẳng có thần thông phép tắc gì cả. Chúng tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió, và cũng chẳng biết chuyện quá khứ, vị lai của ai. Chúng tôi chỉ biết đủ, và không cầu mong gì hết. Cho nên, quí vị đừng đảnh lễ chúng tôi. Chúng tôi không phải là Thầy của quí vị, và cũng không phải vị tổ sư nào cả, chúng tôi cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa. Chúng tôi cũng bình đẳng và bình thường như quí vị. Chúng tôi là bạn lành của quí vị, khi quí vị muốn. (137)

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý quí vị, chúng tôi là bạn lành của quí vị. Vậy, từ nay về sau, quí vị đừng đảnh lễ chúng tôi. Nếu quí vị đảnh lễ chúng tôi là quí vị đã làm cách xa chúng tôi với quí vị. Quí vị đã biến chúng tôi thành ông Thần, ông Thánh, ông Vua để quí vị lạy, chứ không phải quí vị theo chúng tôi để tu hành. Đạo Phật là một tôn giáo không có giai cấp, thế mà quí vị biến chúng tôi thành giai cấp bề trên, để cho quí vị không bao giờ dám mở miệng khuyên răn, khi chúng tôi làm những điều sai với đạo Phật. Nhiều khi quí vị còn a dua theo chúng tôi, để bây giờ quí vị chứng kiến sự tệ hại của Phật giáo đến tận cùng.

Kính thưa quí vị, chúng tôi xin quí vị mỗi lần gặp nhau đều chấp tay lên xá nhau, là đủ lắm rồi. Vì đôi bàn tay của quí vị chấp lại tượng trưng cho búp sen. Sen là một loài thảo mộc, mọc dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn, mà còn toả hương thơm ngát. Cũng giống như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược, mà luôn luôn lúc nào cũng giữ thân tâm trong sạch như hoa sen kia vậy. Chúng ta chấp tay lại là tượng trưng cho hoa sen, đó là nói lên được lòng trong sạch, thanh khiết của chúng (138) ta kính cẩn, chân thành chào nhau, thì trên đời này không có gì quí bằng.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, các bậc tôn túc, thầy, tổ của chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi vua chúa phong kiến quá nặng, nên cuộc sống của các Ngài đều tỏa mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm bình đẳng của con người mất đi (dân lạy quan, quan lạy vua), và tình cảm của chúng ta bị xa cách vì giai cấp quân thần.

Thưa quí vị, những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ, đừng để phong tục tập quán của con người đồng hóa Phật giáo, mà người ta coi rẻ và khinh thường đạo Phật. (139)

--o0o--

Tổng hợp các pháp theo kiến giải

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ chúng ta dừng câu chuyện tại đây, để trả lời bức thư của một người phật tử, gửi đến hỏi chúng tôi cách thức tu hành của vị này có đúng hay không. Chúng tôi xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.

Trong thư, phật tử đã nêu năm pháp môn của kinh sách phát triển, gồm có:

1 - Quán tâm theo kiểu Đại thừa

2 - Mật Tông thần chú (140)

3 - Tịnh Độ

4 - Giới Luật

5 - Hơi thở

Phật tử đã tổng hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy trước mắt phật tử có một lợi nhỏ, nhưng tu lâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần nhiều nhập vào định tưởng. Cách thức mà phật tử đã trình trong thơ, chúng tôi nghiệm xét thấy:

1 - Quán tâm chẳng ra quán tâm

2 - Mật Tông chẳng ra Mật Tông

3 - Tịnh Độ chẳng ra Tịnh Độ

4 - Giới Luật chẳng ra Giới Luật

5 - Hơi thở chẳng ra hơi thở

Trong thư, phật tử còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này:

1- Lúc nào con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc, không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang vô tư lự như trẻ con.

2- Trạng thái thiền định của con (141) cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn, hôn trầm. Con định tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm Phật của con chỉ còn mong manh, nhu nhuyễn như một sợi chỉ. Con chìm đắm trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc đó, con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con chỉ để cho hơi thở ra vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ dần, chứ con không tác ý.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, Chúng tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để không mất thì giờ. Theo lối tu tập của vị phật tử này, không có kinh nghiệm chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của Phật giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Độ, thuộc Phật giáo cổ Sơn Môn, Lục Hòa Tăng, theo nghi thức tụng niệm của họ.

Xin thưa cùng quí vị, người phật tử này đang đi tìm dục lạc mới, hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ, trong các pháp môn thuộc hệ thống kinh sách phát triển, hơn là tìm tu giải thoát. Đó là một pháp môn tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật của quốc sư Ngọc Lâm trong thời vua Nhà Thanh Trung Hoa. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa: “Người (142) phật tử này đang đi tìm dục lạc mới, hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ, trong các pháp môn tổng hợp”. Tu như vậy không phải là người đi tìm sự giải thoát của đạo Phật. Đây cũng là một thứ bệnh tu hành của thời đại, cầu mong tìm hỷ lạc dễ chịu để trốn khổ trong cuộc sống, hay đi tìm một thứ cao siêu vượt bực khác của con người.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, trong những ngày nhập thất, chúng tôi đã được biết có một số tăng, ni và phật tử đều thuộc giới có học thức, thế mà lại tu theo pháp môn của ngoại đạo. Những pháp môn này mạo danh là của đạo Phật. Họ thường sống ẩn dật trong núi non, luyện tập bùa chú, thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái, quỉ, Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời…​ Đối với phật tử, những tu sĩ này thường phô trương tiên đoán chuyện quá khứ, vị lai của mọi người, thường làm thầy thuốc nam, thuốc bắc, hoặc bùa chú, hoặc truyền điển linh luân xa để trị bệnh, khiến cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn. Họ nói chuyện toàn là (143) khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật, và làm những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê, thích thú và phục lăn họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế gian vậy. Đó là những hành động dối gạt, bịp người, làm những điều sai trái phạm vào giới luật của Phật.

Xưa, đức Phật thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều kỳ lạ, vì đức Phật cho những thần thông biến hóa và biết chuyện quá khứ và vị lai là những trò huyễn hóa lừa đảo người. Những tu sĩ này đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, và như vậy là xa lìa mục đích tu hành chân chánh của đạo Phật, khiến cho hàng phật tử lòng dạ hoang mang, chẳng biết Phật pháp như thế nào đúng và như thế nào sai. Giống như người đứng trước ngã ba đường, chẳng biết đi ngõ nào.

Hình ảnh Tế Công Phật sống, tức là Tế Điên hòa thượng và Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những hình ảnh tu sĩ ma quái, mượn danh nghĩa Phật giáo luyện thần thông trị bệnh, làm những điều mê tín, dị đoan, “cứu thế độ dân”. Đó là những hành động mê (144) hoặc chúng sanh; đó là những hành động phá hoại giới luật, đức hạnh giải thoát và những oai nghi tế hạnh của đạo Phật. Xưa, đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, các Thầy hãy giữ gìn Giới Luật của ta nghiêm túc thì hàng phật tử sẽ kính mộ các Thầy, thường quì xuống trải tóc dài trên đường cho quí Thầy đi”.

Đối với những hạng tu sĩ ma quái như Tế Điên Tăng và Phật sống Cựu Kim Sơn, hiện giờ có người vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người này. Họ đâu biết rằng sự sống chết đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một Tế Điên Phật sống nào mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công cũng chẳng cứu họ được.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, đạo Phật là đạo làm chủ thân tâm, chứ không phải là đạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống, hoặc đi tìm thần thông phép lạ. Hầu hết quí phật tử đến chùa tu tập theo đạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo, hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển, vì cuộc sống ở thế gian quá khổ sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi tìm thế giới siêu hình để thoả mãn lòng mơ (145) tưởng của mình. Chính vì thế, vô tình quí phật tử đã dùng tiền bạc sai quí thầy phục vụ tinh thần trong đời sống của quí vị. Quí vị cúng dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quí thầy phải thuyết pháp, giảng kinh, hoặc cúng bái cầu siêu, cầu an, coi bói, xem tướng v.v…​ chứ không bao giờ quí vị đến cúng dường cho chư tăng bằng một tấm lòng cầu mong quí thầy giữ gìn giới luật thanh tịnh, để Tam Bảo được trường tồn. Quí vị đến chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm giữ gìn Phật pháp.

Còn riêng quí thầy, chư tăng, ni, cũng vì vật chất, tiền bạc, tình cảm, cuộc sống, cho nên đã để Phật giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người. Từ đó, quí thầy, quí cô đã sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, tụng niệm như ca hát giọng cao, giọng thấp cúng vong, tiễn linh theo tiếng trống, tiếng kèn, tiếng mõ, nhạc dập dìu du dương ảo não, ru lòng người đam mê say thích. Tăng, ni tụng niệm giống như đào, kép hát tuồng, khiến cho tín đồ thích thú, và còn bày vẽ ra nhiều điều mê tín lừa đảo tín đồ nữa. Gần hết các tu sĩ này đều phạm giới, phá giới luật của Phật. Rồi cũng từ đó, quí thầy biên soạn sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người phật tử khi đau ốm bệnh (146) tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn thua và khi tử biệt phân ly. Những kinh sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm, giải thoát sanh tử, nó chỉ là nguồn an ủi tinh thần làm dịu bớt cơn buồn khổ. Nhờ đó, mà quý thầy, quí cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quí phật tử. Hay nói cách khác là trao đổi.

Phải nói, vì vật chất, tiền bạc, tình cảm và cuộc sống của quý thầy, quý cô mà đã biến quý thầy, quý cô trở thành những người phục dịch cho quí phật tử, từ cái ăn cho đến cái đi chơi, và mọi sự của quí phật tử mà quý thầy và quý cô đều phải lo hết. Do đó, quí thầy quý cô phải thức thâu đêm dịch kinh, viết sách cho quí phật tử đọc, quý thầy, quý cô cũng nặn đầu, bóp trán suy nghĩ tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để cho phật tử du ngoạn thưởng thức. Như vậy, còn thì giờ đâu mà quý thầy, quý cô tu hành.

Tu hành không phải là một việc dễ làm, phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm nơi mình, phải thường hằng gìn giữ giới luật nghiêm túc. Cho nên, không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Vì thế, quý Thầy đã trở thành những công nhân viên (147) chức của quý phật tử mà không hề hay biết. Kinh sách Phật được bày bán la liệt không có vẻ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường, và cũng vì thế mà người tu theo Phật giáo thời nay rất là hời hợt. Những giới luật của Phật giáo con người thời đại ngày nay đã quên hết, chỉ còn biết làm danh, làm lợi trên những đống kinh sách này. Đem hết cuộc đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quí báu, thay vì để tu tập giải thoát khỏi cảnh đời ô trược này thì quí thầy, quí cô lại chôn mình trong bùn lầy danh lợi hôi tanh, làm mất giá trị Pháp Bảo của Phật.

Quí thầy, quí cô nghiêm khắc mình trong giới luật, thực hiện thiền định sâu mầu là quí thầy, quí cô đã phổ biến Pháp Bảo quí báu nhất của Phật đến tận hang cùng, ngõ hẻm của con người, chứ không phải việc in kinh, viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ biến Pháp Bảo. Đó là quí thầy, quí cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối. (148)

--o0o--

Chùa là nơi tu hành

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, khi nghe chúng tôi nói đến đây, quí vị hãy suy ngẫm lại, chứ đừng vội lên án chúng tôi. Kính thưa quí vị, kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao! Ngay chính bản thân của quí vị tu hành thì quí vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật là để cho người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời. Bởi vậy, Phật giáo ngày nay không người tu chứng là vậy. Nếu muốn tu giải thoát, thì quí vị phải đến chùa tu hành hẳn hoi, chứ không phải đi lang thang chùa này, chùa khác để nghe thuyết pháp chơi. Vả lại, chùa cũng chẳng (149) phải là chỗ để cho quí vị đi chơi ngắm cảnh, giải trí, an ủi tinh thần. Nếu quí vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy, và nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa, chứ không phải dùng tiền bạc cúng dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quí thầy cách nào cũng được. Từ lâu, quí vị đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần, và quí thầy trở thành công nhân viên của quí vị cư sĩ.

Một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại, chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chùa là nơi để quí vị nghỉ mát, nghỉ hè, làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho tăng, ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, Tuệ Tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, quí vị đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật, để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của đức Phật. Đó là những điều mê tín, (150) phi đạo đức, đó là những điều sai, không đúng của đạo Phật.

Khi đến chùa, quí vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái mặc của quí vị. Khi đi đến chùa, quí vị đừng để người tu hành phục vụ quí vị mà mất phước. Khi đi đến chùa, quí vị đừng ăn mặc hở hang bày da, hở thịt, mặc quần áo màu sắc rực rỡ, bông hoa lòe loẹt. Khi đi đến chùa, quí vị đừng thoa son, đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám cưới đám hỏi…​ Khi đi đến chùa, quí vị đừng làm ồn náo, cười nói phải giữ mình có nết hạnh. Khi đi đến chùa, đừng nghĩ mình có xe hơi, xe gắn máy thì cứ chạy đậu sát thềm chùa. Đó là thiếu tư cách đạo đức, quí vị cần sửa lại. Khi đi đến chùa, quí vị phải đậu xe ở ngoài cổng, dắt xe vào, phải cởi bỏ giày dép, đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu pháp, thì may ra quí vị mới hưởng được pháp vị của đức Phật. Khi đến chùa, quí vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa, vua A Xà Thế đến thăm đức Phật phải dừng xe ở đầu rừng, rồi đi bộ đến gặp Phật.

Khi đi đến chùa, đừng nghĩ rằng có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền, quăng tiền ra là có đủ loại kinh sách, và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các loại kinh. Có (151) biết đâu, đó là những bài pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó cũng chưa thực hành được. Những bài thuyết pháp đó thường bán rẻ mạt ở đầu đường, xó chợ. Những bài thuyết pháp này quí vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì. Pháp không cầu mà có là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán la liệt là pháp không có giá trị tu hành. Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi, chứ không phải chân pháp của đạo Phật.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, khi đi đến chùa tăng, quí vị là nữ cư sĩ hoặc ni cô thì quí vị nên đi từ hai người trở lên vào tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư tăng khi đến chùa ni, hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì quí vị phải đi từ hai người trở lên, chứ không thể đi một người vào chỗ đó được. Khi đi vào chỗ tu hành quí vị không thể đi xông pha, mà phải đi theo người hướng dẫn, nói chuyện nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó.

Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ, chứ không được tự động đến chỗ người thân ở. Người tu hành ở tại tu viện cũng không được đưa dắt người thân, bạn bè đi tham quan làm động chúng tu hành. Đó là điều làm sai, xin quí vị lưu ý. (152)

Người đang tu hành tại tu viện, ở đâu thì nên ở tại vị trí nấy mà lo tu hành, không được đi sang khu khác, hoặc tự tiện đến thất người khác nói chuyện, hoặc đi kinh hành trước thất người khác, làm người khác phóng dật, không tu hành được là một tội rất nặng mà không thể tha thứ được. Vì đó là tội phá sự tu hành của mình của người khác. Tội ấy chỉ còn xin Thầy rời khỏi tu viện, chứ không còn mặt mũi nào nhìn ai được. Cho nên, vào tu viện là vào nơi tu hành thì nên tu hành, còn thấy mình tu không nổi thì xin về, đừng làm động người khác mà sẽ hối hận suốt đời.

Một cư sĩ nữ hay một ni cô khi đến chùa tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là một người thiếu đức hạnh, phải sửa lại. Ngược lại, một cư sĩ nam hoặc một vị tăng cũng vậy, không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành của tu sĩ nữ. Vậy, khi đến nơi tu hành xin quí vị lưu ý hãy cẩn trọng, chớ xem thường chỗ tu hành như chỗ du lịch tham quan, chỗ ăn chơi hò hẹn. Một việc làm vô ý tức là gây ra tai hại cho mình, cho người. Ở trong nhà chúng ta sống sao cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức, nhân cách, thiếu văn hóa lịch sự. Ngược lại, ra ngoài cũng phải tùy nơi tùy chỗ thì quí vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy đủ tác (153) phong phẩm chất đạo đức giải thoát của đạo Phật.

Tám năm trời chúng tôi mở tu viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một người cầu pháp chân thật, toàn là những người làm hao của đàn na thí chủ; làm những điều tồi tệ phá giới luật, cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bực Thầy, Tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ toàn là những con mọt sách. Tóm lại, tăng, ni và phật tử đối với Phật pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái, nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu ra đây hết được. Khi nào đủ duyên, cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì chúng tôi sẽ giảng dạy cho quí vị.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng, nhưng chúng tôi phải nói. Nói vì sự tồn vong của Phật giáo, dù biết rằng chúng tôi nói sẽ không có chùa để ở, không có cơm để ăn, không có y áo để mặc thì chúng tôi cũng vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh tăng, ni và quí vị cư sĩ. Nói để quí vị sửa sai. Nói để quí vị không bị đọa địa ngục ngay cảnh sống thế gian này. Nói để cho quí vị hiểu Phật pháp đúng cách. (154)

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, quí vị phải hiểu chúng tôi nói ở đây không có ý phê phán, chỉ trích ai hết. Ai muốn tu sao cũng được, chúng tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý này để quí vị đừng hiểu sai đạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu tập, sai mục đích của đạo Phật mà uổng phí thì giờ quí báu của quí vị.

Kính thưa quí vị, chúng ta là những đệ tử của Phật mà không tu hành theo pháp môn của đạo Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu theo đạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật sự. Hiện giờ, Phật giáo xem như bị mất gốc, chỉ còn cành lá mà thôi. Cho nên, chúng tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quí vị; để nhắc nhở quí vị. Còn nghe hay không là quyền của quí vị. Chúng tôi chẳng có ý gì khác hơn. Tu đúng, tu sai là quí vị nhờ, chứ chúng tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả. Chúng tôi chỉ mong quí vị tỉnh ngộ, quay về với con đường chân chính của đạo Phật, để có sự ích lợi thiết thực cụ thể hơn.

Những điều quí vị tu hành, và những việc làm của quí vị đều tốt, đều thiện, nhưng tốt (155) và thiện đối với tôn giáo khác, còn đối với Phật giáo thì quí vị đã lầm lạc. Bởi quí vị đã không tu giới luật mà còn phá giới luật, làm những điều sai trái phạm vào giới luật, trong khi giới luật là ông Thầy mà quí vị từ bỏ không chịu tu theo. Chúng tôi cũng không biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không chịu nghe lời dạy, không chịu nương tựa vào ông Thầy của mình thì quí vị sống với ai, tu tập cái gì?

Nếu chúng tôi tu tập giới luật, thiền định, trí tuệ của đạo Phật mà không có kết quả như ngày hôm nay, thì chúng tôi cũng chẳng nói lên đây làm gì. Vì có kết quả quá rõ ràng, cho nên chúng tôi cho nổi cơn sấm sét, để quí vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, quí vị hãy cùng chúng tôi sửa sai lại những gì quí vị đã từ lâu không biết, đã làm sai. Quí vị hãy chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân tầm thường mà làm tổn hại Phật pháp. Bấy lâu nay cũng vì hiểu sai Phật pháp, tu sai mà tưởng là bồi đắp xây dựng Phật pháp. Vì thế, dầu quí vị có tìm khắp nơi trên thế giới cũng không tìm ra một bậc tu chứng. (156)

THẦY CHÚNG TÔI Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

image

Chúng tôi sẽ giải nghi cho quí vị về con đường Thiền Đông Độ. Chúng tôi biết rằng khi nói đến Thiền Đông Độ là chạm đến Thầy chúng tôi. Song chúng tôi tin rằng Thầy chúng tôi không phải là người tầm thường. Thầy chúng tôi luôn sáng suốt và thường (157) để tâm theo dõi chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trên bước đường tu tập, cũng như khai thác những kinh nghiệm gì mà chúng tôi đã gặt hái được kết quả lợi ích thiết thực và cụ thể của đạo Phật, để lấy đó phục hồi, chấn hưng làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, cách đây 14 năm, khi chúng tôi tu hành có kết quả, về trình lại với Thầy và có ý xin Thầy cho phép chúng tôi nhập diệt bỏ báo thân này. Thầy chúng tôi không bằng lòng, và khuyên bảo chúng tôi ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Chúng tôi nhận lời và ở lại giúp Thầy. Cho nên, suốt 14 năm nay chúng tôi đã gặp bao nhiêu cay đắng, phũ phàng và chịu nhiều gian khổ, chúng tôi cũng chẳng sờn lòng. Dù sông kia có thể cạn, núi kia có thể mòn, song lòng dạ chúng tôi không hề thay đổi, nguyện đem đời tu hành của mình làm viên đá để Thầy chúng tôi xây dựng lại ngôi nhà Thiền Tông Việt Nam, như ước vọng của Thầy chúng tôi.

Chúng tôi biết rằng Thầy chúng tôi không bao giờ cố chấp, chịu khô cằn trong giáo điều Thiền Đông Độ, và cũng không bao giờ chịu (158) chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Vì Thầy đã từng nói với chúng tôi: “Thầy trò hiểu nhau là hơn hết”. Mặc dù Thầy chúng tôi nói với quí vị chúng tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo bị ngũ ấm ma, và còn nói với quí vị chúng tôi chẳng hiểu Phật pháp, chúng tôi tu theo Tiểu thừa tiêu nha, bại chủng, chồi khô, mộng lép, hoặc nói chúng tôi khai trừ Thầy. Những lời nói này quí vị không thể hiểu nổi Thầy chúng tôi đâu. Quí vị nên nhớ, nhờ có Thầy chúng tôi mà quí vị mới biết đến chúng tôi ngày nay.

Thầy chúng tôi đã tận tụy hy sinh cả đời mình vì Phật pháp. Tìm thấy cái gì hay trong kinh sách vội đem ra kêu chúng tôi về cho tu tập. Cho nên, cuộc đời của Thầy chúng tôi nguyện đem hết sức mình lo cho tăng, ni và phật tử quá nhiều, luôn luôn lúc nào Thầy của chúng tôi cũng chịu cực khổ lo giảng kinh, dạy đạo, và còn dịch viết kinh sách Thiền để cho quí vị không lầm đường tu hành. Bởi vậy chúng tôi tin Thầy của chúng tôi hơn ai hết.

Thầy nói điều gì về chúng tôi là nhắc nhở chúng tôi tránh những điều sai lầm. Như nói chúng tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo là nhắc nhở chúng tôi kiểm tra lại đường lối tu hành (159) của mình. Nói chúng tôi không hiểu kinh điển là bảo chúng tôi ôn cố lại kinh điển. Nói chúng tôi bị ngũ ấm ma là nói chúng tôi ý tứ từng lời nói và việc làm. Nói chúng tôi tiêu nha bại chủng là nói chúng tôi tận lực tu hành để trợ giúp Thầy chấn hưng Phật pháp, làm Bồ Tát hạnh. Nói chúng tôi khai trừ Thầy là bảo chúng tôi gắn bó cùng Thầy để thầy trò cùng nhau làm lợi ích chúng sinh.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, những lời dạy bảo này là vì nguyên nhân Phật pháp hôm nay đã bị pha trộn đủ loại pháp môn tu hành. Người tu hành thường hay bị rơi vào ngũ ấm ma mà không hề hay biết, nên Thầy chúng tôi ngăn ngừa cảnh giác, nói thẳng về sự tu hành của chúng tôi để chúng tôi coi chừng lầm lạc.

Kính thưa quí vị, những lời nói này là những lời khuyên vàng ngọc của Thầy đối với chúng tôi. Những lời nói này làm cho chúng tôi cảm thấy rằng Thầy luôn lúc nào cũng ở bên mình, dìu dắt chúng tôi từng bước đi, không để chúng tôi bị ngã té trên đường tu học. Lòng thương yêu của Thầy chúng tôi không thể lấy trời biển, núi non mà sánh được. (160)

Kính thưa quí vị, tâm nguyện lớn lao hy sinh cả cuộc đời mình cho Phật pháp, nên Thầy chúng tôi thường dạy bảo: “Một người tu chứng là Phật pháp thường còn”. Vì thế, ngày nay đã biết bao nhiêu người thấm nhuần công đức của Thầy chúng tôi. Vì có hiểu Thầy như vậy, nên chúng tôi không ngần ngại nói lên những điều mà chúng tôi đã thấy biết được, để giúp Thầy chấn hưng Phật pháp, và cũng để giúp quí vị tu hành không hoài công phí cuộc đời. (161)

--o0o--

So sánh các loại Thiền

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, con đường tu theo đạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẻo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, thì con đường thiền này do từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy, qua câu chuyện niêm phong trên núi Linh Thứu, ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quí vị ai cũng biết rõ. Chúng tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Độ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Bồ Đề Đạt (162) Ma sang Trung Hoa và làm tổ thứ nhất tại đất nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là nhị tổ Huệ Khả. Bồ Đề Đạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Chúng tôi xin nhắc lại câu chuyện để quí vị thưởng thức:

Thần Quang đến tìm Bồ Đề Đạt Ma để mong cầu pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau, tuyết phủ lấp gối, Bồ Đề Đạt Ma mới quay ra hỏi:

  • Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở, vất vả quá vậy?

Thần Quang đáp:

  • Con đến cầu pháp.

  • Ta có pháp gì để ngươi cầu?

  • Bạch Hòa thượng, tâm con bất an.

  • Ngươi lấy tâm ta an cho.

Thần Quang đứng nhìn quanh quất, chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch:

  • Bạch Hòa thượng, tâm ở đâu, làm sao con lấy được. (163)

  • Ta đã an tâm ngươi rồi đó.

Thần Quang bèn quì xuống đảnh lễ Tổ, nhận pháp an tâm.

Ngay câu nói mà liền hiểu gọi là đốn ngộ. Như vậy, Thần Quang đã ngộ pháp an tâm, tức là ngộ Phật tánh, còn gọi là kiến tánh. Qua câu chuyện này, quí vị có hiểu pháp an tâm không? Để chúng tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quí vị thấy rõ ràng.

Theo kinh Tứ Niệm Xứ, Phật đã dạy: “vô thường, khổ, không, vô ngã”. Chỗ pháp an tâm của Bồ Đề Đạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm. Vậy, khi không niệm tâm quí vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não bồ đề; thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái; thì còn chỗ nào gọi là sanh tử. Cho nên, Bồ Đề Đạt Ma gọi là an tâm. Vậy, pháp môn an tâm của Bồ Đề Đạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, bản lại diện mục hiện tiền của lục tổ Huệ Năng không? (164)

Kính thưa quí vị phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy, bây giờ quí vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không? Chúng tôi xin kể lại câu chuyện bản lai diện mục để quí vị thưởng thức:

Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường, đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo:

  • Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây, ngươi cứ lấy đi đi!

Huệ Minh cúi đầu đảnh lễ, tác bạch:

  • Con đến cầu pháp, chẳng cầu y.

  • Chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Huệ Minh?

Huệ Minh đảnh lễ Tổ, nhận pháp bản lai diện mục rồi trở về. (165)

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh phát triển, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi. Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, do câu kinh này mà lục tổ Huệ Năng đã kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền.

Xin thưa với quí vị, tâm của chúng ta thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không, không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là bản lai diện mục, bản lai diện mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Đông Độ. Bây giờ quí vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

Thiền Đông Độ chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa thiền và giai đoạn cuối thiền. Ba giai đoạn gồm có: (166)

1- Từ pháp môn An Tâm đến pháp môn Bản Lai Diện Mục là giai đoạn đầu của Thiền Đông Độ.

2- Từ số đệ tử của lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.

3- Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân hòa thượng và La Hỏa thiền sư là giai đoạn cuối thiền.

Giai đoạn đầu thiền, sự khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ. Cho nên, lúc bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ lục tổ Huệ Năng, người nghe qua liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói, Thiền Đông Độ cực thịnh nhất ở giai đoạn này, như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở.

Khi nhận ra pháp này, Thiền Đông Độ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm, còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ: “đốn ngộ rồi tiệm tu”. Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật, nên gọi là kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra pháp môn chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, chỗ chẳng nghĩ thiện, (167) nghĩ ác là chỗ chẳng có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ chẳng có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành. Do đó, kinh Kim Cang dạy cách tu: “Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”, Bát Nhã Tâm Kinh dạy: “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Phản văn, văn tự tánh”, kinh Viên Giác dạy: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, các tổ sư thiền dạy: “chăn trâu”, “gọi ông chủ”, “biết vọng liền buông”, “tham thoại đầu, tham công án, khởi nghi tình v.v…​”.

Thầy chúng tôi giải thích, cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: ngàn Thánh cũng chẳng làm, nghĩa là cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện, niệm ác lâu ngày thuần thục, nên gọi là da mỏng, da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện, niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu, cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật (168) tử, việc làm này không phải dễ, cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:

“Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường”

hoặc:

“Chẳng phải một phen sương lạnh buốt

Hoa Mai đâu dễ ngửi mùi hương”

Cho nên, chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Đông Độ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian chúng tôi theo học tại thiền viện Chân Không, Thầy chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.

Kính thưa quí vị, kinh phát triển và Thiền Đông Độ dạy cách tu quá đơn giản, nhưng kinh phát triển và Thiền Đông Độ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm, thiện niệm ác, mà lại lặng xuống rơi vào trạng thái mất tiêu.

Nên trong Thập Mục Ngưu Đồ, tranh thứ tám người trâu đều mất, giống như ở trạng (169) thái hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không đều có trạng thái mất tiêu, người trâu đều mất. Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì các thiền sư đều biết mặt nó, do đó các Ngài lại một phen khổ sở, không biết làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các Ngài tu hành, chúng tôi biết các Ngài không có cách phá. Cho đến vô ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các Ngài không có kể đến.

Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi, thì các pháp tu từ các pháp độ chúng sinh, chăn trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm thiện, niệm ác, thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên, không thể hàng phục được nó.

Kính thưa quí vị, chúng tôi xin lưu ý quí vị ở chỗ này, khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện, niệm ác thô, còn niệm thiện, niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên chúng tôi bảo rằng các pháp môn này (170) không đủ lực. Vì thế, quí vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch cảnh, quí vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do đó, mà chúng tôi bảo rằng quí vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng, thì các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ. Ông chủ là pháp môn tác ý, pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật, đề khởi thoại đầu để tham thoại đầu, đề khởi nghi tình để tham công án v.v…​

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên, thì chỉ có giới luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy, đức Phật mới dạy: “Giới sanh định”. Không thể giữ tâm ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài giới luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những định tưởng mà thôi. Như định tiếng động 500 cỗ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa vong cu thân, định của thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không Vô Biên Xứ Tưởng, định Thức Vô Biên Xứ Tưởng, định Vô Sở Hữu Xứ (171) Tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đều không giải quyết được sanh, lão, bệnh, tử, và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi. Cho nên, đức Phật đã ném bỏ chúng như ném chiếc giày rách, chỉ có người sau không dám bỏ, nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.

Trên đây là những lời chúng tôi đã nói thẳng. Quí vị đừng tin chúng tôi, mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau này khi có thì giờ, chúng tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh phát triển và Thiền Đông Độ.

Nếu quí vị muốn tu theo Phật mà quí vị sợ tu Giới Luật thì quí vị tu cái gì? Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quí vị rõ:

Bây giờ quí vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá sum suê, tươi tốt, vì hằng ngày chư tăng bón phân, tưới nước rất kỹ, lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt đầu quí vị hái lá bỏ, khi hái sạch lá, quí vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh, như vậy biết bao giờ quí vị hái cho hết lá. Lá vì tự nơi gốc cây mà ra. Chúng tôi tu giới luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn giới luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào. Giữ gìn giới luật đừng cho sai phạm tức (172) là chúng tôi đã xa lìa dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân, tưới nước nữa, thì cây phải cằn cỗi, trơ cành, trụi lá. Còn quí vị cố dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện, niệm ác khởi, mà cứ luôn chạy theo dục lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân, tưới nước được đầy đủ, thì làm sao quí vị hết vọng tưởng, hết hôn trầm được. Cho nên, người ta thường bảo: “ham ăn, ham ngủ”, nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều.

Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi, ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no, không ăn ráng ăn thêm thì hôn trầm không dừng nó cũng tự dừng, còn ăn ráng ăn thêm thì hôn trầm tấn công không thể tránh khỏi. Ở đây chỉ ăn một bữa, không ăn uống lặt vặt, vậy mà có người sợ mất sức khỏe, ăn ngày một bữa mà ăn hơi nhiều hơn một chút còn bị hôn trầm, thùy miên thăm viếng, huống là quí vị ăn ngày hai, ba bữa, còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quí vị phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được! Nên, đức Phật đã dạy: “Ăn ít, ăn vừa đủ, không nên ăn ráng”.

Kính thưa quí vị, nếu quí vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng, cũng không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, thì lâu ngày quí vị rơi vào các định vong thân như (173) định của ngài Nhan Hồi, định trong Thập Mục Ngưu Đồ, tranh số tám, người trâu đều quên. Kinh phát triển không có cách thức xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Ở trạng thái này, kinh phát triển gọi là thường định, đại định, định không xuất không nhập. Thiền Đông Độ cũng vậy, không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm bản thân của chúng tôi, nhìn cách thức buông vọng, dừng vọng thì biết cách thức nhập định của họ.

Bây giờ, chúng tôi so sánh hai thứ thiền định của Phật và Tổ, để quí vị suy ngẫm. Theo thiền của đạo Phật, muốn hàng phục vọng tâm của mình nhập Sơ Thiền thì chúng tôi cần giữ gìn giới luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này chúng tôi nghiêm trì được giới luật, bảo vệ được sáu căn, tức là bảo vệ được tâm của chúng tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài, tức là không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm ly dục, ly ác pháp. Nhờ đó, tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tâm tỉnh thức, do sự tỉnh thức nên không còn bị loạn tưởng, hôn trầm nhiều. Chúng tôi rất tỉnh giác, (174) thường thấy biết cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay ít. Nhờ thấy được nó, chúng tôi ly được dục, và các ác pháp không làm tâm chúng tôi dao động. Nhờ ly được dục, chúng tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc thế gian. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt, mọi vật không qua được ý tứ của chúng tôi. Như vậy là chúng tôi đã tỉnh giác trên mỗi niệm, tỉnh giác trên mỗi niệm là chúng tôi đã làm chủ được tâm mình, làm chủ được tâm mình tức là tâm bất động, hay nói cách khác là chúng tôi nhập Bất Động Tâm Định.

Từ đó, chúng tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Do điều này, chúng tôi hiểu rõ lời Phật dạy ly dục sanh hỷ lạc là đúng, do ly dục và ác pháp mà tâm mình có giải thoát, do ly dục và ác pháp mà tâm mình trở thành thiền định, chứ không phải ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng mà có thiền định. Như chúng tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng giới luật là đủ.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, chúng tôi xin lưu ý quí vị chỗ này (175) nữa, một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tính xấu, phải không bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát, đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, tức là đạo đức làm người. Tóm lại, quí vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền.

Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu giới luật nhập Sơ Thiền. Nhưng Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển thuộc về loại thiền ức chế tâm, vì không ly dục, ly ác pháp, mà cứ bắt ép tâm tập trung diệt vọng tưởng, nên tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn. Vì thế, nên không thể có giải thoát được. (176)

Cùng một kết quả thiền định gần giống như nhau, nhưng lại khác nhau, một bên tu hành giữ gìn giới luật, gọi là thiền xả tâm. Vì thế, Phật thường dạy: “Giới sanh định”. Do giữ gìn giới luật nên tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt sạch, nên được giải thoát hoàn toàn. Còn một bên không giữ giới luật, chỉ nhiếp tâm, ức chế cho hết vọng tưởng, gọi là thiền định, vì thế tâm tham, sân, si, mạn, nghi vẫn còn nguyên vẹn, nên không được giải thoát.

Đem so sánh hai thiền gần như tương đương với nhau, nhưng kết quả khác nhau, nên tên gọi cũng khác nhau. Kinh Nguyên Thủy gọi là ly dục, ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền, kinh sách phát triển gọi là kiến tánh thành Phật, Thiền Đông Độ gọi là bản lai diện mục v.v…​

Kinh Nguyên Thủy được giải thoát do ly dục, ly bất thiện pháp. Ly dục, ly bất thiện pháp là lìa tâm ham muốn và các ác pháp. Do ly dục mà giải thoát được cái ăn, cái ngủ và các lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon chen khổ sở, không còn phiền não, sân hận, tham lam, si mê, ganh tỵ v.v…​ Còn kinh sách phát triển và Thiền Tông thì dừng hết vọng tưởng là tâm được “tự tại vô ngại, (177) đói ăn, khát uống, mệt ngủ”, thậm chí ăn ngày bốn, năm bữa cũng chẳng sao, vui chơi, ca hát, đàn địch thỏa thích, sát sanh, hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của hai bên xin quí vị suy xét, chúng tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.

Kính thưa quí vị, ở đây tu tập giới luật, mới có diệt được tầm nhưng chưa diệt được tứ. Chúng tôi nói diệt tầm, tức là nói không vọng khởi, chứ không phải diệt tầm tứ theo kiểu Nhị Thiền. Nên chúng tôi tiếp tục nương Định Niệm Hơi Thở để diệt tứ, bằng pháp hướng tâm nhập Nhị Thiền. Đến đây, chúng tôi xin lưu ý nhắc quí vị, khi nào quí vị hết vọng tưởng mới tu pháp hướng tâm diệt tứ. Ở đây, chúng tôi giải thích thêm cho rõ, để quý vị biết diệt tứ bằng cách nương vào hơi thở dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp Môn. Còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp hướng tâm diệt tứ, thì quí vị tu hành hoài công vô ích, (vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục, ly ác pháp chưa sạch) mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công, chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quí vị, và về sau còn tai hại rất lớn cho quí vị vì bệnh thần kinh. (178)

Khi chúng tôi tu giới luật ly dục diệt tầm, tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập Mục Ngưu Đồ của Thiền Tông, trâu quên còn người. Chỗ này tương ưng với kinh sách phát triển, “độ hết chúng sanh thành Phật”.

Khi chúng tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập Mục Ngưu Đồ, người trâu đều quên. Chúng tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không.

Xin lưu ý quí vị, khi chúng tôi diệt tầm tứ thì chúng tôi không mất. Trời sét đánh không nghe. Chúng tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Trong Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8, người trâu đều quên không có hỷ lạc, vì bị mất tiêu, mất tiêu nhưng tiếng động lớn còn nghe. Đó là trạng thái vong thân, còn gọi là tưởng vô sắc định, một trạng thái không tưởng giống như người trong mộng. Do đó, người nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao, vì đó là môi trường của chúng (tưởng thức), như thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải đại sư, Hư Vân hòa thượng v.v…​ Phải nói rằng, hầu hết các thiền sư Đông Độ đều còn nằm chiêm bao, tức là còn tưởng dục. (179)

Xưa, đức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng, và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Khi nhập xong, đức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết những cái khổ của loài người, nên đức Phật ném bỏ. Mặc dù vị thầy dạy đức Phật tu pháp môn này rất tha thiết yêu cầu đức Phật ở lại chia nửa tòa, nhưng đức Phật từ khước ra đi tìm chân lý.

Chỗ này, Thiền Đông Độ và Nhị Thiền của Phật không thể tương ưng nhau được. Cũng như kinh sách phát triển không thể tương ưng với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu giới luật ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn, thanh tịnh, thường trống không, lặng lẽ, nhưng rất tỉnh giác, sáng suốt, và ý tứ làm chủ cuộc sống, nên tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ hơn thua v.v…​ Còn kinh sách phát triển khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị thiền sư nào đó cứ ôm ấp chữ “như” trên đầu, nên qua sông quên mặc quần áo. Trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá, có thuật lại một vị thiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng thì mang cái rổ, thiền sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt.

Kính thưa quí vị, chỗ vô phân biệt (180) này không phải là chỗ vô tâm, vì cái biết vẫn còn nhưng không có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được). Ở đây, kinh sách phát triển và thiền Đông Độ chấp nhận chỗ này là tu xong, còn Thập Mục Ngưu Đồ cho tu đến chỗ này chưa xong, còn tiến tu đến tranh 8, tranh 9 và tranh 10.

Kính thưa quí vị, đến đây quí vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, chúng tôi không có ý kiến gì.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, người trâu đều quên mà trong Thập Mục Ngưu Đồ chưa xác định tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách phát triển và Thiền Tông. Ngược lại, Thiền Tông và kinh sách phát triển cũng không xác định tu ở mức độ nào mới tương ưng đúng với tranh số 8. Mọi trạng thái lặng từ hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quí vị về suy ngẫm lại, khi nào bí quá, quí vị hỏi các vị thiền sư Đông Độ. (181)

--o0o--

Chuyển đổi Nhân Quả

image

Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ cho rằng độ hết chúng sanh, hoặc chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác thì thành Phật. Vậy thành Phật rồi còn phải tu nữa hay không?

Khi độ hết chúng sanh rồi có làm chủ được thân tâm hay không? Và có chấm dứt tái sanh luân hồi chưa? Cách thức làm chủ bằng cách nào?

Đây, chúng tôi xin nhường lại cho tổ Bách Trượng trả lời quí vị, tổ Bách Trượng dạy: “Chẳng muội nhân quả”. Ở đây, quí vị (182) phải hiểu câu nói này, đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ, vì mê muội trước nó là sợ hãi, là buồn khổ, rên la, kêu khóc v.v…​ Ý của Tổ nói, đứng trước các pháp ác tâm không hề dao động là đủ (chẳng mê muội).

Chúng tôi xin lập lại câu nói này, để cho quí vị dễ hiểu hơn. Nghĩa là quí vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bệnh; trước cái chết; trước cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp. Vì quí vị thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật, mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn giả không thật có. Do hiểu biết như vậy, quí vị sẽ không sợ hãi. Vì thế, nhị tổ Pháp Loa bệnh đau rên hừ hừ mà không làm chủ được cái đau, nên khi tổ Huyền Quang hỏi, Ông trả lời theo kiểu tổ Bách Trượng: “Gió thổi qua khe trúc”.

Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh, để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quí vị, tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Còn đạo Phật thì chuyển nhân quả và làm chủ nhân quả, nên nó không là số mệnh, định mệnh được. (183)

Ví dụ, cùng hai đứa bé nhức răng ôm khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Đứa bé con nhà giàu được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn đau nhức, chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo, không có tiền đi nha sĩ nên phải chịu đau nhức, khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác.

Kính thưa quí vị, người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường đúng chánh pháp nên chuyển nghiệp nhân quả được, huống là chúng ta, tu pháp môn giải thoát vô lậu thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường, như muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản sự làm chủ sống chết của chúng ta được nữa.

Kính thưa quí vị, xin quí vị lưu ý chỗ này, lúc nãy tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh, còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về hai đứa bé là thuyết nhân quả, mà thuyết nhân quả thì làm chủ được, vì nó di chuyển và thay đổi được. Còn thuyết định mệnh thì không thay đổi được, vì nó cố định. Cho nên, dù có làm Phật thì cũng không làm chủ được cái nhân quả. (184)

Như vậy thì quí vị đã phân biệt được luật nhân quả và luật định mệnh phải không? Hai thuyết này khác nhau chứ không giống nhau, nó chỉ giống nhau ở hành động nhân quả thiện ác mà thôi, còn có sự cố định đó là thuyết định mệnh, còn có sự thay đổi đó là thuyết nhân quả. Ví dụ như Đức Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La…​ tự tại nhập Niết bàn là sự chứng minh thuyết nhân quả.

Bởi vậy, người tu theo đạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn nghiệp đau, nghiệp chết tác dụng được, vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ Thiền. Như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp, làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh là xả thọ, xả thọ tức là đoạn ái, đoạn ái tức là chấm dứt sự đau khổ, còn chấm dứt sự tái sanh luân hồi thì phải thực hiện lậu tận trí. Như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên Phật dạy: “Vì có thọ mới có ái”. Cho nên, khi thọ diệt thì ái phải đoạn tận. Ở đây, quí vị đã hiểu rõ.

Kính thưa quí vị, đến đây quí vị biết Tứ Thiền là một pháp môn rất quan trọng của đạo Phật, trong sự làm chủ sống chết. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn (185) này, để cho quí vị thành tựu giải thoát cá nhân của quí vị ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ, và còn ra khỏi thân đau khổ này.

Chúng tôi xin quí vị lưu ý chỗ này thêm, thọ là then chốt của nghiệp ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời, nghiệp để cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời, ái để cho thọ. Vậy, chúng ta tu hành dùng Tứ Thiền xả thọ, thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu. Cho nên, gọi là diệt nghiệp đoạn ái. Diệt nghiệp là làm chủ thân tâm; đoạn ái là chấm dứt tái sanh luân hồi. Con đường của đạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng, không giống như Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển. Vả lại, chúng ta đã biết, muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Hơi thở là mạng sống của con người, khi nhập định Tứ Thiền tịnh chỉ được hơi thở, tức là làm chủ được mạng sống của mình, một loại thiền định làm chủ sự sống chết rất rõ ràng và cụ thể, mà trong thế gian này chúng ta không ngờ lại có một pháp môn mầu nhiệm như vậy. (186)

Tâm vô tâm

image

Kính thưa quí vị, chúng tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của đại đức Suzuki: “Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu, tranh 7 - vong ngưu tồn nhân. Thấy người không thật thì người quên nốt, tranh 8 - nhân ngưu câu vong. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật” (Thiền Luận, tập thượng, trang 616).

Nghe qua những lời dạy này, quí vị có biết cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật, người không thật là vọng tưởng hết, là chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác. Nói được, không thể làm được (187). Phải không quí vị? Tri hành không hợp nhất. “Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8, đó là tâm vô tâm” (Thiền Luận, tập thượng, trang 616).

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, đến tranh 8, Thập Mục Ngưu Đồ xác định người trâu đều quên mất, mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh phát triển và Thiền Đông Độ trâu mất mà thằng chăn trâu còn, gọi là vô phân biệt. Qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ này không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy, năng sở không còn là vô tâm, hay là tranh số 8. Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ vô tâm là chưa viên mãn, nên bảo vô tâm còn cách một lớp rào. Vì thế, phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh 9, tranh 10.

Kính thưa quí vị, cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ, từ trong lòng đất người trâu đều quên sanh ra, Thập Mục Ngưu Đồ của Thiền Tông không xác định được người trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không (188) cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông và các kinh sách phát triển.

Những trí tuệ phát sáng này chúng tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu, mau, sâu, cạn, và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng, suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ, chứ không có kinh nghiệm tu hành giải thoát như kinh Nguyên Thủy. Như câu: “Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy người không thật thì người quên”, những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành gì được, bằng chứng kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu lý mà thực hành thì không vô. Bởi vậy, có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tổ, mà người ngộ đạo, ngộ được tâm, ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người, nhưng đến khi thành tựu chỉ còn có 2, 3 người, tức là những người nhập được định, trong đó có thiền sư Dược Sơn. (189)

Phải nói, Thiền Đông Độ có nhiều đạo tràng, mà đạo tràng của Mã Tổ là số người tu đông nhất, nhập định được thì cũng không được mấy người, nhưng lại là định tưởng, định không làm chủ được sự sống chết. Loại thiền định này nhập để mà chơi, cũng như đức Phật nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ mà thôi. Như vậy thì có nghĩa lý gì cho cuộc đời tu hành?

Kính thưa quí vị, giai đoạn đầu thiền, người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện, nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do pháp môn tu không kết quả, các thiền sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng các công án rắc rối hơn, hoặc đánh, hoặc la, hoặc hét, để hạn chế người ngộ. Đó là giai đoạn giữa thiền. Bắt đầu từ các đệ tử của lục tổ Huệ Năng, đến Lâm Tế thì cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền, như:

1- Lục Diệu Môn gồm có sáu pháp tu tập: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. (190)

2- Thiền hơi thở gồm có bốn pháp tu tập: phong, khí, suyển, tức.

3- Pháp môn Tịnh Độ gồm có: lục tự Di Đà.

Thiền lục diệu pháp môn do Trí Khải đại sư sản sanh. Thiền hơi thở phong, khí, suyển, tức do một vị thiền sư (có lẽ là Cảnh Phong), mà chúng tôi không nhớ tên rõ. Pháp môn Tịnh Độ do thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì thư xã và sớ giải kinh Tịnh Độ, thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán pháp môn này.

Khi con đường Thiền Đông Độ tu không có kết quả, người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ có sống một thời với người cha đẻ của nó, rồi cũng chết yểu, vì thiếu kinh nghiệm, chỉ do trí tưởng tượng tạo ra, nên tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh Độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm thiền sư, khéo léo làm chỗ nương tựa mê tín trong dân gian như cầu an, cầu siêu, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt, xấu v.v…​ Họ sớ giải kinh sách Tịnh Độ: "Nếu những người nào niệm Phật được nhất tâm, khi chết được sanh về Cực Lạc không còn tu tập. Còn những người nào niệm Phật chưa đạt được nhất tâm, nhưng sau khi chết cũng được sanh về (191) Cực Lạc, rồi ở cõi Cực Lạc lại tiếp tu tập cho đến khi được nhất tâm”.

Do sự tu tập tiện lợi và dễ dàng như vậy, nên già, trẻ, lớn, bé đều đua nhau niệm Phật, dù niệm Phật ít, hay nhiều đều cũng được sanh về nước Cực Lạc. Người ta đặt ra 48 lời nguyện của đức Phật Di Đà, để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng, như trong sám Từ Vân có câu:

Thiện nam tín nữ các người

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra

Ta không rước ở nước Ta

Thệ không làm Phật chắc là không sai”

Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi, chứ sự thật không bao giờ có cõi Cực Lạc.

Tu thiền chẳng có kết quả, thường sống trong ảo giác Phật tánh, nên không còn cách nào hơn, phải tưởng giải pháp môn Tịnh Độ để nuôi hy vọng, sống thêm những ngày còn lại mà không bị mất mặt với quí phật tử.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ chúng tôi đem so sánh kinh sách Nguyên Thủy, kinh sách phát triển, Thiền Đông Độ với Thập Mục Ngưu Đồ. (192)

Chúng tôi xin nhắc lại, kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật: “Độ hết chúng sanh thành Phật, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác bản lai diện mục hiện tiền”, hay: “kiến tánh thành Phật”. Chỗ này kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh số 7, “ngưu vong tồn nhân”.

Thầy chúng tôi dạy, trâu mất, người chăn phải còn. Chỗ này của Thầy chúng tôi tương ưng với tranh 7, với kinh sách phát triển và với Thiền Đông Độ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8 được. Kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ tu đến chỗ này được xem là thành Phật. Phật là đại giác, giác là trí tuệ. Ngược lại, Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ tu này chưa xong nên phải tiếp tục tu tới tranh 8, “nhân ngưu câu vong”, người trâu đều mất, người trâu đều quên.

So với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh 8, kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ không có trạng thái nào tương ưng. Trong khi đó, kinh Nguyên Thủy tuy có vẻ tương ưng, mà thực ra lại khác. Ở Thập Mục Ngưu Đồ, khi người trâu đều quên thì mất tiêu, rồi phát ra trí (193) tuệ, nhưng kinh Nguyên Thủy thì không mất tiêu, mà ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh, như chúng tôi đã nói ở trên.

Ở Thập Mục Ngưu Đồ, khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên thiền sư Thiền Lão dạy:

"Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân”

Dịch:

“Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại

Trăng trong mây bạc hiện toàn chân”

Thấy mọi vật là mình, mình là mọi vật là tranh số 9, “phản bổn hoàn nguyên” trong Thập Mục Ngưu Đồ. Tu đến chỗ này, sau một năm nhập thất, Thầy chúng tôi tuyên bố trước tăng, ni và phật tử là Thầy đã về đến nhà, tranh số 9 phản bổn hoàn nguyên.

Sau khi ra thất, Thầy chúng tôi cho xây cất thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông Việt Nam, để tăng, ni và phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10, “thỏng tay vào chợ”.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt tăng, ni (194) và phật tử, vừa còn phải tự tu cho mình. Thế là, cho đến hôm nay, Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục Ngưu Đồ của Thiền Tông.

Kính thưa quí vị, như vậy, xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả, thì kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì không giống kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ. Riêng kinh Nguyên Thủy độc lập, không giống kinh sách phát triển, Thiền Tông và Thập Mục Ngưu Đồ. Cho nên, pháp môn của đức Phật hiện giờ trong các chùa hành trì là pháp môn phát triển, pháp môn tổng hợp. Vì thế, chúng ta đừng hiểu các pháp môn là các phương tiện di chuyển, mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường. Mỗi con đường đi nó sẽ dẫn chúng ta đến một nơi riêng của nó.

Kính thưa quí vị, đến đây quí vị cần suy ngẫm kỹ, chứ quí vị đừng hiểu trăm sông đều về biển cả. Đem pháp môn tu hành của đức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp, cao, để nối tiếp nhau theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp, cao tự riêng nó. Cho nên, chúng ta tu đúng thì đúng ngay từ lúc ban đầu, mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay (195) từ lúc ban đầu. Nếu đường đi về thành phố Hồ Chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại cũng vậy.

Kính thưa quí vị, tranh Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông do các thiền sư sau này tưởng giải sinh ra, qua kinh nghiệm tu hành của họ, nên đã đi khá xa hơn kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ. Nhưng các thiền sư vẫn chấp nhận, cho đó là kết quả của Thiền Tông. Vậy chúng tôi xin quý vị cứ suy ngẫm, riêng chúng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhất là hiện giờ, người theo tu Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển rất đông, và thời gian cũng rất dài, nhưng chẳng thấy ai làm chủ sự sống, chết, già, bệnh cụ thể. Hình thức ngồi thiền 2, 3 tiếng đồng hồ thì có, mà chẳng có định gì cả, giỏi nhất của Thiền Đông Độ là hý luận trên công án.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ đến giai đoạn cuối thiền, cách khai ngộ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các thiền sư giảm bớt. Cách tu thì hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu chăn trâu, gọi ông chủ hay biết vọng liền buông nữa, mà tham thoại đầu, (196) tham công án, khởi nghi tình. Các Ngài cố ôm chặt khối nghi, dùng sức mạnh của khối nghi mà tập trung tư tưởng, hầu để ức chế vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các thiền sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các Ngài nổi lên những cơn sân quá dữ dội, những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác, khi các Ngài đối xử với các đệ tử cũng như đối với các phật tử, như thiền sư Lâm Tế, Mục Châu, Đạo Ngô, La Quả thiền sư v.v…​ Nhất là La Quả thiền sư, dùng ngôn ngữ thô bạo kém văn hóa (Nhai lại đờm dãi).

Mặc dầu các thiền sư cố dùng khối nghi, mong đè bẹp được vọng tưởng để đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì, vì chính họ đã đi xa dần Giới Luật và Đức Hạnh giải thoát của đạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không có kết quả.

Trong cuối thế kỷ thứ 20 này, Thiền Tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi qua đó tham quan, để tìm xem có vị thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó, Thầy chúng tôi không gặp. (197)

Thiền sư có vợ

image

Thiền Đông Độ không tu giới luật, nên thiền sư Bạch Vân (Yasutani) Nhật Bổn, đã hướng dẫn tu thiền và khai ngộ cho người Tây phương rất đông. Tuy đã được thiền sư khai ngộ và đã tu hành chứng ngộ được đạo thiền, vậy mà họ lại kết hôn nhau làm thành vợ chồng (trong tập 3, Trụ Thiền của Philip Catro, do ông Đỗ Đình Đồng dịch).

Thiền sư Suzuki vẫn có những tác phẩm thiền (Thiền Luận) danh tiếng trong thế kỷ (198) 20 này, vậy mà Ngài có một người vợ Mỹ, thì thử hỏi tu thiền như vậy làm sao thoát khổ, chấm dứt tái sanh luân hồi được. Nhưng có người bào chữa cho thiền sư, cho rằng thiền sư có người vợ Mỹ để cùng nhau hợp tác mà viết ra những tác phẩm thiền bằng ngoại ngữ. Lời bào chữa này theo chúng tôi nghĩ không đúng. Vì Thiền sư Suzuki vẫn có những người bạn trai rất tâm đầu ý hợp. Qua việc làm của ông muốn phổ biến thiền sang Tây phương, thì hầu hết những người bạn trai này cũng sẵn sàng giúp ông. Nên lối bào chữa như vậy chỉ là một lý luận che đậy những sự phạm giới của ông trong đạo Phật. Thiền sư còn dâm dục thì làm sao mà tin họ giải thoát. Bởi nguyên nhân đau khổ là do ái dục, cớ sao người ta lại nuôi ái dục mà gọi là chứng ngộ thiền giải thoát. Còn ái dục thì làm sao hết khổ. Ái dục còn thì làm sao chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử được.

Hiện giờ, Thầy chúng tôi phục hồi giai đoạn đầu Thiền Đông Độ. Hòa thượng Duy Luật phục hồi giai đoạn cuối Thiền Đông Độ. Hòa thượng Duy Luật luôn luôn kích bác Thầy chúng tôi, đệ tử của họ đem cuốn Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 mổ xẻ, chống bác Thầy chúng tôi. Tôi nghĩ cũng buồn cười, một con rắn độc lấy cái đuôi chửi cái đầu. (199)

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và phật tử, những người tu Thiền Đông Độ hiện giờ đang trong cảnh chờ đợi chén rơi, bát đổ, mèo kêu, chó sủa, hoa rơi, lá rụng…​ để chứng ngộ đạo thiền. Chúng tôi không biết nghĩ như thế nào mà các thiền sinh đang phải ở trong cảnh chờ đợi như thế này. Quí vị cứ suy ngẫm.

Kính thưa quí vị, như chúng tôi đã nói ở trên, thiền sư Bách Trượng đã xác định Thiền Đông Độ không làm chủ sanh tử được, chỉ dùng những danh từ hoa mỹ và những câu chuyện huyền thoại về việc làm chủ sanh tử để lừa dối, bịp người sau. Thiền sư Thường Chiếu cũng xác định rõ ràng để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa:

Một hôm, thiền sư Thần Nghi hỏi thiền sư Thường Chiếu:

  • Bạch Hòa thượng, khi Hòa thượng trăm tuổi (chết) như thế nào?

Thiền sư Thường Chiếu bảo:

  • Ta chết như người thường.

Thiền sư Thần Nghi ngạc nhiên, hỏi:

  • Như vậy Bồ Đề Đạt Ma là sao?

Thiền sư Thường Chiếu đáp: (200)

  • Đó là bọn đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo.

Kính thưa quí vị, Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ nhất, Người đại diện cho Thiền Đông Độ và tượng trưng cho thiền phái này, là linh hồn của Thiền Đông Độ. Cho nên, hai thầy trò Thần Nghi ở đây không phải nói về cá nhân Bồ Đề Đạt Ma, mà nói thẳng về Thiền Đông Độ.

Như chúng ta đã biết, thiền sư Bách Trượng là một vị đại thiền sư danh tiếng nhất Trung Quốc. Chỉ riêng tiếng tăm của bộ Thanh Qui Bách Trượng cũng đủ cho ta biết ngài là một người điều khiển, chỉ huy cả một thiền đường lớn, chứ không phải nhỏ của Trung Quốc. Nên khi Ngài đã xác định Thiền Tông không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, thì chuyện cha con ông Bàng Long Uẩn chỉ là một câu chuyện huyền thoại.

Cũng như ở Việt Nam, thiền sư Thường Chiếu là một danh tăng, có nhiều uy tín trong dòng Thiền Đông Độ. Thế mà trong câu truyện trên, Ngài cũng đã thành thật xác định với chúng ta về dòng thiền này như vậy.

Thiền Trúc Lâm Yên Tử cũng thuộc dòng thiền Đông Độ, dòng thiền này truyền đến tổ (201) Huyền Quang là mất, mặc dù sau này có nhiều người muốn phục hồi lại nó, nhưng không thành tựu, chỉ vì họ chết cứng trong giáo điều thiền Trúc Lâm.

Tổ Pháp Loa trước khi tịch đau, rên hừ hừ, tổ Huyền Quang hỏi:

  • Sao Hòa thượng lại rên?

Pháp Loa trả lời:

  • Gió thổi qua khe trúc - và tống cho Huyền Quang một đạp.

Ở đây, quí vị tự suy ngẫm, gió thổi qua khe trúc có “thọ” hay không? Do có thọ Pháp Loa mới rên, nếu không thọ làm gì có rên. Tổ Huyền Quang đã chứng kiến cái chết của tổ Pháp Loa, cũng như chúng ta đã chứng kiến cái chết của Hòa thượng Th.H, Hòa thượng Th.H, Hòa thượng H.H, Hòa thượng B.H, Hòa thượng Th.T, và còn biết bao nhiêu vị tôn túc khác nữa. Từ đó, tổ Huyền Quang mới đem Mật Tông vào con đường thiền này, làm thơ vịnh hoa, bướm, khiến cho nhà vua và ông Mạc Đĩnh Chi phải nghi ngờ, mới dùng nàng Thị Bích thử Tổ. (202)

So sánh Chánh định và Tà định

image

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ, chúng ta so sánh hai thứ định: định của đạo Phật và định tưởng của ngoại đạo.

1- Định trời sét không giật mình, định của đức Phật (Nhị Thiền).

2- Định tiếng động 500 cỗ xe bò đi ngang qua, định của ngoại đạo, định tưởng. (203)

Ở đây, không phải chúng ta so sánh hai tiếng động lớn, nhỏ, mà so sánh ở trạng thái giật mình và ở mục đích giải thoát của định trời sét không giật mình. Định này của Phật, dù quí vị có đánh bể đồng loa thì cũng không xuất định. Trời sét không giật mình tức là định đã diệt sáu thức, cho nên cảm thọ không còn có, vì thế gọi là xả thọ. Xả thọ tức là diệt ái như chúng tôi đã nói ở trên, diệt ái tức là phải có định, mà định ở đây thì phải bắt đầu từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền. Tứ Thiền là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ, hay là làm chủ thọ, nên không còn giật mình.

Định Tứ Thiền là định xả thọ, còn định phá âm thanh là định Nhị Thiền, khi diệt tầm tứ thì sáu thức dừng nghỉ, không hoạt động, nên tai không còn nghe âm thanh, dù âm thanh có to như tiếng sét cũng không nghe vì đã diệt tầm tứ. Thiền định tưởng, dù định cao nhất của nó như định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng còn giật mình, trừ Diệt Thọ Tưởng Định thì âm thanh, sắc tướng đều bị diệt cả.

Cho nên các thiền sư, dù trong lúc nhập định mà tiếng đồng loa, tiếng chuông lắc vẫn (204) đánh thức họ khỏi định. Như thiền sư Hám Sơn lắc chuông tỉnh lại, thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định…​ đều là những định chưa diệt tầm tứ, chưa xả thọ, nên chưa làm chủ thân, tâm, chưa chấm dứt tái sanh luân hồi. Phần nhiều các thiền sư nhập vào định này đều còn tưởng dục.

Chúng tôi xin lưu ý quí vị một lần nữa, còn tưởng dục tức là còn mộng mị chiêm bao. Tất cả thiền sư Đông Độ đều còn chiêm bao mộng mị.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, thiền định nào để lại nhục thân được?

  • Thiền định nào cũng để lại nhục thân được, nhưng các loại định tưởng thì phải nhập những định cao hơn Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ.

Để lại nhục thân không phải mục đích của đạo Phật, nên đức Phật và các đệ tử của Ngài không có để lại, vì để lại nhục thân là còn có mục đích cầu danh trong đó, và đó cũng là một lối lừa đảo người đời sau.

Kính thưa quí vị, những điều chúng tôi đã phân giải ra đây là những điều chúng tôi đã trực tiếp thấy trong cuộc đời tu hành của (205) chúng tôi. Chúng tôi đã thấu suốt rất rõ ràng, từ đời sống tu sĩ, cư sĩ, và đến các pháp môn như thế nào đúng, như thế nào sai. Chúng tôi nói ra đây để Thầy chúng tôi và cũng như quí vị tăng, ni, phật tử hiểu rõ Phật pháp, để trở về đúng với con đường tu hành của đạo Phật. Chúng tôi không có ý xấu xa, bài bác mọi con đường, mọi pháp môn tu hành của quí vị, của Thầy chúng tôi. Chúng tôi nói ra những điều này là vì chúng tôi đã hiểu rất rõ ràng mọi pháp môn, mọi con đường tu hành từ Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông, Thiền Đông Độ đến kinh sách phát triển và Nam Tông, Thiền Minh Sát v.v…​

Chúng tôi không nỡ tâm, cứ ngồi nhìn quí vị tu hành ngày tháng qua mau, sanh tử gần kề; chúng tôi cũng không thể chịu được nữa. Phải nói! Nói ra dù có tan xương nát thịt; nói ra dù chúng tôi có như thế nào, chúng tôi cũng đành cam chịu. Nói để Thầy chúng tôi chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam, làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam, mà không theo lối mòn của thiền phá giới và sống một đời sống phi phạm hạnh.

Nếu Thiền Tông Việt Nam phục hưng với nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống (206) không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ tất cả các loài chúng sanh, thì ích lợi thiết thực cho loài người nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng, và thiền đức này sẽ sống mãi muôn đời trên thế gian này.

Kính thưa quí vị, khi chúng tôi nói ra điều này, thì quí vị khó mà được gặp chúng tôi nữa.

Tại sao? Chúng tôi nói ra vì Phật pháp, vì sự tồn vong của Phật pháp, chứ không phải nói ra vì danh, vì lợi, vì tranh hơn thua cao thấp với quí vị, với Thầy chúng tôi. Chúng tôi đã xả bỏ hết danh lợi của cuộc đời. Cho nên, chúng tôi chẳng quản quí vị biết đến chúng tôi. Biết đến chúng tôi để làm gì? Chúng tôi sẽ ẩn bóng, để Thầy và huynh đệ chúng tôi hướng dẫn quí vị trên đường tu hành của đạo Phật. Tu viện Chơn Như chúng tôi sẽ trao lại cho Cô Út Diệu Quang, khi cô nhập xong Tứ Thiền, cô sẽ đứng ra hướng dẫn các cháu con của những người cư sĩ quyết tâm theo cô tu hành. Tu viện này sẽ trở thành tu viện nữ cư sĩ, thì lúc bấy giờ chúng tôi sẽ không còn ở lại đây nữa, nếu cô vững vàng trên sự hướng dẫn. Còn cô chưa đủ khả năng thì chúng tôi chưa đi xa vội, mà chờ có người tu chứng được chân lí. (207)

Kính thưa quí vị, tại sao chúng tôi phải ẩn bóng, bỏ các vị mà đi? Xin thưa cùng quí vị, có hai điều kiện:

Thứ nhất, khi chúng tôi còn ở lại, quí vị sẽ hiểu lầm chúng tôi là những người đem kinh nghiệm tu hành của mình đã đạt được ra tranh chấp hơn, thua với quí vị và Thầy chúng tôi.

Thứ hai, chúng tôi không muốn manh mún, chia chẻ Phật pháp thành nhiều đoàn thể, phe nhóm và nhiều tông phái khác nhau, để làm tan nát ngôi nhà Phật giáo. Từ xưa đến nay, Phật giáo đã bị tâm danh lợi của loài người chia rẽ tan nát. Phật giáo đã mang trên mình hơn 20 vết thương bộ phái, từ khi đức Phật nhập Niết Bàn. Bây giờ, chúng ta không thể làm thêm một vết thương nữa. Xin quý vị thông cảm và hiểu cho.

Kính thưa quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, chúng tôi chỉ muốn những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi được trao lại cho một vị thầy có đức độ, có uy tín, có giới luật với quí vị, để vị thầy ấy xây dựng lại ngôi nhà chánh pháp của đạo Phật. Theo chúng tôi tự nghĩ: những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi chỉ là những viên gạch nhỏ bé, để chúng ta là những người con Phật phải xây dựng lại ngôi nhà Phật (208) giáo, mà từ lâu vô tình chúng ta đã bị ảnh hưởng mọi chiều hướng của các giáo phái ngoại đạo, và bị ảnh hưởng những phong tục tập quán của dân tộc các nước trên thế gian này, đã khiến cho tòa nhà đạo đức Phật giáo sụp đổ tan tành, chỉ còn lại những giáo pháp lai căng, trừu tượng, ảo giác, siêu hình mang cái tên Phật giáo. Thật là đau xót vô cùng, đây là một nỗi đau đớn đứt từng khúc ruột, nhức nhối tận tâm can chung của những người con Phật.

Bây giờ chúng ta phải làm gì??? Hay cứ lấy mắt nhìn Phật giáo với những nỗi xót xa, chết dần mòn trong tâm chúng ta!!! (209)

--o0o--

Tiếng nói của hoà thượng Minh Châu về Phật Giáo

image

Kính thưa quý phật tử! Chúng tôi là những hành giả, nhà tu hành, chứ không phải là học giả, nhà nghiên cứu, cho nên, khi nói về Phật giáo là nói về kinh nghiệm tu (210) tập của mình. Còn nhà học giả khi nói về Phật giáo là nói về sự nghiên cứu của mình.

Những gì chúng tôi đã nói ở trên là những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi mà quý phật tử đã được đọc. Vậy bây giờ, chúng tôi xin mời quý phật tử hãy đọc lời nói của Hòa thượng Minh Châu, một học giả Phật giáo Việt Nam danh tiếng nhất trong thời đại này. Ngài là người đầu tiên dịch tạng kinh Pàli ra ngôn ngữ Việt Nam.

Đoạn trích dưới đây ở trong tập sách “Chánh Pháp và Hạnh Phúc” của Hòa thượng Minh Châu, được nhà xuất bản Tôn Giáo in vào tháng 6 năm 2001.

Đây, Hòa thượng Minh Châu viết:

Khi chúng tôi bắt đầu dịch kinh Pàli ra tiếng Việt, có người bảo là một phận sự thuần chất tôn giáo, không dính gì Đại học. Có người khắt khe hơn lại chỉ trích: “Đang làm viện trưởng một viện Đại học mà dịch kinh là sẽ có hại cho trách nhiệm điều khiển một Đại học”. Chúng tôi muốn chứng minh rằng dịch kinh như chúng tôi đang làm cũng là một dịch vụ Đại học, không những không có xung khắc mâu thuẫn, mà chính tiêu biểu tốt đẹp cho thâu hóa kiến thức và văn hóa (211) nhân loại, và phát huy tinh thần cầu tiến, nghiên cứu sáng tạo của Đại học.

Trước hết, dịch kinh như là một phận sự chính của những vị tu hành đi qua Ấn Độ tu học. Như ngài Pháp Hiển người Trung hoa, đi qua Ấn Độ và Tích Lan vào thế kỷ thứ tư để lại một số dịch phẩm quan trọng có thể dịch từ chữ Sanskrit, Prakrit, Pàli qua chữ Hán. Ngài Huyền Trang, một nhà chiêm bái Trung Hoa thế kỷ thứ 7, đã du học trên 17 năm, và khi về nước đã dịch tất cả là 77 bộ kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán. Rồi đến ngài Nghĩa Tịnh người Trung Hoa vào thế kỷ thứ 8 cũng đi qua du học tại Ấn Độ với một nhà sư Việt Nam, ngài Đại Thặng Đăng và khi về dịch từ tiếng Phạn qua chữ Hán. Còn các vị sư Ấn Độ qua Việt Nam và qua Trung Hoa cũng dịch kinh từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa, và những bậc dịch sư có danh tiếng như ngài Sanghadeva (Tăng già đề bà), đã dịch tập Trung A Hàm. Ngài Cưu Ma La Thập đã dịch tập Ma ha bát nhã, Diệu pháp liên hoa vv…​

Chính công trình của quý vị dịch sư này đã xây dựng nên Tam Tạng Kinh Trung Hoa, một dịch Tạng phong phú nhất trong các dịch Tạng. Thật sự vấn đề dịch kinh điển là một công trình văn hóa hơn là (212) một công trình tôn giáo, và ba tạng giáo điển Phật giáo không những phong phú nhất về lượng và cũng dồi dào nhất về những uyên thâm triết lí và tinh vi nhất về những phương pháp tu hành. Những danh từ “Dhammacakkam pavatteti” (chuyển pháp luân) “Dhammam deseti” (thuyết pháp) mang nặng tính cách trao truyền chân lý, truyền thừa pháp môn, và vì vậy phiên dịch kinh điển là một dịch vụ thuần túy văn hóa và rất phù hợp với công tác Đại học.

Khi chúng tôi dịch từ tiếng Pàli ra tiếng Việt là chúng tôi muốn giới thiệu ba Tạng Pàli cho các phật tử và học giả Việt Nam, một Tam Tạng kinh điển rất phong phú, rất gần với lời dạy nguyên thủy của đức Phật, lại được phổ biến rất rộng rãi khắp năm châu, qua công trình dịch thuật của hội Pàli Text Society, London. Chúng tôi lại đặc biệt dịch kinh Tạng, là một trong ba Tạng được xem là ghi chép trung thành và thuần túy nhất những lời dạy nguyên thủy của đức Phật. Từ trước cho đến nay, tuy có một số kinh điển được dịch từ chữ Pàli ra tiếng Việt, nhưng phần lớn là trích dịch, và các kinh được dịch phần lớn dùng để tụng đọc trong các nghi lễ nên có tính cách tôn giáo nhiều (213) hơn, ở nơi đây chúng tôi cố gắng dịch trọn vẹn, không bỏ qua một kinh nào, và dịch có in nguyên bản Pàli đối chiếu với dụng ý để người học có thể tự mình tìm hiểu nguyên nghĩa của từng chữ, từng câu, khỏi rơi vào những giải thích hay lệch lạc của người dịch. Kinh Pàli được bắt đầu giới thiệu cho người Việt Nam, và người Việt Nam lần đầu tiên được đọc thẳng kinh tạng Pàli bằng tiếng Việt có nguyên bản Pàli đối chiếu.

Không những chúng tôi giới thiệu kinh tạng Pàli cho các phật tử và học giả Việt Nam tụng đọc, chúng tôi còn cống hiến cho các học giả Việt Nam những tài liệu nghiên cứu và tham khảo để viết những tham luận về Phật giáo. Từ trước các học giả có viết về Phật giáo chỉ có thể trích dẫn các sách do các người ngoại quốc viết về Phật giáo, khó có thể tham chiếu từ tạng Pàli hay tạng Hán, và như vậy có thể hiểu lầm và sai lạc. Nay các học giả có thể trích dẫn nơi bản dịch từ văn Pàli ra tiếng Việt của chúng tôi, lại có thêm nguyên văn Pàli đối chiếu. Như vậy sự trích dẫn được chính xác và khỏi lệch lạc.

Khi chúng tôi giới thiệu kinh tạng Pàli với các bản dịch năm bộ Nikàya (Trường Bộ kinh, Trung Bộ kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Nhất Bộ kinh, Tiểu Bộ kinh (214)), chúng tôi gián tiếp giới thiệu bốn bộ A Hàm là Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và vô số kinh tương đương khác thuộc nhiều học pháp khác mà từ trước đến nay, rất ít người tham khảo.

Trường A hàm được Hoà thượng Thích Thiện Siêu dịch ra Việt văn nhưng không được đầy đủ. Trung A Hàm được Hoà thượng Thích Thanh Từ và Đại đức Tuệ Sĩ dịch ra Việt văn, nhưng chỉ dịch một số kinh và cũng chưa in thành sách. Bản chữ Hán tuy có học tại các Phật học Viện, nhưng cũng chỉ trích học. Bản chữ Hán được dịch vào thế kỷ thứ 2 sau kỷ nguyên nên rất xưa và khó hiểu và ít được có người tham khảo. Chúng tôi xin kể sơ một ít danh từ được ngài Sanghade đã dịch từ tập Màdhỳamàgama (Trung A Hàm) ra chữ Hán. Như chữ Vedanà dịch là giác, sau dịch là thọ. Savitakka, Savicàra, Ngài dịch là hữu giác, hữu quán, về sau dịch là hữu tầm, hữu tứ. Phassa, Ngài dịch là cánh lạc, về sau dịch là xúc.

Chúng tôi hy vọng, sau bản Pàli được trích dịch thời nhiều đoạn A Hàm tương đương được sáng nghĩa hơn, và sẽ có nhiều vị tiếp tục dịch các bộ A Hàm một cách trọn (215) vẹn và đầy đủ, bốn bộ A Hàm và một số rất nhiều bài kinh chưa được phân loại là những tài liệu rất quý giá đề cập đến các học phái, mà nay hình như chỉ có ông André Bareau người Pháp nghiên cứu.

Chúng tôi hy vọng, trong một thời gian gần đây sẽ có một số học giả nghiên cứu đến những tài liệu này, và sẽ khám phá rất nhiều tài liệu Phật giáo mới lạ và hy hữu. Cho nên, khi dịch các tài liệu Pàli, chúng tôi hy vọng mở đường cho nhiều nghiên cứu khác đặt nặng vào bốn bộ A Hàm và các kinh điển khác rải rác trong Tam Tạng Pàli. Chúng tôi gián tiếp giới thiệu kinh Tạng A Hàm và tương đương, và sự đóng góp này mang nặng tính chất vừa văn hóa, vừa Đại học.

Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng tôi không mong muốn gì hơn là để các phật tử, các học giả, các sinh viên được đọc thẳng vào kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và sự tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những học giả và những phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. (216)

Muốn chạy theo dục vọng, thì giải thích kinh điển một cách dễ hiểu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn bênh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết!

Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là phổ biến những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào. Đạo Phật cần những cá nhân phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình.

Chính kinh Đại Bát Niết Bàn, trang 124 - 126, tập III, có ghi rằng, dù chúng ta có nghe vị Tỳ kheo nào nói tự thân nghe đức Phật, tự thân nghe các vị Thượng tọa, Thủ chúng vv…​ (217) nói như vậy là pháp, như vậy là luật, đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đã kích, chấp thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với kinh, đối chiếu với luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu suy tư, khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của đức Phật.

Chúng tôi dịch kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển có thể được xem là nguyên thủy, hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung Hoa, hay Việt Nam.

Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sao khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có (218) thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải Đạo đến để nhờ người thấy hộ. Đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Đạo của người nhắm mắt, Đạo của người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là Đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.

Thật sự, chúng tôi chỉ mong rằng, quý vị đọc thật kỹ và suy tư thật chín chắn, những đoạn mà chúng tôi phiên dịch rồi quý vị hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là những đoạn “Tiểu thừa”, dành riêng cho những vị có tiểu tâm, chỉ tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác không biết giác tha. Như chúng tôi đã phân tích trong lời giới thiệu bản dịch tập “Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa” chúng ta đừng có mắc bẫy các vị Bà La Môn Ấn Độ giáo, tìm cách gán cho chữ “Tiểu thừa” để loại ra ngoài những lời Phật dạy căn bản, như một số phật tử Đại thừa đã bị mê hoặc, không dám đọc những lời Phật, vì bị gán nhãn hiệu Tiểu thừa. (219)

Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam Tạng Pàli, nhưng một số phật tử cũng rơi vào nạn tương tự, là chỉ học luật tạng và A Ty Đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pàli, vì xem A Ty Đàm tạng mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa Đế, còn kinh tạng chỉ bàn đến Tục Đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A Ty Đàm phát xuất từ kinh tạng, và bỏ để tìm ngọn thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá.

Thật sự đạo Phật đâu có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa, đâu có chia đôi Chân đế Tục đế. Những sự phân chia này chỉ là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà la Môn mang danh phật tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật, không cho phật tử học và tu, hay của một số đệ tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái, nên đề xướng các chủ thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.

Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm tìm đọc và tìm hiểu những lời dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắng phiên dịch kinh tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chín chắn và rồi chính (220) chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.

Đây là sự đóng góp của Viện đại học Vạn Hạnh vào nền văn hóa Phật giáo bằng cách giới thiệu một cách đầy đủ và trung thực những tài liệu tiếng Việt quý báu nhất về kinh tạng Pàli, vừa cho các Phật tử tìm hiểu, thực hành và thực chứng, vừa giúp các học giả Phật giáo có những tài liệu tham khảo khá đầy đủ và trung thực. Viện đại học Vạn Hạnh là môi trường đầu tiên nếu không phải là độc nhất, đã cố gắng giới thiệu kinh tạng Pàli cho phật tử Việt Nam, học giả Việt Nam, dân chúng Việt Nam. Viện đại học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở đường cho một cao trào nghiên cứu đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học phái hay của Bà La Môn giáo. Điều quan trọng hơn nữa, Viện đại học Vạn Hạnh khuyến khích các học giả và các Phật tử, tự mình mở mắt tìm hiểu, suy tư đối chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp nhận, trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, để làm sáng tỏ những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.

Kính thưa quý phật (221) tử! Khi đọc xong tiếng nói của Hoà thượng Thích Minh Châu, một vị Hoà thượng đáng tôn kính nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện nay, Người đã dám chỉ thẳng, nói cái sai của Phật giáo hiện giờ để cảnh giác mọi người, thì quý phật tử hãy tự suy ngẫm, rồi chọn cho mình một con đường đúng chánh pháp của Phật, để xây dựng cho mình một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Đó là điều ước nguyện của chúng tôi khi biên soạn tập sách này. Mong sao mọi người trên hành tinh này sẽ sống và sống được như vậy thì chúng tôi mãn nguyện.

Điều ước nguyện cuối cùng của chúng tôi là mọi người nên sống cho chính mình. Vậy sống cho chính mình là sống như thế nào?

Sống cho chính mình là sống có phương pháp hẳn hoi. Hằng ngày phải sống với tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, muốn sống được với tâm này thì phải dùng phương pháp tác ý. Tóm lại, cách thức tu tập hằng ngày như sau:

Khi chúng ta đi, đứng, nằm, hay ngồi đều nên tác ý giữ gìn tâm Bất Động. (222)

  • Thứ nhất, phải nhận ra tâm Tỉnh Thức hoàn toàn, không có hôn trầm, thùy miên, vô ký.

  • Thứ hai, phải nhận ra được tâm Bất Động.

  • Thứ ba, phải thiện xảo trong pháp như lý tác ý.

Đến đây, chúng tôi xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, gửi lời thăm và chúc cả gia đình của quí vị sức khỏe dồi dào, thân tâm thường vui vẻ.

HẾT (223)

image

image

(224)GIỚI LUẬT

Ai sống trong giới luật

An trú không phóng dật

Đoạn tận cùng sống chết

Sẽ chấm dứt khổ đau

--o0o--

Giới như người mắt sáng

Tránh khỏi lối hiểm nghèo

Bậc có trí trong đời

Dùng giới xa ác pháp

Lời Phật Dạy


Trích dẫn - Ghi chú - Copy