Mục Lục

Đánh Dấu

00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(01:59:33)

PHONG TỤC, TẬP QUÁN, MÊ TÍN

ĐẤT CÓ THẦN LINH, SÔNG CÓ HÀ BÁ

Hỏi: Kính bạch Thầy, trong dân gian và các chùa từ xưa đến nay họ vẫn nói câu: “Đất có thần linh, sông có hà bá”, và nhà nhà ai ai cũng có một bát hương thờ những vị thần đó.

Từ xưa đến nay, người trước truyền cho người sau, gây một ấn tượng sâu sắc vào tâm hồn của mọi người về thần linh của thế giới siêu hình. Những vị thần này có đủ quyền hành trong tay, làm thịnh, làm suy nếu ai không thờ cúng họ, thờ cúng thì phải có rượu thịt hàng đầu. Vậy con xin Thầy dạy bảo: “Việc hiểu của dân gian trong thiên hạ như vậy có đúng không? Có ông Thần linh đó hay không? Hiện giờ, mỗi người phải làm gì với tục lệ này để đúng với ý nghĩa chánh pháp mà không lạc vào mê tín dị đoan.

Còn các chùa miền Bắc có tục lệ thờ đủ thứ Phật như: Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật Quan Âm, Phật Dược Sư, Phật Đại Thế Chí, Phật Văn Thù Sư Lợi, Phật Phổ Hiền[1] (90), v.v…​ còn bên mặt thì thờ Đức Ông Quan Thánh Đế Quân và bên trái thì thờ Bà Chúa Tiên, Chúa Sứ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề, Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn, phía sau thờ Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng, tức là ông giám trai, phía trước thờ ông Thiện, ông Ác và Hộ Pháp.

Thường trong chùa đều cúng dâng hoa quả, nhưng đặc biệt cúng Đức Ông là phải rượu thịt. Vậy việc thờ phụng trên có đúng chánh pháp không? Và mỗi khi đến chùa chúng con phải cúng dàng như thế nào cho đúng chánh pháp? Xin Thầy từ bi dạy bảo cho chúng con được rõ.

Đáp: “Đất có Thần Linh, sông có Hà Bá”, đó là câu tục ngữ mê tín của dân gian đã được truyền tụng từ xưa đến nay. Người xưa trí hiểu biết còn thấp kém, sống trong các bộ lạc, đứng trước thời tiết nắng, mưa, gió, bão, núi sông, đất đai, rừng rú, ao hồ, thú vật, v.v…​ quá khiếp đảm, thấy con người quá nhỏ nhoi, cho nên người xưa đặt: Đất thì có thổ thần, núi thì có thần núi, tiền bạc thì có thần tài, mưa thì có thần mưa, gió thì có thần gió, cây thì có mộc thần, lửa thì có hỏa thần, sông thì có Hà Bá, giếng thì có bà Thủy Long, sấm chớp thì gọi là thần sấm, thần sét, v.v…​ Tất cả những vị thần trên đây đều do trí tưởng tượng dựng lên, chứ những vị thần này không bao giờ có, vì thế giới siêu hình cũng không có.

Muốn cho đúng ý nghĩa và đạo đức làm người thì đối với đất chúng ta không nên bỏ hoang, mà phải ra công sản xuất làm ra nhiều thực phẩm thì không phụ lòng của đất. Đó là biết ơn đất, còn người nào bỏ đất hoang, không trồng tỉa, chăm nom, không lo sản xuất ra thực phẩm, đó là (91) những người phụ ơn đất. Thờ cúng đất như một ông thần linh bằng thịt, heo, bò, gà, vịt, cá, tôm, v.v…​ đó là mê tín, lạc hậu, ngu si, chỉ là người không có trí hiểu biết chân chánh, hiểu biết như thật. Bởi vì không bao giờ có ông thần đất nào cả, mà chỉ có đất giúp cho con người sản xuất ra thực phẩm để nuôi sống đúng theo đạo đức nhân quả. Ca dao Việt Nam có câu kêu gọi chúng ta đừng quên ơn nghĩa đất:

“Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”

Ý nghĩa câu ca dao này đã nói lên lòng yêu quý và tôn trọng đất đai đúng với tinh thần đạo đức nhân quả làm người của dân tộc Việt Nam thời xưa, chứ không phải mê tín thờ thần đất (Thổ thần), thần sông (Hà Bá) như những người dân còn lạc hậu trong vùng rừng núi xa xôi của thời xa xưa. Người biết ơn đất thì không bao giờ bỏ ruộng đất hoang, đất là sự sống, là vàng là bạc của con người, đất thương người như người mẹ hiền, đất không phụ lòng người, nhưng người phụ ơn đất. Người thờ cúng bái lạy đất, xem đất như thần linh, đó là phụ ơn đất, đó là đã biến đất thành một người vô đạo đức.

Sông và nước, nước từ trên nguồn đổ xuống chảy khoét thành sông, sông là đường đi của nước để ra biển, nước từ biển bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh thành nước, nước rơi xuống nguồn, từ trên nguồn nước đổ theo sông ra biển, đó là sự tuần hoàn của nước, chứ nào có thủy thần (Hà (92) Bá) ở đâu? Người ta cúng tế Hà Bá là vì sóng nước mênh mông gào thét ầm ì ghê rợn, khiến cho người ta quá sợ hãi vì mạng sống con người ở trên sóng nước như sợi chỉ mành treo chuông, dễ dàng chết trong chớp mắt. Vì thế, người ta tưởng ra một vị thần ở trong nước (Hà Bá), có thể phù hộ hay giết hại những người nào ngang tàng, không cúng tế, bái lạy khi ở trên sông nước.

Sông là lộ trình của nước để nước đi ra biển, chứ sông nước không có thần linh gì cả, sông nước có thần linh là do tâm tưởng của con người tạo ra. Sông nước là môi trường sống của loài thủy tộc, nếu không có sông nước thì loài thủy tộc không thể sống được.

Trong chùa thờ cúng nhiều tượng Phật là thờ cúng không đúng chánh pháp. Trên thế gian này duy nhất chỉ có đức Phật Thích Ca Mâu ni là một vị Phật có lịch sử chân thật của loài người. Còn tất cả các vị Phật khác đều là Phật giả tưởng của người sau đặt ra, đó là những nhân vật truyền thuyết, nhân vật tiểu thuyết không thật có. Thờ những tượng Phật không có lịch sử chân thật là thờ cúng mê tín, thờ cúng trong vô minh, không đúng chánh pháp, là thờ cúng theo kiểu ngoại đạo.

Các con là đệ tử của Phật, các con phải thờ cúng đúng chánh pháp. Thờ cúng đúng chánh pháp là thờ cúng trong tinh thần đạo đức nhân bản làm người, nghĩa là thờ cúng trong sự tôn (93) kính và biết ơn, chứ không phải thờ cúng theo kiểu mê tín, cầu khấn phù hộ.

--o0o--

CẦN XẢ BỎ MÊ TÍN, LẠC HẬU

Hỏi: Kính thưa Thầy, đời thường của cư sĩ tại gia chúng con thường xuyên phải va chạm nhiều vấn đề, nếu không cẩn thận thì phạm giới. Hiện giờ, chúng con cứ lo tu tập sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả. Những việc ma chay và cưới xin, nói chung là tất cả phong tục, tập quán đều có thể ảnh hưởng đến việc tu tập của chúng con không ít, mà trong giáo án của Thầy không có dạy. Vậy cúi xin Thầy từ bi lân mẫn chỉ dạy cho chúng con.

Đáp: Là đệ tử của Phật, dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải theo lời dạy của đức Phật, lần lượt xả bỏ không những thế giới siêu hình mà còn xả luôn cả thế giới hữu hình.

Bởi vậy, nếu đúng theo tinh thần của Phật giáo, thì trong gia đình người cư sĩ đệ tử của đức Phật, việc ma chay và cưới xin phải giản đơn và không sát sanh, không nên tổ chức linh đình, vì chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người bất hạnh thiếu cơm ăn, áo mặc. Tổ chức đám tiệc (94) thực phẩm trai tịnh, thanh khiết, trang nghiêm, thanh tịnh, không được làm ồn náo, ầm ĩ, ca nhạc phải khéo chọn những bài hát có ý nghĩa sâu kín của người Á Đông, nói lên được sự hạnh phúc của đôi tân hôn với truyền thống Việt Nam, phải trang hoàng, thanh nhã, lịch sự, không quá cầu kỳ.

Tổ chức ma chay không được trống kèn ầm ĩ, ca, xướng, hát, tán tụng, hò hét, đàn địch, phải giữ gìn im lặng, trang nghiêm. Cúng bái, tế lễ phải nghiêm túc, hết sức, phải có tôn ti trật tự hẳn hòi, không nên tổ chức ầm ĩ cả ban đêm, ảnh hưởng trật tự an ninh và sức khỏe của mọi người.

Tổ chức đám cưới, tuy có ca hát, nhưng không được ca hát quá trớn, biết rằng đám cưới là đám vui, vui trong đạo đức lành mạnh của người dân Á Châu. Cho nên, phải chọn những bài ca chúc tụng, những bài ca có tình, có nghĩa, ca ngợi những lòng chung thủy, không được dùng những bài ca nhảm nhí, thương vay, khóc mướn, tình tứ bi thảm. Điều cấm kỵ nhất trong đám cưới cũng như đám tang, không được chè chén, say sưa, tiếng qua, tiếng lại, tranh luận hơn thua, hoặc la hét chửi mắng hoặc đấm đá nhau, v.v…​ Phải giữ gìn im lặng, trang nghiêm, để bầu không khí thiêng liêng trong những giờ phút chia vui đám cưới, chia buồn đám tang thêm đầy đủ ý nghĩa…​

Nếu tất cả mọi việc đều giữ được sự trang nghiêm, thanh tịnh và không làm theo sự mê tín, dị đoan của kinh sách Đại thừa và phong tục tập (95) quán dân gian, thì sự tu tập theo đạo Phật rất dễ dàng. Trong việc ma chay và cưới hỏi, nếu không giết hại chúng sanh làm cỗ bàn, thì sự tu tập rất là an tịnh, tinh thần thoải mái, thanh thản và an lạc.

Nếu tổ chức ma chay và cưới xin đúng cách theo đạo Phật, thì mọi người trong gia đình đều được an vui, hạnh phúc. Vì tạo nhân làm điều thiện và đơn giản, nên sau khi đám tiệc xong rồi, người trong nhà không có ai nợ nần, và không có thấy máu chúng sanh đổ, nên tâm hồn thảnh thơi. Vì tổ chức làm đám giản đơn nên mọi người không mệt nhọc, không bề bộn, cả nhà đều được khỏe khoắn, an vui.

Ở đời, người ta chạy theo những lời khen, chê ngoài miệng: “Nhà đó tổ chức đám tiệc linh đình, ầm ĩ, không có gia đình nào hơn được”. Chỉ là những lời khen rỗng tuếch đó, mà tất cả mọi người trong gia đình đều mệt nhọc và khổ sở, lại còn mang nợ nần và gieo nhân quả ác khác nữa. Đám tiệc xong, có khi mọi người trong gia đình phải đau bịnh. Thật là vô minh, u tối, chỉ có một lời khen hão mà con người từ xưa cho đến nay đều ngu si chạy theo danh hão đó, nên bảo sao đời người khổ là vậy.

Theo đạo Phật chỉ cầu sự giải thoát, còn tất cả phong tục, tập quán, dù có truyền thống lâu đời, ta vẫn tổ chức rất đơn giản, không chạy theo xu hướng của người khác. Cứ làm y theo sự đơn giản mà đức Phật đã chỉ dạy, còn tất cả những phong (96) tục nào mê tín, lạc hậu, thì mạnh mẽ, cương quyết không chấp nhận, đình chỉ, phá bỏ, nhất định không tổ chức những điều mê tín đó. Mục đích đập, phá như vậy là để giúp cho con cháu đời sau đỡ hao tài, tốn của một cách vô ích và phi lý.

Người cư sĩ đệ tử của Phật phải sáng suốt nhận định, cái nào đúng có lợi ích cho mình, cho người, và những việc làm nào không làm khổ mình, khổ người thì hãy duy trì và giữ gìn bảo vệ những phong tục đó, để mang lại cho cá nhân, gia đình, xã hội và đất nước một sự an vui, thanh bình, trật tự, hạnh phúc và phồn vinh. Ngược lại, những phong tục mê tín, lạc hậu nào làm hao tiền, tốn của, chẳng ích lợi gì, mà còn gây tai hại, tạo nhân ác làm đau khổ mọi người và chúng sanh thì ta phải phá bỏ và dẹp sạch để, làm lợi ích cho con cháu về sau không bị ảnh hưởng cha truyền, con nối, hoặc theo kiểu “Tổ Tổ truyền nhau”.

--o0o--

LẠC HẬU, MÊ TÍN, TIỀN MẤT, TẬT MANG

Hỏi: Kính thưa Thầy, con có một việc xin trình lại thầy, mong Thầy từ bi chỉ giáo cho con được rõ. Thưa Thầy, một việc vừa xảy ra trong gia đình anh ruột người bạn đời của con. Tháng (97) chín năm ngoái, anh này có làm một gian nhà cho con trai anh, móng nhà có sẵn, chỉ cần thêm và bổ túc xây lên hai tầng và một tum nhỏ ra sân thượng. Năm ngoái, anh 71 tuổi và con trai là 40 tuổi. Cháu này đến gặp con và có trình bày hai tuổi này, con theo sách nhà Phật dạy con, bảo: Theo cô thì ngày nào cũng tốt, năm nào cũng tốt, giờ nào cũng tốt, cô thấy như vậy, mà có sao thì do nhân quả thôi. Bố cháu già rồi, lo gì Kim Lâu? Thế là cháu nó nghe lời con bảo, thì cũng cho qua Kim Lâu và bắt tay vào làm, đến tháng 12 là vừa xong nhà. Cháu có bảo mời cô lại lễ Phật cho, vì nhà cháu có thờ Phật, chính do con chỉ dẫn thờ Phật.

Tất cả từ nhỏ đến lớn, cháu trai này đều tin tưởng nơi con và thành tâm lễ bái, nhưng trong thành tâm cháu còn mê tín xen vào như: phù hộ, cầu khẩn, v.v…​ đã có nhiều lần con giải thích với cháu là không nên mê tín, nhưng kết quả cũng chưa giác ngộ là bao nhiêu.

Sự việc xảy ra trong khi con đi Sài Gòn (về Tu Viện), lúc trở về Hà Nội thì bố của cháu đã đi nằm viện được 10 ngày. Bịnh tình càng ngày càng nặng, thấy thế, con góp ý là nên lo thuốc thang và thầy giỏi, nếu còn duyên thì khỏi, mà chẳng may bố cháu hết duyên thì chẳng làm thế nào được cả? Nhưng các cháu cuống cuồng đi xem bói, chia ra ba ngả:

1- Ngả đi hỏi cô đồng. (98)

2- Ngả đi hỏi ông thầy ở Huế gọi điện thoại vào.

3- Ngả đi gọi ông thầy địa lý về xem đất cát xây nhà.

Thưa Thầy, trong vòng một tuần con thật sự mất bình tĩnh, vì nghe các cháu kể là bố cháu tự nhiên sốt xong chân phù nề, bụng to lên, da vàng. Đi làm xét nghiệm thì bác sĩ đều nói là chưa tìm ra bịnh gì cả, sốt do đâu cũng không rõ. Càng ngày bịnh càng tăng lên, cháu phải đi sắm lễ may ra mới khỏi.

Lúc này, con khuyên các cháu nên bình tĩnh, việc gì đến cũng phải bình tĩnh giải quyết. Cuối cùng, các cháu và các chị gái và em dâu của ông này đồng tình đi xem và làm lễ. Họ đều nói giống nhau, là nếu ông sống qua ngày 30 đến sáng ngày mùng 1 tháng tư này thì sẽ qua khỏi. Và ông thầy địa lý bảo là động long mạch vì làm nhà, và họ đều nói với lý do là không ai làm nhà vào hai tuổi Kim Lâu (cả bố và con đều tuổi Kim Lâu).

Thưa Thầy, kết quả là tiền mất và ông anh con vẫn ra đi trong đau đớn trên giường bịnh, kéo dài thêm một tuần nữa sau khi các vị làm ba cái lễ. Bác sĩ họ tạm kết luận là bịnh gan.

Lúc mất rồi lại đi xem ngày mất có phạm vào đâu không? Hai nơi họ nói giống nhau là ông này chết có 3 nhập mộ (có nghĩa là có ba người chết theo). (99)

Nhưng họ không quên bảo cháu của con phải mua bùa về yểm. Ở Hà Nội có chùa Liên Phái ở phố Bạch Mai chuyên bán bùa yểm, đến đây mua về yểm vào quan tài và mộ, vì năm nay vợ ông này hạn nặng lắm, con trai cả cũng thế.

Đến khi chết được ba ngày, lại mời ông sư về nhà tụng kinh cầu siêu cho vong. Và cứ như thế bảy ngày một lần cúng, cho đến 7 tuần là 49 ngày thì mới xong.

Thưa Thầy, con chỉ còn biết im lặng và tùy thuận để các cháu làm. Việc làm của con từ đầu (xây nhà) cho tới cuối cùng im lặng như thế con có lỗi gì với đạo Phật hoặc với gia đình không thưa Thầy? Con mong Thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con để thân tâm con được an ổn, đây là bài học bổ ích cho con về sau này. Thưa Thầy, con phải làm như thế nào cho đúng pháp của Phật?

Đáp: Hoàn cảnh xảy đến của gia đình anh con, con không có lỗi gì cả với Phật giáo và gia đình, mà khả năng con không đủ lôi kéo mọi người ra khỏi bàn tay ác độc của Đại thừa giáo.

Nó đã truyền thừa những điều mê tín, những điều phi đạo đức đã ăn sâu vào cốt tủy của con người, trong gia đình ông anh của con và còn biết bao nhiêu gia đình khác nữa. Nó đã mang đến cho xã hội một ít tốt đẹp để làm bề mặt đạo đức giả, ngõ hầu để không ai thấu rõ sự lừa đảo của nó mang lại cho xã hội trùng trùng đau khổ. (100)

Các nhà tà giáo học kinh sách Đại thừa, lợi dụng gia cảnh người khác đang gặp nhân quả khó khăn để làm tiền bất chánh. Tuổi 71 và 40 cất nhà làm sao bị Kim Lâu, những người thầy này xem sách nào gạt người như thế? Dương Trạch, Bát Trạch, Thông Thư, Ngọc Hạp, Trần Tử, v.v…​ Tất cả sách xem ngày, giờ tốt, xấu; dựng vợ, gả chồng, cất nhà, xây mồ mả, v.v…​ Sách nào dạy điều này? Theo kinh sách coi ngày giờ tốt, xấu thì tuổi 40 cất nhà được “tứ tấn tài”, tuổi 71 cất nhà được “đại kiết lợi”, sao quý Thầy này lại bảo là “Kim Lâu”, sách vở nào? Ở đâu?

Khi nào cất nhà bị Kim Lâu là nhà cất đủ bốn dài, còn hai dài, ba dài, năm dài thì không bị Kim Lâu. Vả lại, cất nhà theo kiểu thời đại hiện giờ, vi la, biệt thự, phố, v.v…​ thì không bị Kim Lâu, vì không đủ bốn dài.

Còn ông Thầy nào dám bảo động Long mạch, khi mà nền móng đã có sẵn làm sao mà động Long mạch được. Phải chi nền móng chưa có, động thổ làm nền móng thì động Long mạch có lý. Toàn bộ các cháu đều bị những kẻ vô đạo đức đội lốt tu sĩ lừa đảo “tiền mất tật mang”.

Nhân quả ác đã đến thì không có Thần, Thánh nào cứu mạng được, nhân quả ác chưa đến mà còn chút phước thừa thì uống nước lạnh cũng hết bịnh. Đông y có câu: “Vận bĩ hoài sơn năng sát chúng, Thời lai bạch thủy cứu nhân gian”. Cho nên, vận bĩ tức là lúc có nhân quả xấu ác, thời lai tức là lúc nhân quả tốt (101) thiện. Vị Thầy thuốc và bịnh nhân đều có sự tương quan nhân quả thiện, ác, nên bịnh hết hay chết đều do nhân quả.

Tất cả sự việc xảy ra trong gia đình anh con đều do tinh thần các cháu quá yếu và chưa được trang bị đạo đức nhân quả đầy đủ, lòng tin đối với luật nhân quả chưa sâu và còn bị ảnh hưởng truyền thống mê tín lâu đời chưa cởi bỏ.

Đại thừa giáo đã truyền thừa giáo pháp của họ vào đất nước Việt Nam cuối thế kỷ thứ hai, đầu thế kỷ thứ ba, tính ra có hơn hai ngàn năm. Vì thế, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng mê tín sâu dày và đối với thế giới siêu hình tinh thần càng lúc càng yếu kém, chỉ còn biết tựa nương vào tha lực của Thần Thánh, nhưng cuối cùng, chưa có ai tránh khỏi nhân quả khổ đau. Cho nên, chúng ta hãy mạnh dạn chỉ mặt, vạch tên để cho mọi người hiểu biết rõ, không bị quý thầy Đại thừa lừa đảo lường gạt, nhờ đó đời sống mọi người bớt khổ đau. Lại nghe lời các thầy Đại thừa đem bùa yểm cha thì còn nghĩa lý gì đạo đức làm người. Rước thầy tụng kinh cầu siêu cho cha mà cha đã bị bùa yểm thì còn siêu cái gì?

Bảy mươi mốt chết là cung Khảm, đó là cung tốt để lại cho con cháu làm giàu có, có đâu tam liên tử, có nghĩa là ba người chết theo nữa (3 nhập mộ). Ba người chết theo nữa là chết nhằm cung Càn, còn nếu 72 chết thì cung Cấn, theo sách vở thì chết theo một người nữa. Đó là xem đúng sách vở của Đại thừa. Còn các Thầy này (102) không theo sách vở, bịa đặt xảo ngôn hại người, có lý đâu lại khiến cho người ta bất nghĩa, bất hiếu đem bùa yểm cha, lại còn bày trò cầu siêu hiếu hạnh.

Nếu quả có ba người chết theo nữa, thì đâu phải cha mình chết tạo ra cái chết đó, mà do số phận nhân quả của những người này đã tạo ngắn số ở tiền kiếp. Tại sao các cháu không thấy chánh kiến, mà lại thấy và theo tà kiến như vậy, để làm một lỗi lầm rất lớn, một tội bất hiếu không tha thứ được. Các Thầy Đại thừa dạy người bất nghĩa, bất nhân, bất hiếu, phi đạo đức. Bây giờ các cháu đem bùa yểm cha, sau này con của các cháu cũng đem bùa yểm các cháu, hành động của các cháu làm là hành động phi đạo đức, nhân quả này đời đời vay trả biết bao giờ dứt.

Các cháu phải bình tĩnh và sáng suốt, đừng nghe theo những thầy tà giáo ngoại đạo Đại thừa làm điều không tốt, về sau phải gánh chịu luật nhân quả.

--o0o--

MỜI ÔNG BÀ ĐÃ CHẾT VỀ ĂN TẾT

Hỏi: Kính bạch Thầy, hằng năm cứ đến ngày giỗ và sắp đến ngày Tết, người còn sống ra mồ (103) mả mời ông bà cha mẹ đã chết hàng 60, 70 năm nay về ăn Tết với con cháu, như vậy có đúng không thưa Thầy?

Đáp: Câu hỏi này có hai cách trả lời để xác định:

1- Mê tín

2- Chánh tín

Câu hỏi này mê tín như thế nào?

Như trong các kinh Đại thừa dạy, người chết còn thần thức nên nghiệp dẫn thần thức đi luân hồi. Đó là hiện tượng thế giới siêu hình của tưởng tri Đại thừa. Nếu còn có thần thức đi luân hồi tái sanh, thì đến ngày Tết, ngày giỗ ra mộ mời những người như ông bà cha mẹ đã chết về ăn Tết với con cháu. Đó là mê tín. Đạo Phật dạy: “Con người do các duyên hợp lại mà thành”. Như kinh Ngũ Uẩn đã dạy, thân người gồm có 5 duyên là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi một người chết thì năm duyên này đều tan rã sạch, không còn một chút xíu nào còn lại. Cái còn lại đi tái sanh luân hồi là nghiệp. Nghiệp là hành động thiện, ác của con người hằng ngày huân tập mà thành. Khi người ấy chết thì cả khối nghiệp ấy đi tái sanh vào một kiếp khác, hoặc người hay vật (tùy hành động thiện hay ác lúc người ấy còn sống). Vậy, sau khi tắt hơi thì con người chẳng còn gì cả, làm sao mà về ăn Tết với con cháu? Vì thế mời ông bà, cha mẹ về ăn Tết với con cháu là mê tín, không đúng chánh tín của đạo Phật. (104)

Đại thừa cho người chết còn có thần thức, nên có cầu siêu, làm tuần thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giáp năm, ba năm, v.v…​ Đó là lối mê tín, trong khi đức Phật xác định không có thế giới siêu hình.

Mê tín dân gian cho rằng, nếu người chết là đàn ông có 3 hồn 7 vía (tam hồn thất phách), đàn bà có 3 hồn 9 vía (tam hồn cửu phách). Khi người chết chỉ còn một hồn một vía sống tại mồ mả, còn tất cả các hồn vía khác đều xuống dưới Địa Ngục âm ty để thọ tội, và tiếp tục đi tái sanh luân hồi. Do mê tín này trở thành một tục lệ, đến ngày giỗ, ngày tết, con cháu ra mộ mời ông bà cha mẹ đã quá cố lâu xa về ăn tết với con cháu.

Từ mê tín của Đại thừa đến mê tín của dân gian đều đi ngược lại đường lối của đạo Phật.

Mê tín của Đại thừa là tạo ra nghề nghiệp tụng niệm cầu siêu để kiếm miếng sống như các nghề nghiệp khác. Nhưng nghề tụng niệm cầu siêu là nghề lừa đảo, lường gạt người, lấy hình thức báo hiếu để cho linh hồn ông bà được siêu thoát về miền cực lạc.

Đại thừa là loại mê tín có sách vở, có bài bản, nên khó ai thấy được, vì thế mà mọi người đều sa lưới bẫy của Đại thừa. Nghề này đã trở thành một nghề cắt họng thiên hạ, tụng một ngọ, thỉnh đi một chuyến, gần hay xa đều có giá cả hẳn hòi, không có mặc cả được.

Vậy chánh tín thì làm thế nào? Hằng năm nhớ lại ngày cha mẹ mất, hoặc ngày tư, ngày tết, (105) những người thân trong gia đình vui chơi, nhớ đến công ơn của những người quá cố thì đến nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương ấy, tức là thăm mồ mả. Khi thấy mồ mả của người, thì con cháu tưởng chừng người còn đang ở đâu đây, nên mời người vui chơi Tết, nhất với con cháu. Đó là lòng tưởng nhớ.

--o0o--

CẦU PHÚC, XIN LỘC

Hỏi: Kính thưa Thầy, đầu năm đi chùa để lễ bái cầu phúc, cầu lợi, có lợi lạc gì không thưa Thầy? Nhất là ngày rằm tháng giêng thì chùa nào cũng đông nghẹt, từ sáng sớm đến khuya, vì người ta nghĩ “Đi lễ quanh năm không bằng đi ngày rằm tháng giêng”!

Chúng con cúi xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Đó là phong tục mê tín từ lâu trong các chùa Đại thừa, dùng cầu phúc, cầu lợi để lừa đảo tín đồ Phật giáo, đem phúc, lợi cho những tu sĩ ngồi trong mát ăn bát vàng, hơn là phúc, lợi cho tín đồ, đi chùa để nghe pháp, nhớ lời Phật dạy về đạo đức làm người để sống toàn thiện. Nếu một người nghe lời Phật dạy, luôn luôn sống toàn thiện, thì phước lộc đầy đủ, cần gì phải đi chùa cầu phước, cầu lợi? Nếu đi chùa quanh năm, hoặc (106) nhân ngày rằm tháng giêng đến lễ Phật, cầu chư Phật ban phúc, ban lộc, mà chẳng làm một điều lành, luôn luôn làm khổ mình, khổ người, không hề tu tập nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, lúc nào cũng có phiền não, sân hận, bất toại nguyện, v.v…​ thì có ích lợi gì? Có Phật nào ban cho phúc lộc hay không? Đụng việc gì cũng làm to ra, la lối om sòm, chửi làng, mắng xóm, cuộc sống lúc nào cũng bỏn xẻn, ích kỷ, không hề giúp đỡ người bất hạnh, thì dù có lạy Phật đến sói đầu cầu phước, cầu lộc cũng chẳng có được chút nào. Đó là một việc làm mê tín, mơ hồ, phi đạo đức, không có thánh thần, chư Phật, chư Bồ Tát nào ban phước, ban lộc cho quý vị ấy được, vì những việc ban phước, ban lộc như vậy không đúng đạo đức công bằng và công lý.

Cầu phúc, cầu lợi bằng cách sống đúng đạo đức nhân quả. Không làm khổ mình, khổ người thì cuộc sống sẽ có phước báo đầy đủ. Đó chính là hành động đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi người.

Cầu phúc, cầu lợi là một việc làm mê tín trừu tượng, ảo mộng, vì chẳng có ai ban phước, ban lộc cho mình, mà chỉ có chính mình làm được những hành động thiện, thân, miệng, ý không làm khổ mình khổ người. Đó sẽ là sự ban phước, ban lộc cho mình cụ thể, thiết thực và rõ ràng.

Đi chùa cầu phước, cầu lộc là việc làm thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta làm ác, bỏn xẻn, ích kỷ, thì (107) thử hỏi có ai dám đem phước lộc đến chúng ta chăng?

Phước, lộc không phải tự dưng mà đến với chúng ta. Nó đến với chúng ta bằng tâm niệm tốt của chúng ta, do chúng ta biết thương người, biết giúp đỡ người trong cảnh bất hạnh tai ương, biết ban phúc, ban lộc cho người gặp cảnh khó khăn.

Phước, lộc đến với chúng ta là phải đến với sự công bằng và công lý. Nếu ta làm xấu ác, chẳng giúp người trong cảnh khổ nạn, thì khi chúng ta gặp khổ nạn chẳng bao giờ có phước, lộc đến với chúng ta được. Nếu chúng ta có ban phước, lộc cho người, thì phước, lộc mới đến với chúng ta, chẳng cần cầu khẩn gì cả. Thế nên, đức Phật đứng trong góc độ đạo đức nhân quả mà dạy chúng ta tu hành. Đầu năm đi chùa, lễ bái, cầu phúc, xin lộc chẳng được phước, lộc, mà còn bị kẻ khác lừa đảo, lường gạt, tiền mất tật mang. Đầu năm đi chùa lễ bái cầu phúc, xin lộc để rồi trở thành những tín đồ Phật giáo mê tín dị đoan, lạc hậu, bị người cười chê là người phật tử ngu si, mê muội.

Đầu năm đến chùa xin được đảnh lễ bậc chân tu, giới đức, để học hỏi những đức hạnh của người thì đó là phước, là lộc. Người chân tu hướng dẫn và chỉ dạy cho mình những hành động sống để được phúc, lộc, an vui, thanh thản và hạnh phúc. Đầu năm đi chùa cầu phúc, xin lộc như vậy mới là chân chánh, vì ích lợi thiết thực cho mình, cho gia đình, cho xã hội và cho đất nước quê hương. (108)

Tóm lại, đi chùa lễ bái cầu phúc, xin lộc là hành động mê tín, dị đoan, thiếu đạo đức, thiếu trí tuệ, là si mê. Đi chùa lễ bái bậc chân tu xin dạy đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người là chân chánh, không mê tín, lạc hậu. Đó là người cư sĩ đệ tử Phật thông minh và trí tuệ, tìm học những điều phúc, lộc chân chánh, cụ thể, thực tế, không mơ hồ, trừu tượng.

--o0o--

XÓC THẺ

Hỏi: Kính bạch Thầy! Đầu năm, nhất là trong những ngày Tết Nguyên Đán, chùa nào cũng có làm một bàn thờ phục vụ cho những người đến xóc thẻ. Trong một mâm đầy những tờ giấy đã được in và giải thích trong thẻ quẻ đó sẵn theo số thứ tự, ai xóc được thẻ số mấy thì đến nhận tờ giải số đó.

Ai xóc được thẻ nói tốt thì vui mừng phấn khởi, còn ai được thẻ nói xấu thì buồn phiền lo âu. Kính thưa Thầy, như vậy trong tờ xem số mệnh có lợi ích gì mà đầu năm người nào cũng xóc thẻ, nhất là phụ nữ chúng con. Mong Thầy vì lợi ích giải thích cho chúng con được hiểu.

Đáp: Thường thường, theo các chùa cổ ở miền Nam thì có hai nơi xóc thẻ. Một bên xóc thẻ gọi (109) là sóc thẻ xăm ông, và một bên khác gọi là xóc thẻ xăm bà.

Ông thường là những danh tướng người Hoa như Quan Thánh Đế Quân, tức Quan Công hay còn gọi là Quan Vân Trường, (một danh tướng thời Tam quốc bên Tàu), còn người Việt như Lê Văn Duyệt, Thủ Khoa Huân, v.v…​

Các Bà thường là những người Việt, Hoa, Chiêm Thành như Bà Đen, hay Lê Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Âm Bà Chúa Xứ, Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, v.v…​

Thường những nơi bàn thờ của các vị đó đều có ống xóc thẻ. Hằng năm đồng bào mê tín đến cúng bái gà, vịt, heo quay, v.v…​ với số tiền rất lớn.

Xóc thẻ là một hình thức bói toán qua tư tưởng mê tín, lạc hậu, cho rằng con người có số mệnh. Ai có số giàu là giàu, số nghèo là nghèo; số nghèo thì không làm sao làm giàu nổi. Do tin tưởng vào số mệnh, nên có một số người tiêu cực sanh ra lười biếng, bê tha, rượu, chè, bài bạc, cho số mình là vậy.

Cũng từ thuyết định mệnh đã khiến cho một số người tiêu cực không làm việc, mà đã không làm việc thì nghèo lại càng nghèo hơn. Vì không làm việc nên có thì giờ rảnh rỗi nhiều, rồi sanh ra bài bạc, đàng điếm, trộm cướp, khiến cho gia đình tan nát, xã hội rối ren, mất trật tự an ninh. (110) Bởi vậy, thuyết định mệnh ra đời là một tai hại rất lớn cho loài người.

Từ thuyết định mệnh mới sanh ra bói toán, chiêm tinh, dịch số tiên tử, xin xăm, xóc thẻ, xem ngày tốt, xấu, v.v…​ tạo biết bao nhiêu sự mê tín, dị đoan, khiến cho mọi người tốn hao tiền bạc rất nhiều.

Nếu xóc thẻ tốt rồi chúng ta đi ăn trộm, ăn cắp thì thử xem có bị ở tù hay không? Một việc làm ác là tự mình làm khổ cho mình chứ thẻ nào nói là tốt?

Luật nhân quả vốn công bằng và công lý, ai làm ác thì phải thọ khổ, ai làm thiện thì phải hưởng phước, không thể ở chỗ tốt, xấu của thẻ mà được. Nếu thẻ bảo xấu mà chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người thì làm sao có xấu được. Người ta chửi mình mà mình không giận hờn thì có xấu đâu.

Trong các chùa biết đó là mê tín, nhưng quý thầy cứ duy trì, vì duy trì có lợi rất lớn. Nếu một ngôi chùa duy trì sự xóc thẻ, xin xăm thì hằng năm kiếm cũng được 5, 10 triệu đồng dễ dàng. Nhất là những ngôi chùa ở nơi thắng cảnh, hằng năm phật tử trảy hội 3 tháng mùa Xuân thì nhà chùa kiếm hằng tỷ bạc. Đó là sự mê tín rất tai hại và làm hao tốn tiền của rất nhiều cho đồng bào. (111)

--o0o--

XEM NGÀY, GIỜ TỐT, XẤU

Hỏi: Kính thưa Thầy, các cư sĩ tại gia khi làm nhà, đào móng xây tường, hoặc làm chuồng heo, chuồng bò, làm cổng ngõ, đào giếng, v.v…​ đều xem ngày tốt, xấu. Khi cất nhà xong thì gia chủ lập đàn Đại Bi, năm ngày đêm trì chú cầu nguyện cho gia chủ được may mắn, phát tài, phát lộc. Thưa Thầy, xem ngày giờ tốt, xấu như vậy có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.

Trong kinh Bát Dương dạy: Ngày nào cũng tốt, tháng nào, năm nào, giờ nào cũng tốt, nếu ai nói ngày tháng năm giờ tốt, xấu là phản lại Thiên thần, địa lý. Tuy trong kinh dạy như vậy, nhưng nếu khi làm nhà, cưới hỏi, chết, bốc mộ, làm chuồng nuôi gia súc, v.v…​ tùy trường hợp xem ngày tốt, xấu lại mang kinh Bát Dương ra tụng. Thưa Thầy, như thế là như thế nào?

Đáp: Xem ngày tốt, xấu là sự mê tín của Trung Quốc, nên có những bộ sách mà trong các chùa dùng để xem ngày tháng tốt, xấu như Ngọc Hạp, Thông Thư, Trần Tử, Văn Công, Thọ Mai, v.v…​ Những loại sách lịch này không phải của Phật giáo, mà của văn minh Trung Quốc sản xuất ra dưới các triều đại phong kiến. Từ âm dương bát quái, dịch số, đến tứ thời, ngũ hành, thập nhị bát tú, v.v…​ Do đó, các nhà tri thức lập thành theo vận khí âm, dương để xem ngày tốt, xấu, đoán vận mạng cho loài người. (112)

Đối với đạo Phật thì kinh sách này không đúng với tinh thần của Phật giáo. Đôi mắt của Phật giáo nhìn các pháp thế gian đều là do duyên hợp tạo thành, diễn biến theo luật nhân quả nên không thể nào đoán vận mạng được. Vì đạo Phật cho rằng vận mạng của con người di động theo diễn biến hành động thiện, ác của con người, nên làm sao biết chắc được rằng đúng.

Ví dụ: có người muốn cất nhà, đến xem tuổi năm nay có cất nhà được không. Ông Thầy xem tuổi bảo năm nay tuổi tốt, cất nhà khỏi Kim Lâu, Địa Sát, Thọ Tử, được tứ Tấn Tài, Đại Kiết, kế đó xem tháng tốt, ngày tốt. Đến ngày giờ làm lễ khởi công. Cất xong nhà, thỉnh quý sư Thầy đến tụng kinh cầu an. Nhưng người gia chủ này làm nghề buôn bán đồ lậu thuế, nhà nước phát giác ra bắt bỏ tù và niêm phong nhà cửa, tài sản.

Như vậy, cất nhà coi tuổi tốt, ngày, tháng tốt, được tấn tài, tấn lộc, đại kiết, mà sao lại không tấn tài, tấn lộc, đại kiết, mà phải đi ở tù và của cải bị tịch thu? Xét như vậy xem ngày tốt, xấu có đúng không? Hay do hành động làm điều ác? Nếu người này không buôn bán đồ lậu thuế thì làm sao có sự việc ở tù, của cải bị tịch thu. Gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy, chớ không phải do cất nhà, tuổi tác, ngày giờ tốt, xấu mà tốt được. Tốt xấu là do hành động thiện ác của mình. Vì vậy, trong kinh Bát Dương dạy: “Ngày tháng năm nào cũng tốt, tốt xấu là do hành động thiện, ác của mình”. Kinh Bát Dương là một loại kinh (113) Đại thừa thuộc Bà La Môn giáo, đập phá sự mê tín xem ngày tốt, xấu của văn minh Trung Quốc, nhưng lại bày vẽ cúng kiến, tụng niệm theo sự mê tín của tôn giáo này. Cất nhà, cưới hỏi, chết, bốc mộ, làm chuồng nuôi gia súc đều đem kinh Bát Dương ra tụng để cầu tài, cầu lợi, thì sự mê tín lại còn dị đoan, lạc hậu nhất.

Xem ngày tốt, xấu người ta dựa theo luật âm dương mà tính toán ra ngày tốt, xấu đối với con người còn có chút khoa học, còn kinh Bát Dương thì không có khoa học chút nào, chỉ dựa vào chư Phật cứu độ, gia hộ tai qua nạn khỏi thì thật là lạc hậu. Nếu giết người, cướp của, đi buôn đồ lậu thuế bị bắt ở tù rồi đem kinh Bát Dương ra tụng, thì dù cho tụng cả ngàn biến cũng chẳng tiêu tai giải nạn nổi. Đó là sự lừa đảo của các loại kinh Đại thừa với những người chưa có trình độ kiến thức sâu rộng mới tin và nghe theo.

Từ các mê tín xem ngày tốt, xấu đến cái mê tín cúng bái của kinh sách Đại thừa, tất cả đều là lừa đảo người để làm tiền một cách trắng trợn mà không ai bắt tội được. Quý phật tử cần nên sáng suốt, đừng để bị lừa gạt bởi những kẻ vô lương tâm làm nghề bất chính. Phải mạnh dạn thực hiện đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người, tức là sống thiện, làm thiện, ăn ở thiện, thì mọi phước báo và sự an vui sẽ đến với quý vị. (114)

--o0o--

LÊN ĐỒNG, NHẬP CỐT

Hỏi: Kính thưa Thầy, có một vị Tỳ kheo đã thọ giới cụ túc, vị này là đại diện Phật giáo, là bậc Thầy của tín đồ. Thế mà ra làm lễ trình đồng (tức là lên đồng nhập cốt), và bà vợ của ông ta là quan Thầy sai đồng. Thưa Thầy, như vậy có đúng không?

Đáp: Một vị Tỳ kheo đã thọ cụ túc giới mà làm rất nhiều điều sai trái. Thọ giới Tỳ kheo là đại diện cho Phật giáo mà có bà vợ tại gia là một điều sai rất lớn. đạo Phật dạy: “Cắt ái ly gia”, thế mà đi tu, thọ cụ túc giới mà còn có vợ con là điều không thể chấp nhận được.

Ở miền Nam, tại tỉnh Thầy ở, có nhiều vị làm đến chức vụ Chánh trị sự Tỉnh hội Phật giáo, đại diện Phật giáo của huyện và trong hàng giáo phẩm tấn phong Thượng tọa, Hòa thượng, có vợ con hẳn hòi, sống trong chùa như một gia đình thế tục. Tín đồ ở đó gọi: bà Thượng tọa, bà Hòa thượng, v.v…​ Thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Những kẻ vô đạo đức đội lốt tu sĩ Phật giáo làm điều sai trái, diệt sạch Phật giáo, làm cho Phật giáo không còn uy tín, không còn lòng tin với ai hết.

Còn tu sĩ hiện giờ lên đồng nhập cốt là thường, họ làm tất cả mọi nghề, nhất là nghề trị bệnh (gọi là Tuệ Tĩnh đường), trị bệnh bằng nhân điện, khí công, lưu công, dưỡng sinh, gạo lứt muối (115) mè, tiết thực, tuyệt thực, uống nước tiểu, châm cứu, bùa chú, thuốc thang, bói quẻ, xem ngày tốt, xấu, xem thiên văn, địa lý. Tất cả những nghề nghiệp này đều không đúng tính cách của người tu sĩ Phật giáo.

Trong kinh Phật dạy, tu sĩ không được hành bất cứ nghề gì, ngoại trừ nghề đi khất thực mà thôi. Vậy mà tu sĩ bây giờ làm đủ mọi nghề, nhất là những nghề mê tín lại càng không chấp nhận được. Đây, các con đọc một đoạn kinh Phạm Võng để rõ thấu một vị Tỳ kheo đệ tử Phật phải sống và làm như thế nào cho đúng, còn những vị Tỳ kheo làm không đúng tức là những kẻ ma vương, quỷ quái đội lốt đệ tử Phật, để diệt Phật giáo và lường gạt tín đồ. Các con đọc bài kinh này để thấu rõ và cảnh giác những kẻ tà sư, ngoại đạo đang đầy rẫy trong Phật giáo:

“Sa môn Gotama (tức là đức Phật) dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn phi thời (ăn uống lặt vặt).

Sa môn Gotama từ bỏ không đi xem múa hát nhạc, diễn kịch.

Sa môn Gotama từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa và các thời trang.

Sa môn Gotama từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn (tủ, bàn, ghế sang đẹp). (116)

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận vàng bạc của báu (tiền, bạc, vàng, ngọc ngà, những vật quý báu và vô giá).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận hạt giống (không trồng trọt, vườn tược, ruộng rẫy).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận thịt sống hoặc thịt chín (thực phẩm động vật).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận đàn bà con gái (không nhận giới phụ nữ trong khu vực tu hành).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai (không nhận người công quả nam hoặc nữ).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận cừu và dê (chăn nuôi dê cừu lấy sữa và da).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận gia cầm và heo (không nuôi gia súc).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái (phương tiện giao thông đi lại ngày xưa).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận ruộng vườn, đất đai (bất động sản).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận người làm môi giới, hoặc tự mình làm môi giới (giao dịch móc nối).

Sa môn Gotama từ bỏ không nhận buôn bán (nghề thương mại). (117)

Sa môn Gotama từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường.

Sa môn Gotama từ bỏ hối lộ, gian lận, gian trá, lừa đảo.

Sa môn Gotama từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

Sa môn Gotama từ bỏ không cất chứa các vật món ăn, đồ uống, vải, xe cộ, đồ nằm, hương liệu, mỹ vị.

Sa môn Gotama từ bỏ các loại du hý thế gian như múa hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú. Đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, múa võ, đấu voi, đua ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá chim cút, đấu gậy, đấu quyền, đô vật, đánh giặc giả, dàn trận, thao dượt, diễu binh.

Sa môn Gotama từ bỏ đánh bài, các loại giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền tước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không sụp đống thẻ, chơi xúc xắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi xem con, chơi đoán chữ viết trên không, trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước điệu bộ làm hề. (118)

Sa môn Gotama từ bỏ không nói những câu chuyện vô ích tầm thường.

Sa môn Gotama từ bỏ những cuộc biện luận tranh chấp.

Sa môn Gotama từ bỏ không lừa đảo và xiểm nịnh.

Sa môn Gotama từ bỏ tránh xem những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, hiện tướng, mộng tướng thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, dùng miệng phun hột cải vào lửa, tế vỏ lúa, tấm gạo, thục tô, dầm, tế máu, khoa xem tướng chi tiết, khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu tài ban phước, khoa cầm ma quỷ, khoa dùng bùa chú, khoa bắt rắn, bò cạp, thuốc độc, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng thú cầm nói chuyện.

Sa môn Gotama từ bỏ tránh xa các tà nghiệp nuôi sống tà mạng bằng những nghề xem ngày tốt, xấu để rước dâu, quy rể, lựa ngày giờ tốt, xấu để hòa giải, để chia rẽ, đòi nợ, mượn tiền, tiêu tiền; dùng bùa chú để giúp người may mắn, dùng bùa chú khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú phá thai, làm cúng liễm, khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người bỏ tay xuống, lỗ tai điếc, hỏi gương, hỏi đồng cốt, hỏi thiên thần, địa thần, hỏi thần…​ (119)

Sa môn Gotama từ bỏ tránh xa những nghề nghiệp trị bệnh tai, mắt, mũi, miệng, trị xỏ, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh con nít, cho uống thuốc bằng các loại rễ cây”.

Với bài kinh Phạm võng trên, thì đức Phật không chấp nhận làm những nghề nghiệp không chân chánh, đúng chánh hạnh của đạo Phật, huống là một vị tu sĩ thọ cụ túc giới mà còn lên đồng nhập cốt, thì còn nghĩa lý gì là đệ tử của Phật nữa. Quý phật tử hãy đề cao cảnh giác, đó là những kẻ tà đạo Bà La Môn, mượn danh đệ tử Phật để làm những điều sai phạm của người tu sĩ Phật giáo.

--o0o--

THỜ PHỤNG, ĐI LỄ, CÚNG CHÙA

Hỏi: Kính thưa Thầy, có phật tử nói: “Nhà tôi giàu có là do thờ phụng đến nơi đến chốn, đi lễ cúng chùa nhiều, các con tôi làm toàn chức to, ông lớn”. Thưa Thầy, như vậy có đúng không?

Đáp: Không phải thờ phụng, đi lễ, cúng chùa nhiều mà nhà giàu có, con cháu làm quan to chức lớn mà chính là nhân quả. Giàu có là nhờ không tham lam trộm cắp, biết san sẻ, bố thí cho người (120) bất hạnh, biết giúp đỡ người khốn cùng trong cảnh hoạn nạn, v.v…​

Làm quan là nhờ không sát hại chúng sanh, giúp người thế cô, yếu sức, an ủi chia sẻ nỗi khổ đau của mọi người, và giúp người nghèo khó học tập đến nơi đến chốn.

Dân chúng Campuchia cất một ngôi chùa vĩ đại Đế Thiên Đế Thích (một trong những kỳ quan thế giới), nhưng nước Campuchia có giàu có hơn ai đâu. Họ vẫn lạc hậu, nghèo nàn và hung dữ. Người phật tử chưa hiểu luật nhân quả nên tưởng mình thờ phụng và đi lễ chùa nhiều là giàu có, làm quan. Nhưng không ngờ, đó là một hành động mê tín, lạc hậu.

Sự thờ phụng đúng cách như thờ tổ tiên, ông bà, và nếu có đạo Phật thì nên thờ đức Phật Thích Ca mà thôi. Thờ nhiều tức là thờ đa thần mê tín. Thờ ông bà tổ tiên là nhớ nguồn gốc của mình. Thờ Phật Thích Ca là nhớ ơn người chỉ dạy con đường giải thoát không làm khổ mình, khổ người, tạo nên một xã hội yên vui và hạnh phúc.

Thờ đức thánh Khổng Tử là nhớ ơn người dạy đạo đức, tam cương, ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Mỗi sự thờ cúng của chúng ta đều có ý nghĩa sâu sắc của tình người. Thờ thần tài, chúa tiên chúa xứ, bồ tát, tứ đại thiên vương, thờ rồng thì đó là mê tín, thờ cô hồn các đảng là mê tín.

Thờ cúng cho đúng cách là người chánh kiến, thờ cúng không đúng cách là người tà kiến. Đi (121) chùa lễ bái, cúng dường đúng cách là người chánh kiến. Đi chùa lễ bái, cúng dường không đúng cách là người tà kiến. Người tu sĩ đệ tử Phật phải sáng suốt và đừng để những kẻ tà sư, ngoại đạo lừa đảo, đưa vào mê tín, tà kiến, chẳng lợi mình, lợi người, mà còn tạo nên một truyền thống của dân tộc không tốt đẹp.

--o0o--

CÚNG KEM

Hỏi: Kính thưa Thầy, có một gia đình bệnh nhân ốm nặng nằm lâu ngày trên giường bệnh, mời các cư sĩ đến làm lễ cúng bái, các cư sĩ bày thêm phần mua hoa quả, bánh, kẹo để cúng tế kem (kem tức là cái miệng của bệnh nhân lúc còn trẻ, vì hoàn cảnh gia đình nghèo túng, không có tiền mua thức ăn đầy đủ nên thường nói dối là đã ăn rồi, ngày nay lúc sắp chết phải cúng kem là vậy).

Kính thưa Thầy, đây có phải là hình thức mê tín, dị đoan không?

Đáp: Đúng vậy. Đây là những trò mê tín, dị đoan của một số thầy phù thủy Bà La Môn. Người ta đâu nghĩ rằng có thân tứ đại này là thân vô thường, liên tục thay đổi không lúc nào ngừng nghỉ. Do sự thay đổi mà thân nay bệnh, mai đau, (122) chớ đâu phải quỷ thần bắt hoặc giáng họa làm cho bệnh tật khổ đau đâu mà cúng.

Thân tứ đại là thân từ nhân quả sinh ra, nên khi có thân này khó có ai tránh khỏi sự bệnh tật, khổ đau, tai nạn, vì nhân đời trước chẳng thiện, đời nay phải chịu khổ đau. Đó là nhân quả trả vay, vay trả, chớ đâu có ai quở trách gây cho ta đau khổ.

Những kẻ vô đạo đức đội lốt làm thầy phù thủy Bà La Môn, lợi dụng sự sợ hãi và không hiểu biết được nhân quả nên bày ra cúng tế, tụng niệm cầu khẩn, van xin. Đó là những kẻ lừa đảo để kiếm tiền sống bằng cách vô lương tâm. Quý phật tử là đệ tử của Phật hãy cảnh giác, đừng để những tên thầy cúng lường gạt, đừng nghe theo. Sống, chết, bệnh tật, tai nạn đều do nhân quả, mình đã gieo thì phải gặt, chớ đừng có sợ hãi, đừng cầu cạnh, không ai phò hộ quý vị được bằng chính quý vị. Cố gắng đừng làm khổ mình, khổ người khác thì bệnh tật, tai nạn sẽ lần lần chuyển sạch, chừng đó quý vị làm chủ sự sống và chết, có đâu còn sợ bệnh đau và khổ nạn.

Những việc làm mê tín, dị đoan này đạo Phật không bao giờ dạy, chỉ có Đại thừa Bà La Môn giáo mới có mà thôi. Các phật tử cần phải đề cao cảnh giác, đừng để họ lợi dụng. (123)

--o0o--

LỄ NHẬP NHÀ MỚI

Hỏi: Kính thưa Thầy, có gia đình mới cất nhà mới, ăn khánh thành, một số bạn đạo hữu đến tụng kinh làm lễ về nhà mới. Người chủ nhà lại mời thêm một ông Thầy cúng, ông đến bảo mua một con ngựa bằng giấy thật to, khi tụng kinh cầu nguyện xong, lấy 38 đồng tiền chinh để cắt giải, rồi ông Thầy ấy cưỡi ngựa giấy phi quanh nhà.

Thưa Thầy, gia chủ này không phải là không hiểu đạo pháp, thường đi đây, đi đó để hoằng dương Phật pháp, thế mà làm những việc như vậy có gọi là cuồng tín không, thưa Thầy? Hay tại vì lòng tham muốn giàu sang, phúc, lộc hơn nữa, mà làm việc không đúng chánh pháp?

Đáp: Khi cất được ngôi nhà mới, ăn tân gia, mời bạn bè thân hữu đến ăn mừng thì đúng, nhưng bày ra tụng niệm thì không đúng. Tại sao vậy? Tại vì đó là mê tín. Kinh Bát Dương (thuộc kinh sách Đại thừa) có dạy điều mê tín này. Dùng 38 đồng tiền chinh và một con ngựa giấy cưỡi phi quanh nhà, đó là kinh sách của ngoại đạo dạy những điều mê tín lạc hậu.

Vì lòng tin không đúng của con người, nên bị kẻ khác lừa gạt bằng những hình thức tà kiến. Tại sao chúng ta theo đạo Phật mà không biết cái nào là chánh kiến, cái nào là tà kiến, để lầm lạc (124) biến Phật giáo thành tà kiến, biến Phật giáo thành một thứ Phật giáo mê tín, lạc hậu?

Từ đây về sau, quý phật tử là đệ tử của Phật thì niềm tin chánh kiến phải sâu, không để kẻ khác lừa đảo, chẳng đem lại ích lợi gì cho mình và cho cả gia đình mình. Phải nói đây là một trò bịp bợm, gạt người bằng những hình thức mê tín, xảo thuật. Chỉ có những người vô minh, tham danh, tham lợi mới đi thỉnh những kẻ tà sư, ngoại đạo làm điều chẳng ích lợi gì, như trẻ con cưỡi ngựa chuối!

--o0o--

ÔNG TÁO

Hỏi: Kính bạch Thầy, sắp đến ngày 23 Tết Âm lịch, năm nào cũng vậy, mọi nhà lo mua ba bộ mũ, hia, giày và một con cá chép sống để cúng tiễn đưa ông Táo về Trời và ông Táo sẽ tâu trình với Ngọc Hoàng các việc làm ác, thiện của gia chủ. Như vậy có không, xin Thầy chỉ dạy? Có người còn bảo, năm nào mà không mua mũ cho ông Táo thì đêm đến nằm mơ thấy ông Táo về đòi. Như vậy có đúng không thưa Thầy?

Đáp: Ông Táo là một chuyện mê tín của dân gian, mục đích là để răn người đừng làm điều ác, vì làm điều ác là ông Táo sẽ về chầu Trời tố cáo tội ác trong năm, rồi Ngọc Hoàng sẽ cho giáng (125) họa và người làm ác sẽ chịu biết bao nhiêu đau khổ. Mũ hia, áo mão của ông Táo giống như mũ hia, áo mão của một vị quan phong kiến. Ông Táo không có thật, mà chỉ là một tưởng tri của loài người, để khiến cho người ta sợ mà không làm điều ác.

Từ câu chuyện dân gian răn nhắc đừng làm ác, biến dần thành một phong tục, đến cuối năm nhà nào cũng đều cúng ông Táo, để ông về tâu bớt những chuyện làm ác của mình, để ông Trời không có gieo tai họa. Câu chuyện biến dần thành câu chuyện lo lót hối lộ. Từ câu chuyện răn nhắc đừng làm ác thì dần dần biến thành phi công lý, phi đạo đức (hối lộ mũ hia, giày, quần áo, cá chép, cúng bái thần linh là một hình thức hối lộ).

Nằm mộng thấy ông Táo về đòi, đó là tưởng mộng chớ ông Táo đâu có thật. Người ta huyền thoại nhiều câu chuyện về Táo quân “Một bà hai ông”, bây giờ đã thành một phong tục truyền thống dân tộc, cứ đến ngày 23 tháng chạp nhà nhà đều cúng đưa ông Táo về trời.

Phật giáo Đại thừa cũng chịu ảnh hưởng, nhưng lấy ngày đó làm ngày lễ đưa chư thiên về chầu trời. “Dân gian thì đưa Táo quân, Phật giáo thì đưa chư Thiên về trời”!

Qua câu chuyện ông Táo đã chỉ cho chúng ta thấy được Phật giáo Đại thừa có trí tuệ hay không trí tuệ, điều này chắc ai cũng rõ. Câu chuyện mê tín dân gian Phật giáo Đại thừa lại (126) biến thành mê tín Phật giáo. Bởi vậy Phật giáo Đại thừa có đáng cho chúng ta đủ niềm tin chăng? Phật giáo Đại thừa đi đến đâu cũng viên dung và viên thông, lấy tất cả các pháp của mọi tôn giáo và sự mê tín của con người làm giáo pháp của mình. Cho nên, giáo pháp Đại thừa là giáo pháp lượm lặt của các tôn giáo khác, chỉ cần thay danh từ là biến thành giáo pháp của mình. Khi dân gian mê tín cúng Táo quân thì Đại thừa biến danh từ Táo quân thành danh từ chư Thiên.

Nếu các nhà nghiên cứu Đại thừa giáo xét kỹ, đừng kẹt trong danh từ thì thấy rất rõ giáo pháp đó chính là bã mía của các tôn giáo khác. Đó là đứng về nội dung, còn đứng về hình thức thì Đại thừa giáo không có gì đặc biệt, chỉ giống như chiếc áo nhiều mảnh vải kết lại mà thành.

--o0o--

CÚNG SAO, GIẢI HẠN

Hỏi: Kính thưa Thầy, ở khu vực con có một gia đình, không hiểu đi xem ở đâu có ông Thầy ấy bảo tháng năm bị một cái hạn phải nằm bệnh viện thập tử nhất sinh, rồi đến tháng 11 cũng bị sao hạn như vậy nữa. Gia đình này sợ quá, mời Thầy đến cúng sao giải hạn. Thưa Thầy, như thế có giải hạn được không? (127)

Cũng ở khu vực con, có gia đình đó nghe được như vậy rất ân hận là vì bố chị ta ốm nặng phải nằm bệnh viện, mẹ chị không chịu mời Thầy cúng sao giải hạn nên bố chị phải nằm bệnh viện khổ sở. Xin Thầy vui lòng giải tỏa cho chúng con những điều thắc mắc trên đây, chúng con xin được tri ân công đức.

Đáp: Như các phật tử đã biết, luật nhân quả ai làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, ai làm thiện thì phải hưởng phước báo, không thể có thánh thần chư Phật, chư Bồ Tát hoặc sao hạn nào cứu khổ hoặc giải hạn được.

Còn trong sách ngoại đạo dạy, người nào tuổi năm ấy gặp sao La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch thì bị xung khắc tháng giêng, tháng ba, tháng bảy, tháng chín, tháng năm, tháng mười một. Trong những tháng ấy thường gặp tai nạn, bệnh tật thập tử nhất sinh.

Những loại kinh sách này là những loại kinh sách phi đạo đức, dạy người làm điều mê tín lạc hậu. Làm sao cúng bái sao hạn mà giải hạn tai ách được? Nếu giải hạn tai ách được thì thế gian này còn gì là công bằng, công lý? Kẻ làm ác cứ việc cầu cúng nhiều thì tiêu tai giải hạn, không còn khổ đau nữa, và họ tha hồ làm ác, giết hại người vô tội được sao? Một người bị bệnh tật khổ đau hoặc tai nạn đâu phải ngẫu nhiên mà có, chính do hành động bất thiện làm khổ kẻ khác mà phải trả quả. Do hành động làm ác của mình, thời tiết nhân duyên đủ thì phải thọ (128) quả khổ, chớ đâu phải có ai làm cho họ khổ mà phải cầu cạnh kẻ khác giải hạn, giải khổ cho. Những loại kinh sách mê tín do những kẻ gian xảo viết ra lừa đảo kẻ khác, để làm tiền một cách bất chính. Người hiểu luật nhân quả thì những thầy cúng sao giải hạn không lừa đảo được. Ngược lại, không hiểu luật nhân quả dễ bị kẻ khác lừa đảo bằng nhiều hình thức mê tín khác nhau.

Quý phật tử là đệ tử của Phật, phải sáng suốt đừng để những kẻ tà sư, ngoại đạo đội lốt tu sĩ Phật giáo làm mất uy tín Phật giáo. Hãy chỉ thẳng cho mọi người biết không ai giải hạn, tiêu tai, tiêu nạn, mà chính tự mình giải nó, nghĩa là mình đừng làm khổ mình, khổ chúng sanh, khổ người khác, thì chẳng có tai nạn gì cần phải giải.

Quý phật tử hãy tu tập tâm bất động trước các pháp. Khi tâm bất động trước các pháp thì không ai lừa đảo quý vị được, và quý vị sẽ không còn bị ảnh hưởng mê tín của những tà sư, ngoại đạo bịa ra. (129)

--o0o--

MỜI NGƯỜI CHẾT VỀ DỰ CÚNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, như Thầy đã dạy cho chúng con biết, người chết khi tắt thở là tiếp tục tái sanh luân hồi (chết đây sanh kia), tức là chết là bắt đầu cho sự sống. Hàng năm cứ đến ngày giỗ và đến ngày Tết, lại ra mồ mả ông bà cha mẹ đã chết hàng 50 năm mời về ăn tết với con cháu. Như vậy có đúng không, thưa Thầy?

Đáp: Đây cũng là một tục lệ mê tín dân gian, nhưng nói lên được tình nghĩa của con người (người sống đối với người chết). Bởi vì người ta không rõ người chết là mất hết, tan rã sạch, chỉ còn lại hành động nhân quả, nghiệp thiện, ác tiếp tục tương ưng với nhân quả thiện, ác mà tái sanh luân hồi (có thân mới).

Người ta tưởng rằng người chết là xác thân chết, nhưng linh hồn thì còn bất diệt mãi, luôn luôn sống dưới mồ. “Sống có nhà, thác có mồ”, tức là người chết thì linh hồn sống dưới mồ.

Ngôi mồ chỉ là một đống đất, chẳng có ai trong đó cả. Di tích đời người cuối cùng là ngôi mộ, là một nắm đất hôi thối, tàn tạ và khô cằn mà người sống dành cho người chết.

“Sống có nhà, thác có mồ”. Câu tục ngữ này nói lên tình nghĩa người nhớ ơn người, nhất là tinh thần dân tộc Việt Nam: “Chim có tổ, người (130) có tông”. Đạo thờ phụng ông bà, tổ tiên cũng từ tình cảm con người mà ra. Vì thế, đến ngày tư, ngày Tết, ngày giỗ, những người còn sống nhớ công ơn ông bà, tổ tiên, cha mẹ, đến mộ mời những người ấy về ăn Tết, như lúc họ còn đang sống với con cháu cho vui.

Tin tưởng như thế cũng chẳng có hại gì cho ai, miễn là không có gây phiền hà cho người khác, và toàn gia họp mặt vui vẻ, nhắc lại công hạnh, phước đức của ông bà, cha mẹ lúc còn sống, để con cháu nghe mà bắt chước.

--o0o--

SỐNG DẦU ĐÈN, CHẾT KÈN TRỐNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc nhà có người chết, phải mời trống kèn đến thổi kèn và đánh trống ầm ĩ, linh đình, làm cho người chết lẫn người sống quên đi sự đau buồn kẻ ở, người đi. Tục ngữ có câu: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”. Thưa Thầy, lại có người bảo: “Thổi kèn trống gọi ma về rủ vong đi, như vậy có đúng không, thưa Thầy?

Đáp: Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật không có dạy điều này. Thổi kèn đánh trống ầm ĩ, để quên đi sự đau buồn (của cảnh tử biệt, sanh ly, kẻ ở, người đi), để an ủi tinh thần của (131) người còn sống thì đúng, còn rủ ma về gọi vong đi thì không đúng (mê tín). Nếu đứng về góc độ thế gian, thổi kèn đánh trống ầm ĩ để quên đi sự đau buồn kẻ mất, người đi thì được tha thứ, còn rủ ma về gọi vong đi, thì không được tha thứ. Đó là tưởng tri thuộc về mê tín, dị đoan.

Theo đạo Phật, khi một người chết thì các duyên tan rã hết, không còn tồn tại một vật gì, làm sao người chết có đau buồn? Chỉ có người còn sống thương nhớ, thấy mọi kỷ niệm của người chết còn lại thì lòng đau như muối xát.

Theo tinh thần tự lực của Phật giáo, mọi người đều nên trang bị một sự hiểu biết thấu suốt các pháp thế gian này đều do duyên hợp tạo thành. Thế nên mọi vật đều bị luật vô thường chi phối, thường xuyên thay đổi, biến dịch, có thành phải có hoại, có sanh thì có chết. Vì thế, con người sống trên thế gian này, không ai tránh khỏi điều đó (sanh tử). Người đệ tử của Phật đều phải chuẩn bị cho mình một tinh thần vững chắc, với một trí tuệ thông suốt lý nhân quả, để ứng dụng đối phó trực tiếp trước mọi cảnh tai ương, bịnh tật, gian nan, hiểm nguy mà không hề sợ hãi, sờn lòng. Trước cảnh ly tan hoặc sum họp cũng chẳng buồn, chẳng vui; trước cảnh tử biệt, sanh ly cũng chẳng thương khóc nức nở. Với trí tuệ nhân quả của đạo Phật, mọi sự việc trên đời này xảy ra trước mắt họ, họ đều thấy rõ ràng: “Các pháp là vô thường, nay còn, mai mất là lẽ đương nhiên của các pháp duyên hợp”. (132)

Vì đã chuẩn bị tinh thần vững chắc với sức định tĩnh và trí tuệ nhân quả, luôn luôn sống trong chánh niệm (niệm thiện), người đệ tử của Phật thản nhiên trước mọi tình huống. Không làm khổ mình, khổ người, thì trước cảnh sanh ly, tử biệt cần gì đến trống kèn ầm ĩ. Đám ma mà làm giống như đám hát, thật là một việc làm không đúng cách.

Nếu chúng ta là những đứa con hiếu tử thì trống kèn làm sao vui cho được khi mà mất cha, mất mẹ. Chúng ta nên giữ im lặng để hồi tưởng lại công ơn sanh thành, dưỡng dục của mẹ cha. Một người con hiếu được theo học đạo Phật, khi cha mẹ mất hoặc có người thân mất là một điều nhắc nhở rất lớn cho họ. Phải làm sao, bằng cách nào giúp cha mẹ hoặc những người thân của mình thoát vòng sanh tử, luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của kiếp người.

Hiểu biết sự báo hiếu của đạo Phật, người con phải tu tập đạt được cứu cánh giải thoát, có đầy đủ đạo hạnh để làm gương sáng và hướng dẫn cho cha mẹ tu hành, theo giáo pháp và đường lối của đạo Phật. Người con phải có một ý chí sắt đá, một nghị lực kiên cường, một lòng dũng cảm quả quyết, để thực hiện con đường của đạo Phật rốt ráo, để làm tròn bổn phận của người con hiếu (công ơn sanh thành của mẹ cha nuôi con lớn khôn rất là vất vả, như trời, như biển). Nên nhớ, vì muốn nuôi con lớn khôn nên người, không thua kém ai, cha mẹ phải (133) nhiều lần làm điều ác, giờ đây đã trở thành nghiệp lực, nghiệp lực ấy theo vô minh tiếp tục tái sanh luân hồi, thọ biết bao nhiêu là thứ khổ đau của kiếp làm người, ngàn đời, muôn kiếp chẳng bao giờ dứt.

Khi đã hiểu rõ Phật pháp, như lời Phật đã dạy, nếu trong nhà có người chết, chúng ta hãy làm lễ an táng đơn giản, không kèn, không trống, không thầy chùa tụng kinh, niệm Phật, cũng không ai hộ niệm cho ai cả. Hãy tiếp tay với gia đình có người chết, đồng lo chôn cất hoặc thiêu đốt càng sớm càng tốt, để lâu mùi hơi hôi thúi làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống của con người.

Khi trong nhà có người chết, ta nên tổ chức đám ma âm thầm, lặng lẽ, để hồi tưởng lại những công ơn, khi người còn sống. Việc ma chay cần phải bỏ bớt, đơn giản, để người sống khỏi lo lắng nhiều, những việc cúng bái có tính cách mê tín, dị đoan thì cần dẹp sạch, cốt sao cho giản dị nhất, khi đám tang xong không nợ nần ai hết. Tẩm liệm thây người chết đừng cột bó như đòn bánh Tét. Hãy để người chết nằm trong quan tài như người nằm ngủ, phủ vải lại nhẹ nhàng, đừng chèn nhét rơm rạ như ép dầu, rồi đậy nắp áo quan lại một cách giản dị, tự nhiên, v.v…​ Bạn bè, thân quyến đến phúng điếu chia buồn, chẳng nên làm ầm ĩ, đánh trống thổi kèn làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh, không đúng cách đám ma, mà còn làm hao tốn tiền bạc vô ích. (134)

Một đám tang trong âm thầm, lặng lẽ, trang nghiêm có ý nghĩa của sự chết hơn là một đám tang ầm ĩ kèn trống, tiếng hò hét, tụng niệm giọng cao, giọng thấp trầm bổng như ca, ngâm, vịnh, hát. Thể hiện những điều này không đúng cách đám ma, mà là một đám hát, một trò chơi của những người không có sự ưu sầu.

Vì người chết không thể sống lại được, dù để bao lâu cũng không sống, tốt hơn ta nên an táng sớm chừng nào tốt chừng nấy, để giữ vệ sinh chung cho mọi người, nhất là những người thân trong gia đình, và còn lo những việc khác nữa.

Phật dạy, thân người bất tịnh hôi thúi, do bốn đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành, nên khi chết đất, nước, gió, lửa tan rã, đất trở về đất, nước trở về nước, gió trở về gió, lửa trở về lửa; thọ, tưởng, hành, thức thì tan biến theo nghiệp lực nhân quả, người chết chẳng còn một chút xíu nào cả.

Thổi kèn, đánh trống để gọi ma về rủ vong đi, thì bọn ca hát cũng thổi kèn đánh trống, sao ma không về dẫn linh hồn họ đi? Đó là một sự bịa đặt vô căn cứ, thiếu thực tế, chúng ta không chịu suy tư, nghe đâu tin đó, bảo sao làm vậy, thấy ai làm xu hướng làm theo, chẳng biết đó là bị kẻ khác lừa đảo.

Khi đức Phật còn tại thế, Ngài cảnh giác các đệ tử của mình, thậm chí ngay lời Phật dạy, Ngài còn bảo: Đừng tin lời ta nói, mà hãy suy nghiệm lời ta nói có lợi ích thiết thực cụ thể hay không, rồi hãy tin (135)”.

Thật ra từ ngàn xưa đến giờ, Tổ tiên của chúng ta đã để lại cho chúng ta một gia tài trong đó sự mê tín chiếm một nửa. Trong cuộc sống, ngoài sự hiểu biết của ý thức (hoặc tri thức ở học đường), con người dùng tưởng mà tạo ra, bây giờ đã biến nó thành một truyền thống (thế giới siêu hình) thật sự, muốn bỏ nó hiện giờ đây đâu phải dễ. Lợi dụng lòng mê tín này, con người sản xuất ra tôn giáo, để dựng lên một thế giới mê tín siêu việt hơn, độc đáo hơn, tối thượng hơn, cao hơn các thế giới siêu hình khác, khiến cho con người với trí hữu hạn không thể hiểu rõ được nên đắm mê tập trung theo tôn giáo đó, trở thành một giáo phái có uy quyền có thế lực. Từ đó, lớp mê tín cũ chưa bỏ lại chồng thêm một lớp mê tín mới, trên đầu và đôi vai phải đội, mang, cõng biết bao nhiêu thần linh, ma, quỷ, rồi bây giờ phải đội thêm một ông Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Tiên, Thánh, Chúa, Phật, v.v…​

Bây giờ là thời đại khoa học hiện đại, dân trí con người đã nâng lên khá cao, thế mà giới trí thức hiện nay có kiến thức sâu rộng về khoa học vẫn bị thế giới siêu hình lừa đảo một cách đáng thương và đáng trách.

Đạo Phật ra đời quyết đập tan, phá sạch thế giới siêu hình, để đưa con người thoát ra khỏi vòng mê tín lẩn quẩn. Trong thời điểm của đức Phật, con người còn đang sống trong những bộ lạc, dân trí trình độ còn thấp kém, khó nâng cao sự hiểu biết, mặc dù giáo pháp của Ngài dạy rất rõ và xác định cụ thể về thế giới siêu hình, (136) nhưng người ta vẫn không tin, nên sau khi Ngài tịch, các đệ tử của Ngài, nhất là những người tu chưa chứng đắc, họ đã thêm bớt vào giáo pháp của Ngài, biến thành một giáo pháp mê tín và sản xuất ra có vô lượng cõi siêu hình.

Bốn mươi chín năm thuyết pháp, thời gian quá ngắn, Ngài chưa kịp đập tan và phá sạch thế giới siêu hình thì Ngài lại thị tịch, để lại một sự nghiệp rất khoa học, một đạo đức tuyệt vời, mà không có vị đệ tử nào thừa kế. Ngài phải đành di chúc lại cho người sau: “Hãy lấy giáo pháp và giới luật của ta làm thầy”. Nhưng giáo pháp và giới luật của người còn đó, người theo đạo Ngài thì chẳng tu theo, mà lại tu theo giáo pháp và giới luật của ngoại đạo. Bây giờ, giáo pháp của Ngài đã trở thành giáo pháp mê tín, còn Ngài thì trở thành ông thần phò trợ, ban phước lành cho chúng sanh. Chùa là nơi cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, cầu phước, cầu tự, v.v…​ Chùa cũng là nơi tập ngồi thiền trị bịnh, biến thiền định của Phật thành một thứ thiền dưỡng sinh trị và ngừa bịnh, thật là đau lòng.

Mục đích của Ngài là muốn con người thật sự hiểu, hiểu thật rõ cái thế giới mà con người đang sống. Chính vì lầm chấp thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thật có mà con người tạo biết bao nhiêu nhân ác, để rồi gặt lấy quả khổ và tiếp tục mãi mãi luân hồi sanh tử. Ngày nay, tất cả mọi người, kể cả những người không phải là tín đồ Phật giáo, ai ai cũng cho những hình thức mê tín là của Phật giáo, thật là đau lòng, xót dạ. Biết (137) nói làm sao bây giờ, vì các bậc tôn túc Thầy Tổ của chúng ta ngày xưa đã làm như vậy. Đọc lại những lời Phật dạy năm xưa trong kinh Nguyên Thủy, ta mới thấm thía đến rơi nước mắt. Tâm nguyện của Ngài muốn đem lại cho loài người một sự hiểu biết chân thật. Vâng, chỉ có sự hiểu biết chân thật con người mới không còn khổ đau nữa và chấm dứt luân hồi. Nhờ hiểu biết chân thật người ta sẽ không còn bị lường gạt được về thế giới hữu hình và siêu hình nữa.

Hồi tưởng lại cách đây 2542 năm (Tính từ năm 1998, là năm Thầy viết bộ ĐVXP) có một con người vĩ đại xuất hiện ra đời, chỉ vạch cho con người biết rõ rằng không có thế giới siêu hình thật sự, chỉ có thế giới tưởng của loài người mà thôi. Một số bài kinh trong tạng kinh Nguyên Thủy của Phật giáo đã xác định rõ ràng như: Kinh Tứ Diệu Đế, kinh Thập Nhị Nhân Duyên, kinh Ngũ Uẩn, kinh Pháp Môn Căn Bản, v.v…​ Trong những bài kinh này, lời nói của đức Phật rất hùng hồn và quả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ có thế giới tưởng mà thôi”.

Nhưng tại sao trong tạng kinh Nguyên Thủy còn có những bài kinh nói về thế giới siêu hình? Khi đức Phật nói về thế giới siêu hình, 33 cõi Trời, cõi Địa Ngục, cõi chư Thiên và cõi Ngạ Quỷ, là nói đến cảnh giới tưởng của con người, chớ Ngài đâu có nói đó là cảnh thật. Vì thế Ngài xác định: “Tưởng tri chớ không phải là liễu tri”. (138)

Bây giờ, quý vị đã rõ rồi phải không? Vậy từ đây quý vị còn mê tín nữa không? Còn tin theo kinh sách Đại thừa nữa không? Tuy nói như vậy, nhưng tin hay không tin là tùy quý vị, chúng tôi chẳng có quyền và chẳng có trách nhiệm gì cả trong vấn đề mê tín dị đoan. Mất tiền, mất của là mất tiền của của quý vị, chớ chúng tôi chẳng có hao tốn gì cả. Nói để cùng nhau suy ngẫm cuộc sống con người đâu đúng, đâu sai, đâu tà, đâu chánh, đâu thật, đâu giả, v.v…​ để cho mọi người sống an vui, hạnh phúc, không làm khổ mình, khổ người. Và đó cũng là tâm nguyện của chúng tôi.

--o0o--

BÀ CHÚA BA

Hỏi: Kính bạch Thầy, câu chuyện Công Chúa Ba (chùa Hương Tích) có thật hay là chuyện huyền thoại để răn đời, mà từ xưa tới nay, mỗi năm vào đầu xuân, không biết bao nhiêu người đổ về chùa tham quan vãng cảnh. Điều này theo con nghĩ, vãng cảnh đẹp thiên nhiên là đúng, nhưng ngoài ra, đa số lại đi chùa cầu xin tài lộc, cầu tự…​ là do lòng tin của mọi người đối với Bà Chúa Ba qua đức nhẫn nhục và lòng hiếu hạnh. Vua cha đã làm nhiều điều ác độc, nhưng nhờ cô con gái thứ ba tu thành chánh quả, dùng tay mắt (139) của mình làm thuốc chữa trị bịnh cho cha, làm như vậy có trái luật nhân quả thiện, ác không thưa Thầy?

Đáp: Câu chuyện Bà Chúa Ba là câu chuyện truyền thuyết huyền thoại, chứ không phải chuyện thật, câu chuyện này cũng giống như câu chuyện Quan Âm Thị Kính vậy. Những nhân vật trong truyện là những nhân vật tiểu thuyết giả tưởng của một tác giả xưa, chịu ảnh hưởng Nho giáo và Phật giáo Đại thừa. Câu chuyện này là câu chuyện tội lỗi, phi đạo đức của Phật giáo Đại thừa, mà từ lâu chưa có ai vén bức màn đen tối này lên, nên mọi người đều lầm tưởng Bà Chúa Ba tu hành đã thành Phật.

Câu chuyện này là câu chuyện phi đạo đức đệ nhất trong giáo lý Đại thừa.

Trang Vương là một nhà vua vào thời Đông Chu liệt quốc bên Trung Hoa, tương đương ở Việt Nam vào thời Hùng Vương, vì xét qua lịch sử khi Trưng Vương nổi dậy chống quân xâm lăng vào thời nhà Đông Hán. Như vậy, câu chuyện này xảy ra trong lúc nước ta còn trong giai đoạn bộ lạc.

Vua Trang Vương có ba người con gái, hai đứa con lớn đã lập gia thất, chỉ còn đứa con gái út thứ ba là Diệu Thiện chưa lập gia đình. Vì thế nhà vua rất thương cô gái út, nên khi nghe Diệu Thiện muốn đi tu là ông tìm mọi cách ngăn cản. Trước khi Bà Chúa Ba đi tu, nhà vua rất sùng kính Phật giáo, ông rất hiền lành, sống có đạo đức, lấy chánh pháp trị dân, thương dân như con (140) một. Sau khi nàng Công Chúa Ba đi tu, nhà vua trở thành độc ác, ông nghĩ rằng: Các tăng trong chùa quyến rũ con gái ông, khiến ông khổ đau vì thương nhớ con, ông căm tức ra lệnh cho quân lính vây chùa, giết tăng và đốt chùa.

Do hành động ác độc này, và sự buồn rầu nhớ thương con nên ông mang bệnh và căn bệnh rất nặng, không có thuốc thang nào chữa trị được, đành phải chờ chết. Trong lúc đó, có một vị tăng xuất hiện xin trị bệnh cho vua. Sau khi xem xét bệnh tình, vị tăng kê toa, nhưng còn thiếu hai vị thuốc là mắt và tay của con người được đem nấu chung với các vị thuốc khác thì trị bệnh mới hết. Nhưng mắt, tay phải là của con nhà vua thì mới hiệu nghiệm, còn của người khác thì không hiệu nghiệm.

Hai đứa con gái đầu đã có chồng con nên không dám hy sinh mắt, tay để làm thuốc cho cha, vì thế nhà vua không còn hy vọng sống chút nào, chỉ còn chờ ngày chết mà thôi.

Tại động Hương Tích, nàng công chúa Ba được sứ thần đến xin mắt và tay để về làm thuốc cho vua cha. Khi nghe cha bệnh nặng và xin mắt, tay, nàng bèn khoét mắt, chặt tay giao cho sứ thần mang về làm thuốc trị bệnh. Lúc bây giờ nàng đã thành Phật, nên mắt tay đều lành lặn trở lại như xưa.

Câu chuyện trên đây là câu chuyện cấu kết nhân vật giả tưởng, mới nghe qua thì tưởng là (141) đạo đức, nhưng sự thật câu chuyện này là phi đạo đức nhân quả và rất nhiều điều tội lỗi:

1- Nàng Công Chúa Ba chịu ảnh hưởng Đại thừa giáo nên bỏ cha đi tu, khiến cho vua cha buồn khổ thương nhớ. Đó là tội thứ nhất, làm khổ cha già là người sanh thành, dưỡng nuôi lớn khôn, công lao trời biển đó, thế mà nỡ tâm, đành bỏ cha già đi tu, thật là vô đạo, đức bất hiếu thứ nhất.

2- Nàng Công Chúa Ba đi tu theo Đại thừa giáo theo kiểu bất hiếu, khiến cho vua cha căm tức đốt chùa, giết tăng tạo tội ác tày trời, đó là hành động tội lỗi vô đạo đức thứ hai. Nếu Công Chúa Ba không bỏ đi tu thì người cha đâu có làm nên tội lỗi tày trời như vậy.

3- Chặt tay khoét mắt mình, đó là làm khổ mình, tức là vô đạo đức với mình. Vô đạo đức với mình là tội vô đạo đức thứ ba.

4- Dùng thần thông lừa đảo người (mắt tay lành lặn như xưa), để mọi người tỏ lòng cung kính ngưỡng mộ đó là háo danh, là tội lỗi phi đạo đức thứ tư, không phải là người tu hành chân chánh của đạo Phật.

Tóm lại, bà chúa Ba được thờ tại chùa Hương Tích với một lịch sử tội lỗi và phi đạo đức như vậy, thì có xứng đáng gì cho chúng ta thờ phụng và tỏ lòng tôn kính không? Đó chỉ là một sự mê tín trong dân gian mà tác giả dựa vào tư tưởng của Đại thừa vẽ rắn thêm chân. Vì thế, câu chuyện này vô đạo lý nhân quả của Phật giáo. (142)

Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận những câu chuyện huyền thoại phi đạo đức như trên, đi ngược lại với đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật.

--o0o--

THỜ CÚNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP

Hỏi: Thờ cúng như thế nào cho đúng chánh pháp?

Đáp: Thờ cúng đúng chánh pháp là thờ đúng đạo nghĩa làm người. Vậy, thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người là thờ cúng như thế nào? Thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người tức là hành động cung kính, tôn trọng, tỏ lòng nhớ tưởng, biết ơn của mình với người đã khuất bóng.

Ví dụ 1: Thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ là một hành động đạo nghĩa để tỏ lòng cung kính, tôn trọng, nhớ tưởng đến ân đức, công lao khó nhọc của những người này đã gây dựng một gia đình êm ấm, một dòng họ tốt đẹp, một xã hội đoàn kết, một đất nước phồn vinh thịnh trị. Đó là thờ cúng đúng chánh pháp. Còn nếu như thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ là để linh hồn của những người đã khuất bóng này về hưởng của dâng cúng, hay về để phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, bình (143) an, thì đó là thờ cúng không đúng chánh pháp. Đó là thờ cúng theo mê tín, lạc hậu.

Ví dụ 2: Thờ cúng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là để tưởng nhớ công lao của người đã tìm ra chân lý, giúp con người thoát bốn sự đau khổ của kiếp làm người. Đó là thờ cúng đúng chánh pháp. Còn ngược lại, thờ cúng Ngài để Ngài phù hộ cho tai qua, nạn khỏi, bịnh tật tiêu trừ, thì đó là thờ cúng không đúng chánh pháp, là mê tín, lạc hậu. Đó là thờ cúng theo kiểu Đại thừa, biến chùa, nơi tu hành của tăng, ni và cư sĩ, trở thành nơi hành hương mê tín.

Thờ cúng đúng chánh pháp là phải thờ cúng những nhân vật có thật, là những con người được sanh ra và lớn lên trên hành tinh này, đã làm lợi ích cho gia đình, xã hội, tổ quốc và loài người.

Thờ cúng đúng chánh pháp không được thờ cúng những nhân vật huyền thoại, những nhân vật tiểu thuyết, những nhân vật bịa đặt ra như: Phật Di Lặc, Phật Di Đà, Quan Thế Âm, Thế Chí, Tề Thiên Đại Thánh, Sa Tăng, Bát Giới, Nhiên Đăng Cổ Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật, Phật Tỳ Bà Thi, v.v…​ Tất cả những nhân vật này là những nhân vật huyền thoại, tiểu thuyết. Thờ cúng những nhân vật này là thờ cúng mê tín. Cho dù thờ cúng có thiêng cũng chỉ do tâm của chúng ta mà có thiêng, chứ riêng các vị này chẳng có thiêng gì cả, vì nó là những nhân vật không có thật. (144)

Thần Sông, Thần Núi, Thổ Công, Thổ Địa, Thần Hoàng, Bổn Cảnh, Thủy Long, Long Vương, Hà Bá, Diêm Vương, Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, v.v…​ đều là những nhân vật giả tưởng không có thật. Nếu thờ cúng những vị này là thờ cúng mê tín, lạc hậu, là thờ cúng không đúng chánh pháp.

Sự thờ cúng mê tín, không đúng chánh pháp làm hao tài, tốn của mà không có ích lợi gì cho mình, cho mọi người, cho xã hội, v.v…​ và không nói lên được ý nghĩa cao đẹp của lòng biết ơn sâu xa của chúng ta, phải không các bạn? Thờ cúng như vậy là vô minh, là ngu si, bị người khác lừa đảo làm tiền mà không biết, tức là tiền mất, tật mang.

Muốn thờ cúng đúng chánh pháp thì các con nên nhớ kỹ: “Bệnh tật, tai nạn là do hành động thiếu đạo đức làm khổ mình, khổ người của chúng ta tạo ra”. Nếu muốn cho bệnh tật, tai nạn không xảy ra thì luôn luôn phải sống đúng đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người, chứ không phải thờ cúng mê tín, cầu khấn, van xin với Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát mà tai qua, nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ được ư!

Thờ cúng đúng chánh pháp, trong tinh thần đạo lý, đạo nghĩa, ân đức và lòng hiếu sinh làm người, thì không được giết hại sinh linh làm cỗ bàn linh đình. Ngày ấy, chỉ nên cúng tế hoa quả, thực phẩm thực vật, tránh những sự khổ đau của (145) sinh linh, máu đổ, thịt rơi của loài động vật. Có như vậy, thì ơn nghĩa của chúng ta đối với những người quá cố mới tròn đầy nghĩa tình đạo lý làm người.

Ngày ấy, nếu các con cúng tế bằng sự giết hại sinh linh, làm cỗ bàn linh đình, tiếng kêu la đau đớn của loài vật trong tuyệt vọng, trước những lưỡi dao sắc bén của những con người ác độc, những sự giãy giụa, run rẩy của loài vật để mong thoát chết nào có được đâu. Đôi mắt chúng long lanh nhìn vào những con người, như tha thiết cầu xin tha cho mạng sống. Nhưng con người như vô tình, nào để ý đến. Họ chỉ biết ăn uống, nhậu nhẹt vui chơi thỏa thích mà thôi.

Đạo đức ân nghĩa không thể lấy sự giết hại, lấy sự chết chóc và lấy sự đau khổ của sinh linh mà nói lên được ân nghĩa sao? Đạo đức ân nghĩa thì phải lấy sự an vui, hạnh phúc của muôn loài, dâng lên cúng tế những bậc tiên hiền, thánh đức, tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta, thì mới có ý nghĩa tỏ hết lòng tri ân chân thành. Đó là sự thờ cúng đúng chánh pháp, nên ghi nhớ và cố gắng nhẫn nhục, tùy thuận, vui lòng mà thực hành cho đúng chánh pháp của Phật, để mang đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của người đệ tử Phật, phải không hỡi các con?

Đến đây, Thầy xin dừng bút, kính lời thăm và chúc các bạn vui, mạnh, tu tập xả tâm tốt, và sống một đời sống đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. (146)

GỬI HÀI CỐT, CHÔN CẤT TRONG KHUÔN VIÊN CHÙA

Hỏi: Kính thưa Thầy, người con báo hiếu đưa xác hay hài cốt người thân về chùa có lợi ích gì? Quý Thầy trong chùa nhận hài cốt và an táng trong đất chùa có lợi ích gì?

Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Theo phong tục mê tín của dân tộc Việt Nam xuất phát từ trong các chùa, cho rằng người chết được chôn trong đất chùa, hoặc gửi nắm tro tàn trong tháp hài cốt, hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên Đàng…​ Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh, khiến cho người ta không còn sáng suốt, nên nghe quý thầy, quý cô trong chùa bảo sao làm vậy, chứ không có tư duy, suy nghĩ chín chắn. Vì thế, sự tin tưởng thiếu thực tế, mơ hồ, không trí tuệ của một số phật tử đã làm giàu cho các chùa, và biến các chùa trở thành nhà mồ, trở thành một nơi sinh hoạt mê tín, chứ không còn là nơi tu hành của tăng, ni và nam, nữ cư sĩ.

Ở thành phố đất hẹp người đông, vì thế chùa muốn kinh doanh làm tiền phật tử bằng sự lừa đảo mê tín như chúng tôi đã nói ở trên. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt. Khi có thân nhân chết, người ta đem thiêu xác gửi vào chùa, và khi (147) gửi nắm tro tàn như vậy thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào, và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất nhiều hằng năm. Nếu thân nhân không cúng dường tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp vào chỗ khuất lấp, còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên chỗ sang trọng trong tháp.

Trong chùa, các Thầy thường bảo nhau: “Tháp hài cốt là núi tiền, là những mẩu ruộng mầu mỡ xài hoài không hết!”. Đúng vậy, nhà chùa hiện giờ lấy hài cốt của thân nhân phật tử làm con tin, để làm tiền một cách phi nhân nghĩa, phi đạo đức.

Ví dụ: Nhà chùa muốn làm một việc gì thì nhắm vào những phật tử có gửi hài cốt hoặc chôn thân nhân trong đất chùa, họ kêu gọi đóng góp làm từ thiện, hoặc xây cất chùa và bất cứ một việc gì trong chùa.

Nghe kinh được siêu thoát về Cực Lạc, Thiên Đàng đâu không thấy, mà chỉ thấy những người còn sống phải gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín. Cho nên chùa nào có đất rộng làm nghĩa địa, hoặc xây tháp hài cốt là chùa đó giàu to, giàu mà không phí sức lao động chút nào cả. Như các con đã thấy, tệ nạn lừa đảo phật tử hiện giờ trong các chùa rất lộ liễu.

Bây giờ, Thầy sẽ hỏi quý phật tử, quý vị cứ vui lòng nói thẳng, có sao nói vậy, đừng tự dối mình:

Hiện giờ, quý phật tử thường đến chùa không những nghe thuyết pháp mà còn ngồi thiền, tụng (148) kinh, niệm Phật, niệm chú, lạy hồng danh sám hối, v.v…​ thế mà quý vị có thấy ai đã được lên Thiên Đàng, Cực Lạc chưa? Có thấy hết khổ chưa? Có thấy sự giải thoát chưa? Quý vị cứ thành thật trả lời xem.

Trong lúc quý vị còn sống mà còn chưa biết được Cực Lạc, Thiên Đàng ở đâu? Có hay không có? Huống là người chết, họ còn nghe thấy được những gì. Nếu quả chăng nghe kinh mà được sanh về Cực Lạc, Thiên Đàng, thì người ta tu làm gì cho cực khổ phải không quý vị? Đó là những mánh khóe lừa đảo của kinh sách Đại thừa, chúng ta nên cảnh giác.

Với tinh thần tình cảm đạo nghĩa của cuộc sống dân tộc Việt Nam: “Sống cái nhà, thác cái mồ”, người sống dù nghèo hay giàu đều phải có một ngôi nhà, dù là nhà tranh vách lá, chòi, lều…​ cho đến nhà lầu, vila, biệt thự…​ cũng vẫn là một cái nhà mà thôi. Vì đạo nghĩa làm người, nên khi chết còn lại nắm xương hoặc nắm tro tàn, người ta xây một ngôi mộ nho nhỏ đủ để vùi lấp nắm xương và nắm tro trong lòng đất mẹ quê hương, để đánh dấu ghi khắc một kỷ niệm thăng trầm của một đời người. Nơi đây là để ghi nhớ lại cho con cháu, cho người sau một ân nghĩa khó quên. Chứ người chết còn gì nữa, chết là mất đi một kiếp người. Nơi đây là nơi để cho con cháu tập hợp, nhắc lại những thành tích của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nơi đây là nơi để cho con cháu đừng quên nắm xương tàn của những người thân thương. (149)

Mỗi năm chỉ có một lần về thăm mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ, là chúng tôi cảm thấy có một điều gì thương nhớ bùi ngùi trong tâm hồn của chúng tôi. Bởi vậy, đối với người Việt Nam có một tình nghĩa sâu sắc khó quên, những nấm mồ của tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn đó là tình cảm con người không bao giờ phai nhòa.

Có những dân tộc khi chết đi, họ đem thiêu đốt và lấy tro đem đổ xuống biển, bảo rằng đem tro đổ xuống biển cho mát mẻ. Thế khi thiêu xác sao không bảo rằng nóng? Việc an táng này có lợi nhưng cũng có hại. Lợi là con cháu khỏi quét mả (tảo mộ), hại là lòng người ân nghĩa dễ quên, con cháu sau này không còn chỗ để nhớ tưởng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vì đã ném tro xuống biển làm ô nhiễm môi trường sống. Như chúng ta đã biết, trên hành tinh này con người có nhiều kiểu an táng, tùy theo bản năng, tình cảm của mỗi dân tộc nên chia ra làm bốn cách an táng:

1- Địa táng

2- Hỏa táng

3- Thủy táng

4- Điểu táng

Những dân tộc có tình cảm sâu xa như dân tộc Việt Nam, Trung Hoa thì địa táng, xây mồ mả giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình.

Những dân tộc ít tình cảm hơn như dân tộc Campuchia thì hỏa táng lấy tro đựng trong một cái ghè để dưới gốc cây lâm vồ, giống như cây đa (150) ở nước chúng ta. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ như vậy rất thiếu vệ sinh, gây ra môi trường ô nhiễm, khiến cho con người dễ bịnh đau.

Những dân tộc ít tình cảm hơn nữa như dân tộc Tây Tạng thì họ điểu táng, khi người chết, họ đem vào rừng cắt ra từng miếng thịt nhỏ, quăng ném khắp nơi để cho loài chim bay đến ăn thịt.

Cách thức điểu táng gây ra môi trường ô nhiễm ghê gớm, mùi tanh, hôi, thối bốc ra khắp cả một vùng rừng núi, khiến cho không ai dám đến nơi đó. Tục lệ điểu táng là một việc làm thiếu vệ sinh, gây ô nhiễm, khiến mọi người dễ sanh bịnh tật khổ đau.

Thủy táng là những người dân sống trên sông nước, họ không có địa táng, hỏa táng hoặc điểu táng, khi có người chết, họ an táng bằng cách neo vào quan tài một tảng đá to, dùng thuyền chở ra giữa dòng sông rồi họ dứt dây, quan tài từ từ chìm xuống đáy sông. Lại có một số người sống ven biển như dân tộc Đại Hàn, người chết họ đem thiêu xác, rồi lấy tro đổ xuống biển, đó cũng là loại thủy táng, thủy táng bằng tro. Loại thủy táng nào cũng thiếu vệ sinh, gây ra môi trường ô nhiễm cho cuộc sống của con người.

Trong bốn loại an táng, thì loại địa táng là tình cảm thiêng liêng nhất của loài người, vì không thấy thi thể của người thân của mình bị hủy hoại một cách tàn nhẫn. Vả lại, địa táng còn lưu lại dấu tích sau cùng để con cháu tưởng nhớ, (151) khó quên tổ tiên dòng giống, duy trì và truyền thống một nền đạo đức ân nghĩa sâu dày.

Địa táng là một sự giữ gìn vệ sinh môi trường sống rất tốt, nhưng nó không được trọn vẹn vệ sinh bằng hỏa táng cộng địa táng. Nhưng hỏa táng thì tình cảm thiêng liêng của con người không cho phép chúng ta làm, và chúng ta không thể không đau lòng được trước cảnh thiêu xác người thân.

Nếu hỏa táng đem tro hài cốt người thân vào chùa, điều này có 4 cái hại:

1- Mê tín (nghe kinh và siêu thoát).

2- Thiếu vệ sinh môi trường, vì nắm tro tàn vẫn còn bốc mùi hôi, khét khó chịu, và để khơi khơi trên bàn thờ tỏa ra mùi uế trược, bất tịnh ghê gớm.

3- Tốn hao tiền bạc, phải cúng tế trong nhà chùa, nhà chùa lợi dụng tro hài cốt kêu gọi đóng góp mọi thứ khi chùa cần xây dựng, làm từ thiện, hoặc tổ chức cúng tế, lễ lộc, v.v…​

4- Nắm tro tàn hài cốt của người thân là con tin của nhà chùa để họ làm tiền phật tử, nếu phật tử nào không có tiền cúng chùa thì tro hài cốt ấy được đẩy lui vào hốc tháp, có khi bị dẹp bỏ, nếu con cháu không cúng dường tiền cho chùa.

Nấm mồ trong đất chùa cũng vậy, cũng chỉ là con tin để chùa làm tiền mà thôi. Vì thế, chùa có mả mồ nhiều, có tháp tro hài cốt to thì chùa ấy giàu, quý phật tử có thấy điều này không? (152)

Quý vị có thân nhân được chôn trong đất chùa, thì quý vị đừng lấy làm vinh hạnh, nhà chùa họ kinh doanh lừa đảo quý phật tử đó. Bán đất chôn thì quá đắt (tấc đất tấc vàng), chứ họ chẳng cho quý vị đồng nào cả. Họ cắt cổ quý vị tới chết chưa thôi, mà còn cắt cổ con cháu của quý vị nữa, được đem tro hài cốt vào chùa thì phải có một số tiền mặt, và từ đó về sau, khi nhà chùa có bất cứ chuyện lớn chuyện nhỏ nào, thì họ cũng đều kêu quý phật tử.

Quý vị đừng tưởng rằng, thân nhân được chôn trong đất chùa, hoặc nắm tro tàn hài cốt được đặt vào ngôi tháp xinh đẹp của chùa là linh hồn được nghe kinh, được siêu thoát về cõi Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn, v.v…​ Không chắc đâu quý vị ạ! Điều này quý vị đã bị lừa đảo lọt vào mê tín. Một đời tu hành của chúng tôi hết sức giữ gìn giới luật nghiêm túc, thực hiện pháp ly dục, ly bất thiện pháp không lúc nào nghỉ ngơi, thế mà chúng tôi đi tìm cái Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn…​ cũng chẳng thấy ở đâu mà có, chỉ có là ở chỗ trạng thái tâm bất động trước các pháp lúc chúng tôi còn đang sống. Còn người chết rồi thì còn chi nữa mà nghe kinh, mà siêu thoát. Chết rồi chỉ còn nghiệp lực tái sanh luân hồi vào thân nghiệp khác còn chi nữa. Nắm xương tàn trong lòng đất và nắm tro tàn trong tháp còn có nghĩa lý gì trong cuộc sống này nữa. Thôi hết rồi, nếu lúc sống không tu thì đến khi chết rồi còn gì mà nghe kinh, siêu thoát được. (153)

Chúng tôi xin góp ý với quý phật tử, chúng ta là dân Việt Nam, với tinh thần đạo đức ân nghĩa sâu dày và tình cảm khó quên với truyền thống: “Cây có cội nước có nguồn”, hay: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”. Dân tộc Việt Nam có cái nhìn sự sống và chết không khác: “sống cái nhà, thác cái mồ”. Với tinh thần truyền thống đạo lý này, cụ Nguyễn Du nói:

“Tiết thanh minh trong lúc tháng ba,

Chị em ta rủ nhau đi tảo mộ”

(Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh)

Đó là một tục lệ truyền thống tốt đẹp của con người. Hằng năm đến ngày này, mọi người đều về thăm và quét dọn sạch sẽ mồ mả của tổ tiên, ông bà, cha mẹ…​ đó là một hành động tình nghĩa đạo đức làm người. Làm người không thể không có được đạo nghĩa này, nếu không có đạo nghĩa này thì không xứng đáng làm người. Nếu đã thiêu xác cha mẹ gửi vô tháp nhà chùa, muốn vào thăm thì quý vị cũng phải có lễ lộc cúng bái…​ chứ không lẽ đi không coi sao được. Và thăm như vậy thì đâu còn có nghĩa là đi tảo mộ.

Đi vào chùa thăm tro hài cốt của cha mẹ không còn ý nghĩa như đi tảo mộ ngày xưa nữa, nó chỉ có nghĩa là đi cúng Phật, lễ bái mà thôi. Ngày tảo mộ là ngày con cháu tụ họp về đông đủ, nói lên tinh thần đạo đức ân nghĩa, khiến cho giòng họ không còn xa lạ, con cháu gần gũi với (154) nhau hơn, do đó gia tộc có một tinh thần đoàn kết chặt chẽ.

Ngày nay, đất hẹp người đông, nên người ta thiêu xác, lấy tro bỏ vào hũ, đem gửi vào chùa làm mất ý nghĩa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Theo chúng tôi thiết nghĩ, nhà chùa là nơi thanh tịnh, trang nghiêm để tu hành, chứ không phải nghĩa địa, nhà mồ, mà người tín đồ có thể đem sự bất tịnh vào đó, làm cho ô uế môi trường sống chung của chỗ tu hành.

Thành phố hiện giờ có rất nhiều chùa, mỗi chùa đều có nơi để tro hài cốt người chết, mùi hôi của chất tro này bốc lên và lan rộng khắp cùng trong thành phố, làm cho bầu không khí ở đây rất ô nhiễm, khiến cho người dân thành phố dễ bịnh hơn dân chúng ở nông thôn. Ở thành phố chỉ có nhà chùa thì được lợi, mà dân thành phố thì chịu thiệt thòi. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi, nhà chùa nên tổ chức một nghĩa địa cách xa thành phố, do phật tử tại chùa hùn nhau mua một khu đất, rồi tất cả thân nhân của các phật tử chùa đó chết đều được đem về chôn cất. Nhưng nhà chùa không được bán, không được lấy tiền dù ít dù nhiều của một người nào cả, vì đó là khu đất chung của phật tử, của chùa đó. Cũng giống như bên đạo Thiên Chúa, nơi nhà thờ nào họ cũng tổ chức một nghĩa địa, để tất cả những tín đồ chết đều được đem vào đó chôn cất như một tập thể mồ mả của tín đồ Thiên Chúa. (155)

Nhà chùa chúng ta cũng nên tổ chức như vậy, nhưng không được bán lấy tiền như trên chúng tôi đã nói, bán lấy tiền là làm mất ý nghĩa đạo lý của tôn giáo. Các nhà chùa ở miền Bắc đã làm sai, không đúng tinh thần đạo đức làm người, đến người chết mà chúng ta không dành cho họ một tấc đất để gửi nắm xương tàn hay sao? Vậy mà các chùa sao nỡ nhẫn tâm, làm tiền người chết sao đành? Để xác định điều này, người chôn trong đất chùa cũng như gửi tro hài cốt vào tháp trong chùa thì chẳng có ích lợi gì về mặt tôn giáo, mà còn có hại là con cháu phải tốn tiền bạc đủ mọi thứ, nếu nhà chùa kêu đóng góp, thì chắc quý vị phật tử không thể nào từ chối được.

Theo Phật giáo Nguyên Thủy, sống không tu tập ngăn ác, diệt ác pháp, đến khi chết chôn trong đất chùa cũng như chôn trong các nghĩa địa khác. Chôn và gửi tro hài cốt trong đất chùa là làm con tin cho nhà chùa. Người con hiếu chôn hay gửi tro hài cốt cha mẹ vào chùa để được theo Phật nghe kinh, siêu thoát là điều mê tín.

Nhà chùa nhận chôn và tro hài cốt vào đất chùa là một lợi ích rất lớn, đó là kinh doanh hài cốt con người để làm giàu bất chánh, đây là cái sai thứ nhất.

Nhà chùa đã biến nơi tu hành thành nơi nhà mồ, nghĩa địa, nơi thực hiện sự mê tín của dân gian, đây là cái sai thứ hai.

Tóm lại, vì lợi ích vệ sinh trong môi trường sống chung và đạo nghĩa làm người trong tinh (156) thần dân tộc Việt Nam, “sống cái nhà thác cái mồ”, thì mỗi nhà chùa đều nên có một nghĩa địa riêng, cách xa nơi sinh hoạt tu học của tăng ni và cư sĩ. Nơi đó, tất cả tín đồ Phật giáo khi chết đều được an táng mà không phải tốn hao một đồng một xu nào cả. (157)

--o0o--

image

CHƯƠNG IV:

(159)


Trích dẫn - Ghi chú - Copy