THIỀN ĐỊNH CỦA Ý THỨC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời lượng: [1:32:31]
Rơi vào loại tưởng không đúng đâu. Bởi vì khi nào chúng ta sống đúng nghiêm chỉnh theo giới luật hẳn hòi đàng hoàng rồi, thì bắt đầu chúng ta mới kiểm nghiệm từng cái chút, nghĩa là trước cái ác pháp tâm nó bất động, là người ta chửi mắng mình không có giận hờn phiền não, không có tham sân si nữa thì mình thấy rằng mình đã ly dục, ly ác pháp rồi. Bây giờ cho nên ác pháp không có tác động được nữa. Phải không?
Cho nên do vì vậy chúng ta biết rõ ràng thì bấy giờ chúng ta mới ngồi lại, chúng ta để cho cái tâm tự động ở trên hơi thở mà chỉ có quyền nhắc chứ không có được tập trung, mình không có tập trung trên hơi thở nữa mà chỉ có quyền nhắc.
Bây giờ chúng ta quan sát trên từng Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta xong rồi, bây giờ chúng ta nhắc cái tâm định trên hơi thở, rồi bắt đầu mình nhắc thì tức là cái tâm nó sẽ biết hơi thở ra… Bởi vì trải qua cái thời gian mình tu Định niệm hơi thở, tức là mình tu hít thở năm hơi thở đi kinh hành đó, từ mình nhắc “Thở ra tôi biết tôi thở ra, hít vô tôi biết tôi hít vô” hay hoặc “Tôi thở tôi biết tôi đang thở” thì cái sự tu tập của các con nó đã thuần quen với hơi thở cho nên khi mà nhắc nó, khi mà quan sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp xong rồi thì bắt đầu mình nhắc “Cái tâm phải định vô hơi thở, đừng có phóng dật ra ngoài”.
Do đó bây giờ mới thấy nó biết nó hơi thở ra vô, để tự nó biết chứ không có gom như hồi mình mới tu, 5 hơi thở đi kinh hành là mình phải gom cái tâm vô cái hơi thở. Còn bây giờ thì không gom, chỉ nhắc rồi tự động để cho nó biết, chớ không có. Bởi vì khi mà nhắc vậy thì tự nó định trên hơi thở, cho nên mình chỉ cần coi như mình chỉ là một người đứng xem coi cái tâm của mình nó định hơi thở chứ không phải là mình ngồi đó mình ôm ấp nó hoặc là mình tập trung gom cái tâm mình vô trong cái hơi thở, không phải. Mà mình chỉ đứng quan sát để coi cái tâm của mình nó quay vô hơi thở thôi.
Coi như mình là người thứ ba để đứng coi cái tâm nó quay vô hơi thở. Hơi thở là cái đối tượng của cái tâm, coi thử coi nó có định lên không, thì mình đứng đây mình xem thôi chứ mình không có tập trung.
Phật tử: Bạch Thầy là không chú ý vào tụ điểm mà chỉ xem hơi thở xem có ra vào không?
(2:00) Trưởng lão: Chỉ xem hơi thở ra vào không có gom tâm trong tụ điểm. Gom trong tụ điểm là khi chúng ta còn tu Định Niệm Hơi Thở, còn tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta sẽ tập trung gom lại, còn bây giờ thì không có gom lại, mà chỉ nhắc nó rồi chúng ta chỉ quan sát coi thử coi nó có gom…
Phật tử: Quan sát có thở hay không chứ không có chú ý tụ điểm.
Trưởng lão: Coi thở hay không đó, nó thở nặng thở nhẹ thở chậm thở dài thì kệ nó, không có cần mà phải thở cho nó có vận dụng để cho nó tập trung đâu, không có vận dụng cái chút gì hết. Hơi thở sao cứ để vậy rồi coi thử coi cái tâm của coi nó có biết hơi thở hay không. Mình biết tu thời gian sau thì mình sẽ thấy rõ ràng là mình đứng mình xem hơi thở, mình xem cái tâm nó bám vô hơi thở hoặc là không.
Bởi vì Thầy nói thực sự ra khi mà mình niệm rồi thì nó có cái người thứ ba dưới mình, bây giờ mình hướng tâm “Tâm như cục đất” nè, thì mai kia mốt nọ có sự kiện xảy ra thì thật sự ra ở trong tai mình, trong tâm mình nó nhắc liền: “tâm như cục đất”, khi có chuyện nó tức giận cái nó nhắc liền, thì đó là mình đã tạo được người thứ hai của mình, ngoài mình ra còn có người thứ hai của mình tức là người Niệm Xứ rồi. Cho nên vì vậy khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì ngay đó thì mình nhắc, cái lệnh của mình nhắc, thì mình chỉ nhắc nó là cái lệnh của mình là người chỉ huy rồi, thì mình coi thử coi cái tâm có quay vô không. Thì mình thấy rõ ràng cái tâm nó quay vô nó biết hơi thở. Cho nên mình không có tập trung không có gì hết, nó nhẹ nhàng ghê gớm lắm. Thầy nói thật sự ra tu tới đây là nó tới sự vi tế rồi.
Cho nên vì vậy nó không phải là còn như mình tập trung như các sư các thầy mà tu tập, nó quá thô rồi nó không phải đâu, ở đây nó khác, nó đến giai đoạn của cái tâm nó tự nhiên. Rồi bây giờ nó tự nhiên như vậy nhưng mà nó chưa hẳn đã hoàn toàn nó kéo dài được, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc. Bây giờ khi mà nó đương như vậy, đương như vậy không phải chúng ta để cho nó ở vậy hoài, mà chúng ta phải tác ý ra. Bây giờ phải quan sát lại Thân-Thọ-Tâm-Pháp xem có chướng ngại không, chứ không khéo nó cứ để cho nó biết hơi thở, thì cái xúc tưởng hỷ lạc nó xuất hiện ra liền.
Nó xuất hiện ra liền thì mình cảm giác như nó an ổn, chứ thực sự ra mình không có ý thức trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Mà mục đích Tứ Niệm Xứ là mình dùng ý thức, tức là Chánh Niệm mà, cái ý Chánh Niệm ở trên đó chứ đâu phải là cái tưởng, cho nên vì vậy mình cứ ngồi im lặng nó thành tưởng. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta lại nhắc cái tâm, bây giờ phải quay trở lại, nghĩa là lìa hơi thở đó, phải quay trở lại quan sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp lần nữa.
Rồi bắt đầu bây giờ nó quay lại quan sát y như vậy lần lượt lần lượt, cho đến Pháp xong rồi, thì bắt đầu nó ra lệnh, tự nhiên nó phản xạ một cách khi mà tu nó quen rồi nó ra lệnh nó nhắc “Cái Tâm định lên hơi thở liền”, thì bắt đầu cứ mình quan sát coi cái tâm nó quay vô nó biết hơi thở ra vô trên hơi thở của mình. Khi mình nhắc rồi thì cái hơi thở nhẹ chậm như thế nào thì mình vẫn, cái tâm nó bắt đầu nó quay vô thì nó vẫn thấy biết rất rõ. Còn mình ra lệnh thì mình thấy cái lệnh của mình hoàn toàn nó đứng ở ngoài cái góc độ để mà nó quan sát.
(4:45) Cho nên cái lệnh đó là cái lệnh của pháp Như Lý Tác Ý, cái đạo lực ở chỗ pháp Như Lý Tác Ý. Mình tu tập mà được cái người thứ ba mà ngoài cái đối tượng của tâm, với cái tâm rồi mà có người thứ ba nữa, tức là người thứ ba đó là cái đạo lực của mình. Khi nào nó hiện ra cái đạo lực thì nó mới đúng mà chưa có đạo lực thì mấy người phải tu tập Tứ Chánh Cần rất nhiều, chớ tu lơ mơ thì không được.
Cho nên vì vậy nhớ, là cư sĩ các con thì luôn luôn lúc nào những buổi tối mà trong gia đình mình, buổi tối thì nó sinh hoạt, nó phát ti vi này kia, chỉ có buổi khuya là tốt nhất cho quý vị tu. Không lẽ bây giờ mình lại còn ham ngủ nữa sao. Cho nên các con nhớ Thầy dặn con, khi mà về tất cả vợ con tối nó ngủ rồi kệ nó, khuya mình ngủ chừng một tiếng đồng hồ, cái mình thức dậy, lúc đó 2 giờ, 3 giờ cũng được miễn là mình thức dậy mình tập cho nó tỉnh táo cho đàng hoàng. Rồi bắt đầu vô ngồi, quyết định là ngồi tu một giờ Tứ Niệm Xứ, rồi tu rồi đi ngủ, không cần nữa. Tu một giờ thôi rồi đi ngủ, mà tu rồi đi ngủ khỏe lắm. Mà trước đi ngủ thì phải nhắc nó: “Tâm ngủ không có chiêm bao mộng mị gì hết, ngủ cho ngon, ngủ cho tốt ngày mai làm việc nữa”.
Cứ như vậy, rồi ban ngày sống ngăn ác diệt ác, ban đêm tu Tứ Niệm Xứ, rồi tới cái lúc mà tự cái tâm nó quay vô rồi thì bất kì ở nơi đâu cũng phải về đây hết để Thầy dạy nhập định, chứ còn cái tâm mà nó quay vô nó biết thở ra vô ra vô mà không có về đây, thì kể như là không biết cái cách phương pháp hướng tâm để nhập các định. Giai đoạn này là giai đoạn tu Tứ Như Ý Túc, bốn cái Như Ý Túc của mình, lúc bấy giờ Thầy mới dạy cách thức tu Tứ Như Ý Túc.
Chứ bây giờ mình hướng bậy thì không được, hướng bậy rồi tới chừng đó nó đi lạc rồi cái nó vô không được. Thí dụ mình thấy nó được vậy mình nhắc “Tịnh chỉ hơi thở đi, vô đi”. Trong khi đó nó tịnh chỉ bất tử nó vô đó mình không thở nữa, bà con xuống chôn mình đó, uổng của đó, tu đến đây rồi mà người ta chôn cách oan mạng đó. Phải không?
(6:48) Phật tử 2: Trong cái tiến trình thời gian mà ngồi tu Tứ Niệm Xứ đó, con đã sắp xếp ổn định rồi, con ở độc cư rồi, tiến trình tu như vậy là theo dõi tâm theo bốn pháp hết rồi, dầu là bao nhiêu phút cũng là coi như một tiến trình hả Thầy?
Trưởng lão: À một tiến trình của nó, rồi bắt đầu đó cái tâm để cho nó định lên hơi thở một thời gian bao lâu tùy theo nó. Khi nó muốn hướng ra, ví dụ độ khoảng chừng mười hay hai mươi hơi thở, thì bắt đầu mình phải tác ý ra.
Phật tử 2: …Nó thì cái đó con cũng thấy an lạc…
Trưởng lão: Thì nó an lạc nhưng mà con phải tác ý.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Không được, cảm giác đó là thuộc về tưởng rồi.
Phật tử 2: Vậy con bỏ cái đó, con phải theo Thầy, theo cái tiến trình Thầy dạy…
Trưởng lão: Tiến trình của ý thức, không phải tiến trình bằng tưởng thức, còn cảm giác đó là tưởng thức đưa đi.
Phật tử 2: Nhưng mà sao cái cảm giác đó nó làm cho cũng như là máu chạy cũng như là mình châm cứu á.
Trưởng lão: Ờ thì đó là cái năng lực của tưởng mà.
Phật tử 2: (…)
(08:06) Trưởng lão: Như vậy là con dùng cái pháp tưởng nó cũng hết, nhưng mà nó không phải. Bởi vì pháp tưởng nó chỉ hà hơi cho con thôi. Bây giờ có người nói bị bệnh ma tà, rước ông Thầy phù thủy đến ổng cũng vẽ bùa cũng đọc thần chú rồi ổng cũng tụng kinh tụng gì đó, ổng kể một hơi con ma nó xuất ra thì họ cũng thấy hết rồi. Bởi vì họ có năng lực của tưởng nó giúp cho hết, nhưng mà mai mốt nó trở lại. Còn cái này không, con nếu mà con trị bằng ý thức của con thì bất kỳ nó đau cái chỗ nào đó cái lưng con, bắt đầu con ra lệnh “Cái thọ là vô thường, cái lưng đau này phải rời khỏi cái thân này đi”.
Con ra lệnh vậy bằng cái ý thức của con thôi, cái năng lực ý thức của con nó sẽ mạnh mà nó thực tế hơn. Còn cái kia tưởng thức, khi con điều khiển nó vậy bằng cách con phải giữ tâm im lặng như vậy, mà con không có cái năng lực của cái pháp truyền lệnh, do đó con không thể nào mà làm chủ được nó đâu. Bây giờ nó trị hết, mai mốt nó sanh bệnh khác nữa. Và cứ như vậy nó chỉ chẳng qua là nhân quả của thiện ác của nó giảm theo cái năng lực của tưởng thôi.
Phật tử 2: Mô Phật thưa Thầy, còn trong lúc con ngồi như vậy đó thì nó cảm thấy như là nó…
Trưởng lão: À bởi vì dù là các pháp nào nó sinh diệt, vì nó ở trên cái tâm của con mà nó khởi ra thì lúc bây giờ nó là chướng ngại pháp của con.
Phật tử 2: Chớ không phải đó là thật hả Thầy?
Trưởng lão: Bởi vì hoàn toàn cái thật là thanh thản, an lạc và vô sự ở trên bốn cái chỗ này, mà nó có một cái gì mà nó khởi lên ở trên tâm con, nó sanh diệt trên tâm con là sai hết.
Phật tử 2: …Con trình Thầy coi thử…
(10:12) Trưởng lão: Cái đó con tu theo Thân Hành Niệm.
Phật tử 2: Dạ mà có đúng không Thầy?
Trưởng lão: Cái đó là đúng theo pháp Thân Hành Niệm chứ không phải Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: Vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ Thân Hành Niệm thì cái thân của mình hành cái động nào đó, mình theo dõi nó, bây giờ nó đau nó nhức là cái hành động thôi, mình biết Thân Hành Niệm. Không phải Tứ Niệm Xứ con. Còn Tứ Niệm Xứ là hoàn toàn ngồi đây quan sát bốn chỗ để đẩy lui chướng ngại pháp thì Tứ Niệm Xứ. Còn cái đó là Thân Hành Niệm.
Bây giờ thân nó đưa lên nó biết, hạ tay xuống nó biết, bây giờ cái mình cúi xuống mình lạy nghe nó đau cái lưng, mình biết. Thì đó là cái hành động của cái thân làm cho mình cảm giác thì gọi là mình biết từng chút từng chút cái động dụng của cái thân của mình trong đó, thì cái đó gọi là Thân Hành Niệm, nó vừa là hành động nội vừa là hành động ngoại, cho nên hành động nội và hành động ngoại của nó đó là nó thuộc về Thân Hành Niệm.
Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: …
Trưởng lão: Bởi vì con không có hỏi rành, bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó thực hiện nhiều cái pháp, cũng như bây giờ con tu Tứ Chánh Cần con cũng phải thực hiện trên Tứ Niệm Xứ chứ ngoài Tứ Niệm Xứ thì con biết cái gì ngăn ác diệt ác ở đâu. Cũng phải là ngăn ác diệt ác ở tâm thân con chớ đâu, thì nó cũng là Tứ Niệm Xứ. Nhưng mà thí dụ như con tu Định Niệm Hơi Thở nó cũng là Tứ Niệm Xứ bởi vì nó là hành động nội của thân. Cho nên con tập trung ở trong hơi thở con nhiếp tâm ở trong hơi thở con cũng đều tu Tứ Niệm Xứ, gọi là tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải là tu Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: Thầy còn cái mà thầy con nói câu mà con về cái pháp tu, ở trường ta ai lại nói về hơi thở là con bát liền trong khi đó mấy trăm người có mình con lạ lùng kỳ cục hà, con mới đi tìm Thầy con hỏi coi, thầy con bểu con nếu mà trong thời gian ở nhà mà tu mà không thấy được tam tướng thì nó có đúng không, tam tướng của con đâu có làm sao mà con biết rõ được, Thầy hoan hỷ Thầy dạy giùm con cái tâm tướng cái thân con.
Trưởng lão: Cái tầm tứ phải không?
Phật tử 2: Dạ không, nói tam tướng á là: vô thường, vô…, vô ngã.
Trưởng lão: Tam ấn, tứ ấn theo con nói cái tam…
Phật tử 2: Theo thầy con gọi tam tướng: vô thường, vô…, vô ngã đó, mà thầy nói vậy thì con cũng mắc mò khổ lắm Thầy, tới mấy trăm người mà có một vị nào mà… thầy con nói ngồi đó mà quán trên thân giống như Thầy dạy vậy đó, thấy được cái khổ nó thay đổi đó Thầy, còn cái thọ đó nó đến với mình… đó rồi nó lại ra đi chớ đâu có ở hoài với mình đâu, đó cái gì nó… thôi.
(13:04) Trưởng Lão: Không phải, bây giờ Thầy nói như thế này này, Đức Phật xác định cho tam ấn và tứ ấn ở trên Tứ Niệm Xứ. Bây giờ Đức Phật nói thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã là tứ ấn, mà nói thân vô thường, khổ, vô ngã thì nó là tam ấn. Đây là xác định, gọi là “Ấn” tức là xác định chúng ta cái này là chắc chắn là hễ cái gì vô thường là cái đó khổ, mà cái đó khổ là vô ngã thôi, nó không có cái ngã. Cho nên đây là xác định thôi, vì vậy mà chúng ta nắm được xác định này chúng ta biết các pháp là vô thường, khổ, vô ngã thôi. Cho nên đó là để mà chúng ta xác định được cái pháp như vậy để mà chúng ta đừng có dính mắc.
Nhưng mà sự thật chúng ta chỉ học cho nó suông chứ nó không phải vậy. Mà cho nên con đường tu nó phải tu nó khác, nó không phải như con hiểu. Con hiểu ra như vậy nó thành ra tưởng. Cho nên phải biết cái pháp tu, thí dụ như bây giờ trong cái giai đoạn con phải tu về Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần, hoặc là Tứ Niệm Xứ và Tứ Bất Hoại Tịnh hay là Tứ Niệm Xứ mà tu Tứ Niệm Xứ. Hoặc là tu Tứ Niệm Xứ mà lại tu Tứ Thánh Định. Bởi vì trên cái thân này nó có định ở trên này thì cho nên nó cũng ở trên Tứ Niệm Xứ, cho nên vì vậy đó thì cái hiểu biết của con nó có cái hiểu biết tổng quát, mà nó kêu là nó tạp nhạp như ở trong cái bài kinh của kinh, thành ra nó lộn xộn lắm, nó không có thứ tự.
Phật tử 2: …bây giờ Thầy dạy cho con… theo sát Thầy được không? Giống như quán cái thân…
Trưởng lão: Còn bây giờ Thầy dạy cho các con, thì khi nào có điều kiện cần thiết thì hỏi thêm thì Thầy dạy cái đó để mà tu. Còn bây giờ dạy Tứ Niệm Xứ là trên thân này đẩy lui các chướng ngại pháp thôi. Cho nên vì vậy thứ nhất là thường xuyên tác ý ra, để dùng ý thức chứ không được dùng tưởng, nghĩa là đừng có dùng cái tưởng. Ví dụ bây giờ cái thở ra thở vô chỗ mũi này, mà mình thấy nó đi vô phổi của mình là mình tưởng. Thật sự ra con đường đi mình phải hít vô phổi rồi, nhưng mà đừng có tưởng theo nó. Như vậy cho nên mình biết ra biết vô ở đây thôi, một cách tự nhiên hơi thở ra biết ra hơi thở vô biết vô.
Phật tử 2: Con cũng nghe đây… thưa Thầy.
(15:13) Bởi vì Đức Phật không có dạy chúng ta dùng cái tưởng mà để đưa nó đi. Thành ra do vậy mà chúng ta theo cái lộ trình của Đạo Phật, thoát ra khỏi cái vọng tưởng, bởi vì cái tưởng nó sẽ dẫn chúng ta đi vào cái lệch. Cho nên chúng ta đừng có dùng tưởng trong cái bước đường tu. Nếu mà muốn không dùng tưởng thì luôn luôn phải tác ý, tác ý ra thì cái ý thức của chúng ta nó mới có. Chứ nếu mà không tác ý thì cái tưởng nó sẽ làm cái ý thức nó mất đi thì chúng ta tu không có đến đâu được hết đâu.
Cho nên ở đây mục đích của chúng ta là cái đường đi chúng ta thấy rất rõ, là tới cuối cùng nó phải là Định Hữu Sắc, Định của ý thức chứ không phải định của tưởng thức. Cho nên chúng ta phải thực hiện tới Tứ Thiền, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Vì vậy cái Định này nó xác định cho con đường chúng ta đi một cách cụ thể rõ ràng, mà cái Chánh Định này nó nằm ở cái nẻo thứ tám của Bát Chánh Đạo. Cho nên vì vậy nó xác định Tứ Thánh Định là con đường của Đạo Phật là cái định đó mới đúng. Cho nên vì vậy chúng ta phải xả hết tất cả những cái tưởng của chúng ta ra thì chúng ta mới đi được vào cái Định Hữu Sắc này. Nói Định Hữu Sắc tức là Định của ý thức, mà nói Định Vô Sắc là định của tưởng thức, chúng ta phải hiểu như vậy.
Chúng ta bây giờ phải hoàn toàn lìa xa cái định tưởng cái định mà Vô Sắc, không có được mà để cho một chút xíu nào mà xen ở trong đó. Bởi vì nhiều khi chúng ta ngồi đây cái tâm không vọng tưởng mà chúng ta lại Định Vô Sắc, chứ không phải định ý thức. Còn ý thức chúng ta phải ly tham sân si nó mới thuộc về định ý thức, như vậy nó là Sơ thiền mới được. Cho nên vì vậy luôn lúc nào chúng ta cũng phải tác ý. Cho nên Đức Phật nói phải tác ý mà. Thiện xảo tác ý mà, khéo léo tác ý chứ không phải là dụng nó, thì cũng không giải quyết được, nó sẽ bị tưởng xen vô.
Cho nên phải khéo léo trên bước đường tu. Bây giờ Thầy nói hiện giờ Thầy dạy, thì các con cứ theo cái chỗ nào, hiểu chỗ nào tu, đừng có, bao nhiêu cái gì mà tới giờ hiểu, xả xuống bỏ hết đi, nó trật rồi, nó trật con đường rồi, không có nên mà tu theo nó. Không phải Thầy bác các pháp của các thầy đâu, nhưng mà vì nó không đưa các vị thầy của chúng ta đến nơi cuối cùng, nơi làm chủ, cho nên bây giờ chúng ta bỏ hết, chúng ta coi như là bắt đầu đi trở lại.
(17:24) Bây giờ bắt đầu đi trở lại, thì Thầy dạy sao cứ làm vậy. Bây giờ về biết là năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành, ra lệnh từng hành động đứng lên ngồi xuống để chúng ta có cái quyền làm chủ nó. Đó là cách thức thứ nhất.
Cách thức thứ hai là hằng ngày chúng ta sống tiếp duyên với các pháp, thì chúng ta luôn luôn phải thấy bằng cái đôi mắt nhân quả, thiện với ác, không được thấy nó đúng sai. Đó là một cách thức để mà cứu chúng ta ngăn ác diệt ác, đó là cái phương pháp tu để mà sống trong các pháp gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không bị dính mắc.
Cái thứ ba là trong những đêm khuya thanh vắng thì chúng ta phải tu, ngồi quan sát trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp có chướng ngại thì đẩy lui, không có chướng ngại thì để cho nó thanh thản, an lạc, vô sự còn một niệm gì khởi ra đều hoàn toàn tưởng hết, chúng ta phá hết. Có như vậy thì chúng ta mới tu được.
Và như vậy, thì coi như Thầy đã nói như vậy thì chúng ta về cần phải thực tập, rồi thực tập rồi thì còn phải thưa hỏi. Chứ không phải nói rồi về nó làm đúng được đâu, nó còn sai. Cho nên vì vậy bây giờ về thực tập, về thực tập rồi mới thưa hỏi lại. Còn bây giờ con chuẩn bị con về, thì lúc bấy giờ đó, thì sẽ trình lại Thầy, sau đó viết thơ gởi lên Thầy. Giờ con tu đêm như vậy, con tu con thấy nó thanh thản, an lạc rõ ràng. Bởi vì Thầy đã đặt cho các con những cái từ “Thanh thản, an lạc và vô sự”. Phải không? Mà cái tâm mà nó mất cái thanh thản, an lạc, vô sự, bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp này nó không có cái thanh thản, an lạc, vô sự thì nó sai. Mà có thanh thản, an lạc, vô sự là đúng. Con nhớ chưa?
Cứ như vậy rồi sau đó viết thơ trình bày, chớ không phải nói bây giờ cái mà làm được liền đâu, mà phải tu rồi mới rút tỉa từng kinh nghiệm mới thấy được, rồi có cái gì Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì giờ còn Thầy, chớ nếu mà mất Thầy thì chắc chắn là không có ai chỉnh cho.
Phật tử 2: Con khổ, bây giờ con kiếm được Thầy con mừng rồi.
Trưởng lão: Chớ còn bây giờ mấy con hỏi lung tung đây rồi Thầy một mớ kêu là một mớ kinh sách, một mớ hiểu biết thì coi như các con rối nữa. Cho nên Thầy không muốn cho các con thêm rối. Bởi vì nó nhiều quá nó rối lắm. Tốt hơn các con cứ giữ đúng cái lời Thầy dạy, cái nào đã tập hôm nay thì phải làm cho đúng.
Phật tử 2: Dạ, con xin nhận với Thầy là con bắt đầu ngay từ đầu con không nuối tiếc cái quá khứ này nữa, không thấy cái tu sai tu đúng, mà bây giờ con quyết chí theo Thầy, bởi vì… Thầy tích cực, con muốn gì cũng được, còn cái kia là khổ quá Thầy ơi!
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con chuẩn bị về. Lo về tu, nói nhiều quá.
Phật tử 3: Thưa Thầy con muốn hỏi là Thầy giảng lại cho con cái dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu a. Nhất là cái vô minh lậu con chưa hiểu.
(19:53) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này để cho thấy cái Dục lậu. Cái Dục lậu là khởi ham muốn, thí dụ giờ mình thấy cái bánh đó mình muốn ăn thì mình biết đây là cái dục lậu, phải không?
Còn cái Hữu lậu, một cái vật mà mình có mà người ta xin mình không cho là mình bị Hữu lậu. Mình tiếc đó là Hữu lậu đó. Hiểu không? Cũng như bây giờ Thầy có đồng hồ mà con xin Thầy không cho con tức là Thầy bị Hữu lậu, còn Thầy cho con thì không Hữu lậu.
Còn bây giờ Thầy cho con biết thêm, là cái Vô minh lậu, người ta nói cái gì đó mà mình phiền não tức là mình bị vô minh, còn mình không có vô minh thì không phiền não. Rõ chưa?
Ờ rõ rồi, khi nào mà có cái gì, thấy người ta đi đó mình sinh chướng, thì tức là vô minh. Mà mình không chướng thì tức là không có vô minh. Thầy giải thích thì rõ thôi.
Phật tử 3: Trong lúc tu Tứ Niệm Xứ mà có cái sáu cái tưởng, chẳng hạn như sắc tưởng, thanh tưởng nó tới thì có pháp hành nào để đối trị không ạ?
Trưởng lão: Mình đối trị cái pháp đó bằng pháp Như lý tác ý của mình. Mình biết đây là cái sắc tưởng: “Mày hãy lui đi, ở đây hoàn toàn tao sử dụng ý thức cho nên mày không được xen vô”. Mà nếu mà nó không chịu lui nó cứ hiện cái hình ảnh đó hoài thì tức là tao đứng dậy đi, cho mày hiện. Mình đứng dậy đi thì nó xả. Tao không thèm ngồi đó nữa, thì nó sẽ xả. Còn thinh tưởng nó cũng vậy, bây giờ cứ nghe âm thanh nói hoài, nhất định là “mày thinh tưởng mày phải rời khỏi đây, tâm phải thanh tịnh không nghe tiếng bậy bạ, vậy thì thinh tưởng này phải đi”. Nếu mà không đi tao đứng dậy tao xả, mày cũng phải đi.
Phật tử 3: Bạch Thầy ví dụ trong lúc tu, chưa đến bữa ăn cơm mà nó đói muốn ăn tức là Dục lậu, thì khi đó quán thế nào ạ.
(21:33) Trưởng lão: Thì quán mình nói: “giờ ăn thì phải đúng giờ ăn thì ăn chứ không phải mày đòi”. Bây giờ đây mà đòi là tâm tham của mình rồi, dục lậu rồi. Cho nên vì vậy đó, còn lậu hoặc thì còn thấy đói, cho nên mày phải đi đi tao nhất định là tao không có theo mày. Do đó tới giờ ăn ít bữa hôm sau con cứ đúng giờ con ăn nó quen, còn con ăn bây giờ đói, bây giờ mới mười giờ chưa tới mười một giờ mà nó muốn đi ăn con đi ra bưng cơm ăn thì nó sai con rồi đó. Tức là con bị Dục lậu, phải không?
Phật tử 3: Thưa Thầy cũng có lúc sáng hai giờ dậy tu nếu mà mình hai giờ dậy tu hành thì bắt đầu nó đói, mà nếu mà mình ngủ thì nó không có đói.
Trưởng lão: Thì vậy nó là bị Dục lậu. Cho nên mình ra lệnh nó: Dục lậu, mày là dục lậu mày làm tao khổ, nên mày đói mày cho tao muốn ăn nè, nó mới khổ, nó mệt hoặc này kia. Do đó mày nhất định mày không có được đói. Tao bây giờ tao chết nhất định tao cũng giữ giới luật. Cho nên mình hét mình ra lệnh nó, mình không làm theo nó ít bữa cái nó hết trơn mà nó không có đói. Mình là anh hùng mình chiến thắng mình chiến sĩ, mình chiến thắng mình là cái chỗ này nè. Nhất định thế nào nó cũng sai mình tầm bậy rồi. Thì do cái sai tầm bây đó là cái Dục lậu rồi, cho nên mình mình quyết định là cứ mặc mày, tao biết là mày là dục lậu rồi, mày làm khổ biết bao nhiêu đời rồi. Bây giờ tao đi tu mà mày còn muốn đến mày làm khổ nữa sao được? Tao nhất định tao quyết trật mày ra. Thí dụ nó luận gì đi nữa con không làm theo nghe nó thì tức là con làm chủ đó. Hiểu không?
Cho nên vì vậy gặp Thầy mà, trời đất ơi! Thứ đó mà Thầy quét nó ra chứ. Đói chết bỏ bây giờ mày cứ nằm đó mày chết chứ tao nhất định không ăn, đúng giờ ăn. Mà như vậy mà nó quen đó mấy con, mình phải làm chủ chứ. Bây giờ lý luận gì tao cũng không nghe nữa, bây giờ chết bỏ chứ nhất định tao không nghe lời mày đâu. Tao là chủ mày mà tao đâu có để mày sai tao.
(23:14) Phật tử 3: Con bạch Thầy năm hơi thở kinh hành là mình ước lượng năm hơi thở chứ không có được đếm ạ?
Trưởng lão: Ban đầu mình đếm, sau đó nó quen rồi thì ước lượng. Nghĩa là tới cái khoảng thời gian đó buộc cái pháp hướng nó quay ra thôi. Bởi vì mình tu tập quen rồi. Còn mới đầu mình đếm một hai ba bốn năm hơi thở, nhất định là phải hướng ra. Chớ còn bây giờ mới đầu mà con ước lượng, nhiều khi nó ngồi nó im quá mà tác ý ra cái nó động thôi, cứ ngồi luôn tức là nó mất pháp hướng rồi, phải không? Cho nên bây giờ mình đếm một, hai, ba, bốn. năm, tác ý ra. Nó muốn cãi lệnh, nó tác ý ra nó hướng tâm nó nhắc, rồi mình hít thở lại một, hai, ba, bốn, năm thì đó mình tác ý mình làm chủ mình điều khiển mà. Sau khi quen rồi con không ước lượng tới đó nó cũng nhắc nữa, con cứ hít thở tự nhiên con không có đếm, tới chừng đó nó nhắc ra, tự nó nhắc ra, tới đó nó nhắc ra nó giữ cái ý tứ của nó mà. Còn chừng nào cái tâm nó không phóng dật nó quay vô được rồi thì con không có cần nhắc gì đâu nó định rồi. Tới đó tại nó định rồi nó không có nhắc nữa.
Phật tử 3: Tức là nó có người thứ ba rồi đấy?
Trưởng lão: Ừ là nó có người thứ ba rồi.
Phật tử 4: Kính bạch Thầy, cũng như ngồi tổ chức cái môi trường thân cho ấm áp cho kín đáo đừng có bị muỗi cắn hay này kia, xong rồi cái môi trường đừng có tiếng ồn mới bắt đầu ngồi. Rồi cái mới để tâm khi mà xét thấy trên thân thọ tâm pháp không có gì chướng ngại rồi bắt đầu kêu hơi thở nó… phải định vô hơi thở.
Trưởng lão: Kêu nó định trên hơi thở, rồi mình ngồi quan sát coi nó theo hơi thở ra sao.
Phật tử 4: Mô Phật! Nghe hơi thở rồi mình hướng tâm nhắc tâm lần nữa coi thân thọ tâm pháp có trục trặc không.
Trưởng lão: Nhắc, quan sát lại nữa. Đó là tu Tứ Niệm Xứ, coi xem có trục trặc không, nó không trục trặc thì nó thanh thản, biểu nó định vô hơi thở.
Phật tử 4: Thí dụ nó tê giò tê cẳng thì mình ra lệnh đúng không Thầy?
Trưởng lão: Ừ ra lệnh. Bây giờ tê giò tê cẳng phải xả đi, cái thân thọ mà tê này phải xả. Mình ngồi mà thấy nó không hết tê, tao biểu mày xả mày không nghe tao đứng dậy tao đi coi mày còn tê không. Thì nó phải xả thôi, phải không con thấy không? Thì sau đó mình ra lệnh cái nó ngán mình rồi. Cái ông này nếu mà ổng bảo đừng có tê mà vẫn tê thì coi chừng ổng đứng dậy, cho nên vì vậy nó bắt đầu hết tê, mình ngồi nó cũng không tê. Bởi vì mình tập ra lệnh, sau đó nó có đau nhức cái chỗ nào mình ra lệnh tự nó đi chứ mình khỏi cần phải xả vậy. Nhưng bây giờ nó trù trì nó không nghe nó vẫn còn tê, mình đứng dậy đi là nó hết. Con hiểu chỗ đó không? Chứ đừng có để ráng ngồi chịu tê.
(25:32) Phật tử 2: Mô Phật! bạch Thầy, Cái Tứ Niệm Xứ đó Thầy, mình ngồi rồi mình đi, rồi mình kinh hành rồi bình thường trong trên bốn oai nghi, mình đều theo dõi thân thọ tâm pháp.
Trưởng lão: Thân-Thọ-Tâm-Pháp chứ không phải tu Thân Hành Niệm hoặc là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Phật tử 2: Không đợi ngồi không hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ nó không có cần. Thầy nói bây giờ đứng dậy đi, bây giờ thí dụ như mình tu Tứ Niệm Xứ mà đứng dậy đi cũng vẫn là quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Hễ mà mình đi mà trong khi mình giữ hơi thở tâm nó quay vô, nhưng mà khi mà đi đúng cái khoảng thời gian năm hay mười hơi thở cái mình nhắc quan sát Tứ Niệm Xứ, vẫn đi mà quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Chớ đâu phải, bởi vì Tứ Niệm Xứ là đi đứng nằm ngồi đều tu hết. Mà ngồi tư thế nào cũng được chớ không phải là đợi ngồi kiết già đâu. Nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ nó không có đòi hỏi phải kiết già. Lúc nào cũng tu được hết, chỗ nào cũng tu được hết, nhưng mà phải yên tịnh, phải sống độc cư, cái điều đó là cái đặc biệt của nó, chỗ yên tịnh, không yên tịnh là không tu được.
Phật tử 2: Dạ, mô Phật bạch Thầy con xin ghi nhận.
(26:33) Phật tử 4: Kính bạch Thầy, con thì khi làm việc con buông hết việc cái con hay tập trung nghe cái hơi thở đó cũng được hả Thầy?
Trưởng lão: Cũng được. Coi như cái chỗ mà để cái tâm nó nghỉ ngơi là cái hơi thở đó, thì gọi là Định đó, là nó nghỉ đó.
Phật tử 4: Mô Phật, để ý cái hơi thở.
Phật tử 2: Mô Phật bạch Thầy, mà sao nó định hoài? Nó định nhiều lắm? Nó vô nó làm như có định đó, hễ vô ngồi nghe cảm thấy…
Trưởng lão: Nó bị bám vô hơi thở nó định đó.
Phật tử 2: Nghe hơi thở nó thoải mái hoài.
Trưởng lão: Nó thì biết rồi như vậy, nhưng mà cái định nhiều khi nó bị tưởng nữa. Con nên nhớ cái tâm mình chưa ly dục ly ác pháp, người ta còn nói mình còn tức giận thì mình biết là cái định này là định tưởng. Nó cũng bám hơi thở mà cái định tưởng là cái tâm chưa ly dục.
Phật tử 2: Có phải lúc đó là cái tâm nó khỏe nó đòi, nó tham, nó muốn mình tu, con quán hơn ít hơn cái định, có sao không Thầy?
Trưởng lão: Nó quán hơn đừng có để nó định bởi vì nó định là định tưởng. Thành ra nó cứ gây cho mình thích thú ở trong cái định, nó ham cái định thì cái đó là cái sai rồi. Ở đây nó không có ham mà nó ham ly dục ly ác pháp thôi.
Phật tử 2: Trong vòng năm hơi, mười hơi là bắt buộc nó phải quán?
Trưởng lão: Phải tác ý phải quán thôi, để cho nó giữ cái ý thức của nó chứ không khéo nó thích thú ở trong cái định. Mà cái định đó là định tưởng, Thầy nói định tưởng. Định của Phật là do ly tham sân si, cái tâm nó hết tham sân si là tự động nó quay vô thôi, chứ không phải bây giờ mình ngồi bắt đầu nó quen, bởi vì hồi nào tới giờ mình chưa có biết cách thức tu cho nên mình cứ lấy hơi thở để mình tập trung, cho nên bây giờ cái tâm mình nó quen với hơi thở, chứ sự thật ra chưa có ly dục ly ác pháp nó ức chế.
Cho nên bởi vì cái người mà hướng dẫn sai thì nó tu sai, tới giờ nó khó gỡ. Bây giờ cứ ngồi lại nó quay vô nó định mà nó định nó ức chế, nó không chịu xả. Cho nên nó tác ý ra nó cũng không có chịu nữa. Nó không chịu tác ý, nó tác ý ra bị động, cho nên nó cứ ngồi im vậy nó biết hơi thở ra vô ra vô thì nó thích, thế cho nên nó là cái bệnh, cái bệnh thiền. Mấy người tu thành cái bệnh thiền chứ không phải là thiền, không phải định.
Phật tử 2: Thầy nói con hiểu rồi, con tiếp thu được, bởi vì con… cái đó vậy đó.
(28:36) Trưởng lão: Cái bệnh thiền, cho nên nó thành bệnh nó mới thích. Còn cái này tự động nó không có thích. Cái ly dục ly ác pháp nó sanh hỷ lạc, cái hỷ lạc nó không phải cái thích của mình.
Phật tử 2: Tự nhiên nó đến với mình.
Trưởng lão: Nó đến với mình một cách tự nhiên nó do ly dục sanh hỷ lạc. Thành ra cái hỷ lạc nó nghe nó thanh thản an lạc nó không có thích. Mà tại vì cái tâm nó an lạc vậy chớ mình đâu có thích gì đâu. Nó không cái thích ở trong đó mà có thích là nó trật. Còn quý vị cứ ngồi thiền mà thích, thì tức là mấy người sanh dục.
Phật tử 2: Đúng rồi, nó tham.
Trưởng lão: Tham chứ gì. Bởi vậy Thầy nói nó sai. Mà kêu hoài Thầy bảo xả cái này đi, tu cho đúng, phải không?
Thôi bây giờ các con chuẩn bị về đi chớ, lo để tối rồi. Còn con bây giờ cần cái gì Thầy sẽ dạy cho.
Phật tử 3: Bạch Thầy con muốn hỏi cái trạng thái của ý thức hoạt động và của tưởng thức hoạt động, hai cái trạng thái nó khác nhau chỗ nào?
Trưởng lão: Khác nhau chớ con, đâu có giống nhau. Cái trạng thái của ý thức là có đối tượng trước mặt, còn cái trạng thái của tưởng thức là không có đối tượng. Con hiểu chỗ đó không? Nghĩa là không có vật trước mặt mà con lại nghĩ đến cái vật đó là tưởng nó hoạt động, còn có vật này trước mặt, con thấy cái máy này trước mặt con thấy nó rõ ràng cái máy này, cái này nó tròn, cái này nó sao là con thấy. Còn bây giờ không có mà con thấy nó tròn nó méo ở trong đó thì đó là con bị tưởng.
Phật tử 3: Bạch Thầy như Thầy nói, chẳng hạn mình đang đi kinh hành cứ mải đi rồi nó cũng rơi vào tưởng đấy là như thế nào ạ?
Trưởng lão: À nó cũng sẽ vô tưởng, bởi vì Thầy nói mình cứ có tác ý ra, cái ý thức của mình tác ý ra thì nó mới hết, còn mình cứ để mình giữ …
Phật tử 3: tức là ý thức mình tác ý ra mình phải biết môi trường đang đi chẳng hạn cái nền sân nó thế nào, sàn nhà như thế nào…
Trưởng lão: Ừ phải rồi nó là ý thức.
Phật tử 3: Thì nó là ý thức, mà mình quên đi chân mình cứ bước mình không biết được cái điều đó là tưởng thức?
Trưởng lão: Là tưởng thức. Đúng rồi.
(…)
(30:35) Đó thì Thầy nói như vậy con thấy, bởi vì cái ý thức cái tưởng thức chúng ta thấy dễ lắm. Nếu mà chúng ta ngồi mà yên lặng mà quên không tác ý là bị tưởng rồi, bị tưởng nó xen vô rồi. Cũng biết nó chớ mà tưởng mà không hay.
Phật tử 3: Tức là thân làm việc theo cái tưởng nó hoạt động, chứ còn cái ý thức không hoạt động nữa thì không có biết con kiến hay gì ở dưới chân mình nữa?
Trưởng lão: Đó, nghĩa là cái ý thức của mình, đi mà nó thấy con kiến biết liền là ý thức, mà đi mà không biết con kiến thì đó nó thành tưởng thức. Bởi vì Thầy nói ý thức là phải có vật trước mặt của mình, có đối tượng trước mặt là ý thức. Mà nó không có cái vật trước mặt của mình, thì nó không phải là ý thức. Bây giờ hơi thở mình có thấy được đâu, mình có nghe được cái hơi thở đâu, mà bây giờ mình cũng biết được cái hơi thở thì rõ ràng đó là bị tưởng. Cho nên vì vậy để mà tu hơi thở người ta phải nhắc “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nhắc là ý thức, còn cứ không nhắc là tưởng. Phải không?
Phật tử 3: Cái câu nhắc tác ý của mình đó là đối tượng của ý thức…
Trưởng lão: Đối tượng của ý thức, còn cái kia nó đâu có đối tượng được. Bởi vì cái hơi thở đâu có thấy, mà nó chỉ có cái rung động của cái thân.
Phật tử 3: vì thế Thầy nói Thầy sợ cái tĩnh lặng đó, tại vì cái tĩnh lặng thì không có đối tượng để ý thức hoạt động.
Trưởng lão: Đó. Bởi vậy cái người mà không hiểu không có kinh nghiệm tu rồi cứ dạy chúng ta tu tưởng mà không biết. Trời ơi tới chừng mà Thầy biết được Thầy nói, đúng là thiên hạ tu sai rồi, ai cũng tu sai hết không có người nào mà tu đúng hết. Mà bây giờ mình nói mình đúng người ta nói mình thằng điên , ai cũng tu vậy hết, mà có mình không giống ai hết thì người ta nói mình điên chứ sao. Cho nên nó khổ cái nỗi, vì vậy mà Thầy sửa biết là bao nhiêu năm mà Thầy ở đây Thầy sửa chúng không, họ cứ cãi Thầy, rồi họ bỏ Thầy họ đi. Bởi vì Thầy là thằng điên nói không có giống ai hết, còn họ mới giống người này giống người kia thì nó mới đúng.
Phật tử 2: …Con Thầy dễ dạy tại vì con mới. Con cũng như hồi đó giờ con không biết gì, ở miền Tây đâu có biết, giờ lên đây biết có một chút từ nãy giờ con trình với Thầy đó, bây giờ Thầy dạy con cái pháp này con thấy nó chính xác, nó thực nghiệm trong cái hoàn cảnh thân con nè nó vừa với khả năng. Đâu để ngày mai đêm nay con làm, ngày mai nữa coi sao, mai con có được gặp Thầy nữa không?
(32:47) Trưởng lão: Cứ hễ có chuyện gì trục trặc thì cứ xin cô Út thì con gặp Thầy, còn không có trục trặc thì cứ phải tập. Nó không biết cái gì thì mình phải hỏi, còn nó có những cái gì mà nó không đúng thì phải hỏi thì nó mới biết được, chứ không có gì.
Đó cho nên hôm nay Thầy nói các con mình làm sao mình phân biệt được tưởng thức và ý thức. Mà Thầy nói các con nhận xét nó dễ quá mà. Mà vốn mục đích Thầy đã phân biệt cho các con thiền định của Phật là thiền định của ý thức, chứ không phải cái thiền định của tưởng thức, các con hiểu không? Khi Đức Phật theo ngoại đạo thì tu nó nhằm trong cái thiền định của tưởng thức, cho nên nó nhập từ cái Không Vô Biên Xứ cho đến cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đó là cái thiền định của tưởng.
Cho nên Đức Phật đã bỏ cái này rồi, thế mà đi trở lại Tứ Thiền thì Đức Phật đã thực hiện Tam Minh để làm chủ rồi, mà bây giờ các tổ lại sắp cái định này vô trong này nói của Phật chứ Thầy nói trong kinh Phật bài kinh nào nó cũng có ba cái Tứ Không này hết. Thầy nói thiệt là, sao mà người ta ngu quá vậy ông Phật ổng đã quăng ra rồi bây giờ mình cũng xách vô đây mình cũng nói ông Phật nói. Bây giờ cho nên vì vậy nó rối ren, có một số tu sĩ họ rối ở chỗ cái Thiền Hữu Sắc cái Thiền Vô Sắc Này.
Con Thấy không, tức là họ rối dữ lắm chứ không phải không đâu, họ không biết tại sao kinh có bài kinh này nói Tứ Thiền thôi mà không có nói Tứ Không? Mà có những bài kinh là phải Tứ Không? Không biết sao! Mà không ngờ là các tổ đút vô hết, đưa vô hết chứ thực ra trong kinh điển của Phật hoàn toàn Phật quét ra hết, Phật không chấp nhận, cái ngoại đạo cái đó là không đúng rồi, là không giải thoát rồi. Thế mà bây giờ mình đọc những cái bài kinh trong đó Đức Phật đã xác định mình tu không có thấy nó chứng được đức Phật bỏ rồi, bây giờ lại đút vô mà may có những bài kinh mà Đức Phật bỏ ra đó bây giờ chúng ta còn chúng ta mới biết được, chứ còn nếu mà không có bài kinh đó Thầy biết nói làm sao giờ đây?!
Ông Phật ổng nói ổng chấp nhận đó ông đâu có nói bỏ cái đó đâu, mà tại sao Thầy bỏ? Còn bây giờ nó có những cái bài kinh Đức Phật bỏ, mà nói họ còn không nghe mà huống hồ là nếu mà không có những bài kinh đó thì Thầy làm sao Thầy nói. Khó cái lòng, mình thấy mình hiểu biết mà nói người ta không nghe. Nói thật sự như vậy, mình muốn dẫn họ đi đúng để cho họ giải thoát, họ không biết ơn mà họ còn trao oán cho mình.
(34:56) Phật tử 2: …Con nghĩ Thầy dạy cho con kỹ về cái chữ Chánh Niệm đó.
Trưởng lão: À Chánh Niệm, thì con thấy là cái Chánh Niệm thì là cái niệm thiện chứ không phải niệm ác, phải không? Bởi vì cái Chánh niệm là niệm thiện vì vậy mà luôn mình ở trong cái Chánh Niệm bởi vì nó Tình Giác Chánh Niệm, phải không? Thì luôn luôn cái chữ này, người Tàu họ phải lật ngược cái câu này họ nó Chánh Niệm Tỉnh Giác, thay vì Chánh Niệm nó mới Tỉnh Giác chứ gì không phải, tại vì người Tàu, thực sự thì người Việt của mình thì Tỉnh Giác rồi mới Chánh Niệm, mình có tỉnh mình mới được ở trong Chánh Niệm chứ mình mê thì mình làm sao mình ở trong Chánh Niệm được?!
Mà cái Chánh Niệm thì tức là niệm thiện chứ không thể niệm tà được. Bởi vì Tà niệm rồi Chánh Niệm phải không? Nếu mình ở trong tà niệm thì niệm ác nó có khổ mình khổ người. Xác định được cái niệm mà làm khổ mình khổ người nó là tà niệm, mà cái niệm mà không làm khổ mình khổ người nó là Chánh Niệm.
Cũng như bây giờ thí dụ như Thầy nói một cái điều mà người ta vui, người ta không có khổ thì đó là Chánh Niệm, mà Thầy nói một cái điều mà người ta buồn, thì cái này là Tà niệm. Cho nên Thầy viết sách Thầy nói cái đúng nhưng mà Thầy không cho người ta phổ biến ra là tại vì, phổ biến ra người ta đang ở trong cái sai người ta đau khổ người ta, người ta đang ở trong cái chùa đẹp người ta đau khổ không có ở được trong cái chùa đẹp, người ta ăn ngày ba bữa bây giờ nói ra người ta ăn một bữa người ta thấy khổ quá, cho nên Thầy không muốn làm khổ ai hết.
(36:20) Cho nên vì vậy mặc dù Chánh Pháp còn không muốn làm khổ người ta, huống hồ là tà pháp. Cho nên cái nói của Thầy, Thầy biết lúc nào phải nói và lúc nào không nói. Đó là cái Chánh Niệm. Còn nếu tà niệm mình được mình nói giải bừa ra cho người ta khổ mặc người ta, thì cái điều đó không có được.
Cho nên bây giờ thí dụ như Minh Điền con xin Thầy để đưa những cái bài kinh này lên đài truyền hình đài phát thanh phải không? Nhưng mà Thầy thấy giai đoạn này không được làm khổ thiên hạ. Đã là Chánh Pháp mà còn làm khổ thiên hạ thì nhất định là chưa được lúc. Bởi vì cái thời điểm nó chưa được, người ta còn đắm chìm ở trên đó rồi, thì từ từ mình sẽ đưa một cái nền đạo đức, từ cái nền đạo đức nó khẽ đi người ta bớt đi. Bây giờ người ta bớt khổ nhiều nhờ cái đạo đức rồi, bắt đầu mình đưa cái này ra người ta bừng sáng người ta xả bỏ người ta không có khổ. Chớ không người ta khổ người ta gây ác nữa. Người ta khổ người ta nghe những cái lời mà Thầy nói rồi, bắt đầu bây giờ ăn cũng không dám ăn nè, bởi vì mình ăn phi thời là Phật tử thấy không cúng dường, phải không? Mình ở chùa tốt thì cũng bị rồi thì do đó giờ không lẽ đập phá mấy cái chùa tốt này được sao?!
Cho nên vì vậy bây giờ mình phải xúm nhau lại mình phải diệt cái ông đó để cho ổng đừng có nói nữa. Thì tức là bắt buộc họ phải nghĩ ra cái điều ác, làm cho họ rơi vào cái ác pháp. Thì nếu mà mình không nói ra họ đâu có nghĩ giết người, mà tại vì mình nói ra người ta mới nghĩ giết người đó để người ta yên ổn người ta sống, thì do đó tạo cho người ta cái hành ác. Còn bây giờ đưa sách đạo đức ra lần lượt người ta thấm nhuần được cái đạo đức rồi, thì khi mà sách này đưa ra người ta thấy phải người ta không có khởi cái niệm ác nữa người ta xả.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Thì cái đó là cái chuyện một cái người như Thầy là Thầy tu thì mình phải làm cái điều lợi ích cho xã hội chứ, Thầy đâu có ghét mấy ông Thầy Đại Thừa. Nếu mà Thầy ghét Thầy bung ra nói tùm lum để cho mấy ông khổ chơi, còn cái này Thầy đâu có ghét. Cho nên Thầy phải làm sao cho có lợi ích cho mấy ông. Các con hiểu chưa? Cái lòng thương Thầy đối với cái người nào bây giờ họ nói Thầy gì Thầy vẫn thương họ. Bởi vì đối với Thầy nó là thiện pháp rồi. Cho nên luôn luôn lúc nào lòng từ cũng phải thương họ, giúp cho họ thoát khỏi cái nỗi khổ của họ. Mặc dù Thầy nói rát cả cổ nhưng mà Thầy vẫn nói.
Phật tử 2 : Mô Phật! Bạch Thầy, còn về cách thức ăn đó Thầy, ở bên Nam Tông người ta ăn một ngày chỉ một bữa, sáng chiều có khi ăn có khi không, còn ăn thì ai cho gì ăn nấy, người ta nói là không sát sanh hại vật, không nghe thấy tiếng kêu la nên có thể, như vậy là người ta vẫn ăn thịt ăn cá đủ thứ vậy rồi có phạm giới không?
(38:43) Trưởng lão: Phạm chớ, phạm tội đó. Bởi vì Đức Phật cấm cư sĩ mà, cấm cư sĩ không được cúng dường thực phẩm động vật cho Chư Tăng và Phật, nếu người nào cúng dường những điều này là có năm điều phi công đức mà. Cái bài kinh Jivaka đã dạy rõ ràng mà. Bây giờ Phật tử không làm thịt không làm cá cúng dường thì mấy ông này làm sao có ăn. Tại mấy ổng xui khiến người ta làm sao mà người ta mới làm cá thịt cúng dường mấy ổng nè.
Rồi bây giờ Đức Phật đã cấm cư sĩ như thế rồi thì coi như cái mầm mà cúng dường bố thí cho mấy ông đó, mà cư sĩ không dám cúng thì phải cúng rau cải cho mấy ông chứ làm sao dám cúng thịt cá được. Đức Phật đã dạy rồi mà.
Phải không, bây giờ mấy ổng nói ăn không thấy, không nghe, không nghi phải không? Thì rõ ràng là Phật tử làm chứ mấy ông đâu có làm, mấy ổng có bắt con vật đâu mà làm, nhưng mà ổng Phật ổng cấm Phật tử, cấm mấy người cư sĩ. Mấy ông cư sĩ mà làm thịt động vật mà thực phẩm cho chư tăng và Phật ăn, thì mấy người đó bị năm điều phi công đức. Đã không được công đức mà còn lại tội lỗi đó.
Phật tử 2: Cái bài kinh nó ở trong …
Trưởng lão: Trung Bộ, Kinh Trung Bộ, cái bài kinh Jivaka tức là thừa tướng Jivaka hỏi.
Phật tử 2: Quyển thứ mấy ạ?
Trưởng lão: Hình như là quyển một, nó có ba tập Trung Bộ hình như là nằm trong cái quyển một. Nó quá rõ ràng rồi, kinh Nguyên Thủy đó, mà các nhà sư Nguyên Thủy lại ăn thịt chúng sanh, thì đủ biết là họ đã bị lừa như thế nào mà họ ăn được đó Thầy nói.
Phật tử 2: Bởi vậy thưa Thầy, con có những cái đau khổ mà con buồn lắm, tại vì con không biết tu là gì. Con… tử một đưa con nít, con theo mẹ con ăn chay từ nhỏ tới giờ, coi như một giai đoạn đi học đó tới năm 68 tới giờ là con ăn chay, tới giờ con cũng giữ người ta cho con ăn chay, vô đó quy y ăn chay vậy đó, họ cho ăn chay con mừng quá con vô đó quy y xuất gia. Xong rồi cái thì con đi tới đâu con cũng mang đồ của con con ăn, cái người ta nói: “Cô tu giỏi quá ha, tu giỏi hơn Thầy hơn tổ”, làm khổ con quá hà.
Trưởng lão: Đó họ châm biếm con.
Phật tử 2: Dạ giờ con cảm thấy, tu bây giờ người ta cấm đoán đủ điều, thôi con suy nghĩ con nói, thôi vậy bây giờ họ cho gì ăn nấy đặng mình sống mình tu, lúc đó con chưa gặp Thầy con tu trật, từ lúc con gặp Phước Nhẫn tới giờ con nghe như Thầy là vị cứu tinh cuộc đời con, tại vì phù hợp từ thức ăn, phù hợp từ cái độc cư nè, Thầy dạy những cái con thấy thích hợp. Vậy từ nay về sau, Thầy cố gắng cứu con trong suốt cuộc đời còn lại của con.
(41:20) Trưởng lão: Cái cứu con thì con phải tự thắp đuốc, Thầy chỉ là người chỉ đường.
Phật tử 2: Dạ Thầy chỉ đường giùm con, con cố gắng đi.
Trưởng lão: Chứ Thầy không có nắm tay kéo con được. Ráng cố gắng!
Thì bây giờ Thầy nói, thật sự ra khi người ta làm cái điều gì đó thì người ta khéo lý luận, để rồi cái người mà không hiểu biết người ta chấp nhận cái lý luận đó thôi. Chứ còn cái người hiểu biết người ta thấy rõ ông Phật nói chung là ông đã dạy đủ cho chúng ta coi như là trang bị cho chúng ta một cái hành trang để đi trên con đường giải thoát, kinh điển của đức Phật là trong bốn bộ kinh từ Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng đó. Bốn bộ kinh này Đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái hành trang để đủ đi trên con đường, không còn ai lừa đảo chúng ta được hết.
Những cái bài kinh của Đức Phật trong bộ kinh nguyên thủy, khi chúng ta thâm nhiễm những cái bộ kinh này là không có cái giáo pháp ngoại đạo nào mà có thể lừa đảo chúng ta được. Tại vì chúng ta không có chịu đọc những cái bộ kinh này. Cho nên chúng ta bị lừa đảo. Thậm chí các sư Nguyên Thủy cũng vẫn bị lừa đảo đó, bị Thầy tổ lừa đảo rồi các sư cũng theo đó mà sống, rồi sống trong dục lạc rồi cứ thích thôi. Ăn thịt ăn cá là phải ngon phải thích thôi, bây giờ ăn chay nó chay quá…
Phật tử 2: Mà con ăn không được. Con ăn con ớn lắm.
Trưởng lão: Tại vì con có cái duyên. Duyên đó là duyên Đại Thừa đó, con ăn như con bò ăn cỏ cho nên con ăn thịt không được.
Phật tử 2: Con ăn rồi cái con mới tìm cách ăn nhiều lúc nó…
Trưởng lão: Thì đó là tránh. Chứ không khéo con ở đó mà con không ăn thì con cũng không yên.
Phật tử 2: Con độc cư thì cũng khổ lắm, người ta đâu có chịu, cứ lôi ra. Tôi thấy đi mấy nầy hết trơn rồi còn ít người quá cứ lôi đầu con ra, du Tăng du hành mà con sợ quá, con mới quyết định không đi con ở, con còn tu, có cho thì con ở. Vậy giờ Thầy cũng hoan hỷ, con nghe lời Thầy lắm, Thầy dạy con nó ngắn gọn. Thầy rút kinh nghiệm trong suốt cuộc đời Thầy đọc kinh mà giờ Thầy đem dạy con thì còn gì nghi ngờ nữa mà không theo, con khỏi đọc nữa, con hành thôi.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên Thầy bảo làm sao thì làm vậy thôi, đừng có đọc làm cái gì, đọc nó càng rối nữa. Cái trí tuệ của các con không thể nào hiểu được lời của Đức Phật đâu,
Phật tử 2: Dạ con thấy đọc nó đúng.
Trưởng lão: Các nhà học giả người ta có Tiến sĩ Phật học, người ta đọc mà người ta còn không hiểu nổi ông Phật nói, chỉ có người tu người ta thực hiện được, người ta mới thấy được những lời Đức Phật nói.
Chứ còn nếu mà cái người không có tu hành thì kể chỉ là tưởng giải ra cho nó lý luận nghe cho vui tai chơi để cho người ta thấy ông đó đúng vậy chứ còn không có đúng. Nếu mà đúng thì hầu hết người ta đã thành Phật hết rồi. Còn bây giờ tại vì Thầy nói nó không có trúng ai cho nên vì vậy mà người ta chống Thầy thôi chứ còn cỡ mà Thầy hùa theo cái số người cứ giảng theo kiểu của họ thì chắc chắn là họ cũng nói Thầy nói đúng.
Còn tại vì Thầy nói theo cái kiểu tu của Thầy, kiểu mà Thầy đã giải thoát được mình, kiểu mà Thầy sống ly dục ly ác pháp được, cho nên vì vậy mà họ thấy Thầy không có giống họ, cho nên thường thường họ không ưa Thầy chút nào hết. Họ sợ Thầy khi mà Thầy đến Thầy nói họ khép cái mỏ họ lại họ không có luận được cái gì hết.
(44:26) Phật tử: Bị lời thật mất lòng đó Thầy.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên cái điều đó. Cho nên thôi bây giờ các con cố gắng các con tu cho được giải thoát thôi. Cái gì thì hỏi ngay trên những cái pháp hành của mình liền Thầy dạy, nó không có mất thì giờ của mấy con nhiều, mà nó cứ hành để cho nó đi tới thôi, cái đó là cái quan trọng nhất. Cho nên cố gắng mà hành thôi. Trên cái hành đó thì nhờ Thầy uốn nắn cho nó đi ngay thôi, chứ không nó lệch. Bởi vì con đường thiền tưởng luôn luôn nó kề bên, trật thì nó nhào vô trong thiền tưởng liền hà.
Phật tử 2: bạch Thầy bữa nay bắt đầu con Tứ Niệm Xứ Thầy dạy …?
Trưởng lão: Thử coi, thứ chứ giai đoạn của con chưa phải tu Tứ Niệm Xứ được, nó chưa được. Cho nên vì vậy khi nào Thầy xác định rằng Tứ Niệm Xứ được thì mới tu. Còn hôm nay Thầy dạy là tại vì Minh Điền nó sẽ về dưới, và trong những buổi khuya thanh vắng, trong những buổi đó thay vì tu Định Niệm Hơi Thở thì nghe nó uổng cái thời gian, bởi vì Định Niệm Hơi Thở nó chỉ nhằm để mà ngăn ác diệt ác mà thôi, còn bây giờ nó chuẩn bị trong những buổi khuya thanh vắng để mà nó thực hiện Tứ Niệm Xứ để nó ngồi đó mà quan sát thân tâm của nó, để coi như nó có một người một con người của nó đứng mà nhìn lại coi cái thân tâm của nó đang làm việc ở trên đó. Đó là cách thức dạy Tứ Niệm Xứ để mà quét sạch những cái tàn tích, những cái ô nhiễm ở trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của nó.
Phật tử 2: Con gần Thầy thấy… con cũng thực hành… có gì Thầy dạy.
Trưởng lão: Thì ở đây thì con thực hành được, nhưng mà thực hành rồi sau khi về rồi cũng những buổi khuya tối, chớ con ở chỗ người ta mà con sống độc cư không …
(46:04) Phật tử 2: Không có Thầy, con có một cái thất riêng độc cư,… nhưng mà tại người ta lôi con ra uổng lắm con tiếc, bây giờ con lì…
Trưởng lão: À thì như vậy ở trong thất của mình mình tự do mình tu thì mình tu Tứ Niệm Xứ được, chứ tiếp duyên ra ngoài là tu Tứ Chánh Cần chứ Tứ Niệm Xứ không được. Phải sống độc cư nè, cho nên phải nghe Thầy nè, nếu muốn tu Tứ Niệm Xứ thì phải độc cư, độc bộ, độc hành.
Phật tử 2: Dạ, con ở bển con tịnh khẩu hễ ai hỏi gì thì con im lặng, bởi từ chỗ đó con hơi chướng người ta.
Trưởng lão: Bây giờ Thầy giải thích về chữ độc bộ. Chữ bộ có nghĩa là đường đi, nghĩa là mình đi có một đường của mình chứ không có đi chung với đường ai, gọi là độc bộ.
Độc hành là không có đi hai người trên cái đường đó được, con hiểu không?
Độc cư là sống có một mình chứ không có sống chung với ai.
(46:55) Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Cái đó là cũng là một cái, bởi vì trên mình có cái nghiệp mình phải vui vẻ mình trả nghiệp. Còn bây giờ nó bỏ ăn nó không ăn nữa thì nó chết.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Cái đó cũng là một cái điều kiện không tốt đâu theo Đạo Phật tu của chúng ta, coi như là mình cái phần nào mình, coi như mình uống thuốc thử coi …
Phật tử 2: Uống hết cũng không được nữa, cái đó là ung thư gan, uống thuốc không hết.
Trưởng lão: Trong khi đó theo Thầy thiết nghĩ cái bệnh ung thư thì thế nào cũng chết thôi, còn có cái khổ hạnh hơn nữa, cứ sống bình thường vui vẻ. Bây giờ mình phải lấy cái tâm của mình để đối trị cái bệnh của mình, cái thọ là vô thường, cho nên khi mà Đức Phật các vị Tỳ Kheo mà bệnh đau thì Đức Phật hỏi ông có thấy cái thân này là vô thường không, cảm thọ là vô thường, phải không? Cái vị tỳ kheo nói: vô thường… Như vậy thì ông chết sống ông còn có ngại gì nữa? Có đau bệnh thì cũng không có ngại gì nữa, tức là ta chấp nhận cái điều đó.
Cho nên vì vậy trong cái vấn đề tu tập theo Đạo Phật khi có cái thọ mà biết cái bệnh của mình sẽ không có sống được nữa, vui vẻ chấp nhận hoàn toàn, thì cái bệnh của chúng ta, Đức Phật có nói mà, khi mà cái thọ nó đến tận cùng cái sức chịu đựng của thân chúng ta, thì cái thọ sẽ hoàn toàn không làm gì được, chúng ta đừng sợ. Tâm dao động thì bệnh nó tăng mà tâm không dao động thì bệnh sẽ giảm, dù là bệnh ung thư. Thầy nghĩ rằng khi một cái cơn đau mà nó đến, người ung thư khi mà họ đau, đau dữ lắm. Cho nên khi mà đến thì nhất định có những cái pháp hướng: “Thọ là vô thường, tâm không hề sợ” thì khi mà nhắc được cái tâm thì nó vững vàng nó không sợ.
Sống chết là cái sự vô thường không phải là, cái con người ai cũng có sống chết cả không có làm sao cản được sống chết. Cứ hướng tâm làm sao cho cái tâm nó bất động nó đừng có sợ, nó đừng có lo, đừng nghĩ là phải uống thuốc này phải ăn cái kia, bây giờ thấy nó không cần phải uống thuốc, thì cái tâm giữa chừng vẫn giữ cái tâm nó bình thường, và pháp hướng “Thọ phải đi”, cứ nhắc nó đi thôi. Nếu mà cái nhân quả của chúng ta nó còn, tất cả cái bệnh này đi, ung thư cũng đi. Thầy nói cứ về đây Thầy dạy mà nghe lời Thầy ấy, bây giờ bệnh ung thư nè cũng đi nữa, cũng hết nữa chứ không phải.
Bởi vì cái tâm lực của chúng ta, mà cái tâm không sợ hãi thì nó hết. Mà bây giờ chúng ta vừa sợ hãi vừa dùng tâm lực thì không hiệu quả, tại sao? Tại vì vừa uống thuốc để cho nó hết bệnh tức là sợ rồi, mà vừa dùng tâm lực thì tức là chúng ta kết hợp hai ba cái cùng nhau, nó không có hiệu quả. Nhất định là bây giờ sống chết nhất định là lấy tâm mình trị bệnh chứ không lấy thuốc nữa, bởi vì thuốc không thể trị nữa được, cho nên đừng có uống thuốc nữa, mà chỉ lấy tâm trị. Biết cái bệnh ung thư thì không thể trị hết, nhưng mà uống nó làm giảm đau hoặc là đỡ vậy thôi chứ thật sự vẫn chết thôi.
Cho nên vì vậy mà cứ dùng pháp hướng đi. “Thọ là vô thường, ta không sợ hãi nó”. Bởi vì nhắc như vậy để cái tâm mình nó vững vàng nó không lay động trước, và đồng thời “Thọ là phải đi khỏi cái thân này đi, ta sẽ chuyển hóa tất cả những cái nghiệp khổ này” nhất định là phải giữ giới luật, khi mà đau vậy bị bắt ăn nhiều bữa nhất định là không ăn. Ăn chỉ một bữa, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không nghe nghe ca hát không giải trí để cho nó quên cái đau đi, không nói chuyện với ai hết sống một mình, hoàn toàn im lặng độc cư thì bệnh nó hết. Thầy nói, nghe tin Thầy đi, bởi vì Thầy đã có những cái trường hợp mà Thầy trị thân của Thầy, Thầy biết.
(50:38) Phật tử 2: Dạ thưa Thầy, rồi cái khi đó nếu mà cái phút cuối cùng mà không có hết bệnh tật mà nó đi thì cái tâm của mình (…)
Trưởng lão: Tâm lúc nào cũng thanh thản thì tốt nhất.
Phật tử 2: Lở nó đau nhức quá thì nó làm sao mà thanh thản được Thầy?
Trưởng lão: Thì nó đau nhức mình có pháp hướng mà: “Thọ là vô thường, không có sợ hãi, tâm phải thanh thản an lạc”, cứ nhắc, cứ nhắc vậy.
Phật tử 2: Nhắc thầm hay nhắc lớn tiếng hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ mình nhắc thầm, chứ không cần nhắc lớn tiếng.
Phật tử 2: Cứ dụng công coi như… làm theo cách đó thì đâu còn ngồi được nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Lúc bấy giờ đó mình đâu có ngồi, mình bệnh. Đây nè các con xem mình đọc cái cuốn bốn, cuốn ba của Giáo án tu tập cho người cư sĩ thì có cô Liễu Kim ở ngoài Hà Nội, cô bị ung thư, mà bảy lần mổ đó. Mà mỗi lần mổ tâm cô rất bình tĩnh cô dùng pháp hướng của Thầy tâm không hề sợ hãi, con không hề sợ hãi, mà con cũng vẫn sống, vẫn tiếp xúc bình thường, chồng con nó thấy con sao mà gan dạ bình tĩnh.
Con nói thật sự ra nhờ pháp hướng của Thầy, mà con bình tĩnh trước mọi đau khổ sự sống chết của con như là sợi chỉ mành treo chuông. Bây giờ cô viết cái bài này ra cô gửi, bây giờ cô sẽ còn đi mổ một lần nữa, nếu nó hết là nó hết mà nếu không hết là cô vui vẻ mà cô sẽ bỏ thân cô đi. Cô nhắc lại cái quá trình mà cổ dùng cái pháp như lý tác ý đó, tâm cũng bình tĩnh, trước khi mà lên ca mổ thì ai cũng sợ, cô không sợ. Cô coi thường tất cả nguy hiểm.
Phật tử 2: Lên ca mổ nó còn đỡ hơn cái lúc mà sắp sửa ra đi cũng dùng pháp hướng ạ?
Trưởng lão: Thì cũng dùng pháp hướng, nó bình tĩnh. Cô nói coi như cổ chết mấy lần chớ không phải một lần.
Phật tử 2: Còn một cái giây phút mà tỉnh táo là cứ dùng pháp hướng hả Thầy?
Trưởng lão: Cứ dùng pháp hướng.
Phật tử 2: Đến khi nào hết biết thì thôi.
Trưởng lão: Hết biết thì thôi.
Cho nên thí dụ như cổ thiếp chết mất đi, thì trong khi cổ chết nhưng mà cổ vẫn ở trong cái tâm thanh thản. Cho nên mọi người trong nhà mới chở cô đi vào bệnh viện để mà người ta hô hấp người ta cứu cô sống lại, rồi cô sống lại, hỏi cô lúc bấy giờ tới cái giờ phút mà nó đau đến mức độ như vậy, thì cô vẫn giữ cái tâm thanh thản không hề dao động trước cái sự đau khổ đó, cô nhắc lại mà. Do đó đến bệnh viện mà cứu thì cô cũng thấy khi mà cô tỉnh lại cô cũng thấy thanh thản an lạc. Cô không có sợ mà thấy là mừng hay hoặc là cái gì.
(52:51) Phật tử 2: Là tự lực chứ không có còn tha lực nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Không có còn tha lực. Nghĩa là bây giờ coi như là không có kêu vào ai cứu khổ nữa. Thì con sẽ thấy được cô Liễu Kim Thầy nói thật, đúng là Thầy bảo khi mà Thầy viết bức thơ ra Thầy khuyên, cô hãy sử dụng cái thanh thư hùng kiếm mà cô sẽ thoát sạch tất cả những cái thọ mà cô đang gánh chịu, cái nhân quả của cô. Bởi vì đây là nhân quả của cô rồi, không phải người nào gánh đâu, chính cô phải gánh. Mà chỉ cái thư hùng kiếm là cái pháp hướng tâm nó sẽ giúp cô an ổn đi trong cái sống chết của cô. Nếu cô sống thì cô cũng vẫn an mà cô chết cũng an và khi đó cô sẽ gặp Thầy. Nghĩa là lúc nào mà tâm thanh thản an lạc là lúc bấy giờ con sẽ gặp Thầy ở đó.
Cho nên vì vậy mà cô Liễu Kim này cổ rất vững tâm là cô cái giờ phút cuối cùng mà sắp sửa mà cô chết thì cô nói như thế này. “Cô kêu Thầy, con sẽ sống mãi bên Thầy, nghĩa là tâm con đang thanh thản an lạc trước cái thọ khổ nhất đời con mà con vẫn thấy an lạc là con sẽ sống bên Thầy”. Đó thì cô nói vậy cái cô thiếp mất, nghĩ là cô mất. Rồi là người ta đem cứu cô sống lại, cô bây giờ cô viết lại cô mới thuật, cô đang sống ở trong lòng chư Phật chứ không phải là riêng Thầy đâu. Thầy đã viết bức thư ra Thầy dặn cô mà. Từ cái giờ phút nào, chú không cần ai mà hộ niệm cho mình, tự cứu mình.
Phật tử 3: Thưa Thầy cái đó cũng là một phương pháp chuyển đổi nhân quả luôn.
Trưởng lão: Một phương pháp, và cái bài này của cô để giúp cho các con cách thức mà sống được trong cái lúc quá khổ đau, thì con biết cái bệnh ung thư mà. Mà cô bệnh ung thư ở tử cung, ở buồng trứng đó.
Phật tử 2: Mô Phật thưa Thầy, … con mổ hết, coi như là ung thư tử cung cắt bỏ hết… rồi con về… con ăn chay…đó Thầy, sao giờ con sống được tới mười sáu năm đó, bởi vậy giờ con gặp Thầy cái con quá vui mừng, để Thầy hướng dẫn cho con suốt cuộc đời còn lại của con.
Trưởng lão: Thầy nói bây giờ mấy con đừng có nghĩ gì hết mà cứ những cái từ cuộc sống các con giữ được tâm thanh thản, ly dục ly ác pháp không ai làm động được tâm con hết, không dễ giận hờn, mỗi mỗi dẫn dắt nó không gợi cho con ham muốn gì, con giữ được cái tâm đó, cho đến khi cái giờ phút chết con vẫn giữ được cái tâm thanh thản an lạc không hề sợ hãi trong tâm, thì lúc bấy giờ các con bỏ thân này các con cũng sẽ gặp chư Phật, sẽ ở nơi chư Phật đang ở.
(55:30) Phật tử 2: Ở mãi bên Thầy ?
Trưởng lão: Ở mãi mãi không còn tái sanh nữa bởi vì cái tâm đó là cái tâm không còn cái nhân mà đi tái sanh. Cho nên các con đừng có nghĩ rằng phải tu tới Tứ Thiền làm chủ được. Đúng là để chứng minh cho chúng ta biết là cái năng lực của Tam Minh chúng ta có sự mầu nhiệm làm chủ được sống chết như vậy, biết được Tam Minh như vậy, nhưng mà sự thật nó không có ích lợi thật. Mà chính ở cái Sơ Thiền là đủ ích lợi đó là tâm bất động.
Cho nên chúng ta chỉ cần giữ cái được tâm bất động, mà cái pháp hướng, cái pháp Như Lý, thì nó giúp cái tâm chúng ta bất động mà. Nó có cái gì đau khổ là chúng ta cứ nhắc nó thôi, khi nó nó giận dữ lệnh rất bình thường, nó không hề sợ hãi đâu. Mà nó không sợ hãi thì nó bất động. Nó bất động thì lúc bấy giờ chúng ta có chết đi chúng ta ở chỗ bất động đó. Tức là chết bất tử đó. Đức Phật gọi trong kinh đó là giới bất tử, cái chỗ giới đó mà mình giữ được nó là không có sống chết nữa rồi, gọi là giới bất tử. Các con nghe cái giới bất tử, thiên hạ hỏi Thầy “Giới bất tử là gì?”, Thầy nói “Tâm bất động”, có vậy thôi.
Giới mà, đã giới thì phải giữ, giữ được cái tâm vô đó thì nó bất động rồi, cho nên nó là bất động tâm định đó.
Phật tử 2: Dạ thưa Thầy rồi khi cái lúc cuối cùng mà nó đuối quá nó không còn dùng pháp hướng được nữa thì theo như Thầy… theo hơi thở con vô biết ra biết để mà ra đi, vậy có được không?
Trưởng lão: À nó sẽ lạc vào, coi như là đuối quá nó lạc. Tình thức mình phải tập tỉnh thức đến cái giờ phút mà khi mà hơi thở dừng.
Phật tử 2: Nghe hơi thở ra vô lại được không thưa Thầy?
Trưởng lão: Được nhưng mà điều kiện là luôn luôn phải có cái pháp hướng tâm.
Phật tử 2: Chứ nếu mà cái lúc mà hết hướng nỗi rồi còn nghe được hơi thở là…
(57:06) Trưởng lão: Thật sự ra thì theo đúng là cái phương pháp mà cái tâm bất động, thì đến khi mà hơi thở dừng, thì cái tâm thanh thản của nó vẫn biết, cái tâm bất động vẫn biết. Còn mình chỉ còn tập trung ở trong hơi thở thì nó là cái biết của hơi thở, mà biết duy nhất của hơi thở thì nó cũng tốt đó, nhưng mà nó không tốt bằng cái chỗ giữ tâm thức tỉnh. Nghĩa là mọi người xung quanh và đồng thời cái pháp hướng còn giữ được cái tâm của mình bởi vì đó là cái pháp giữ tâm của mình bất động. Mà mình lìa cái pháp đó, thì mình nương vào chỗ nào thì mình bám trụ vào chỗ đó, định cái chỗ hơi thở tức là định vào cái thân của mình chứ gì, cái tâm của mình nó nương vào cái thân của mình nó định trên hơi thở. Khi mà hơi thở mất thì nó mất định rồi, nó tan hoại.
Cái đó cũng tốt nhưng mà khi đó chúng ta thì còn cái giờ phút thí dụ như bây giờ chúng ta vừa hướng cái câu: “Tâm biết hơi thở” nhắc nó thêm vậy để cho nó không bấn loạn đó, hoặc là câu “Tâm bất động, không có dao động trước cái thọ” mình còn biết nhắc nó. Vừa nhắc rồi mình biết hơi thở ra vô chừng ba, hai hơi thở thì nó tắt thở. Thì đó là cái pháp hướng nó vẫn kèm theo với cái tâm đó thì nó hay nhất. Còn bây giờ mình kéo dài mình nằm một ngày hai ngày mình cứ biết hơi thở ra vô thì coi như là định tỉnh của mình nó còn trong hơi thở nhưng mà mình mê, mê là nó loạn vào trong định tưởng. Nó mê nó không còn nhớ tác ý ra nữa.
Phật tử 2: (…)
(58:52) Trưởng lão: Bởi vì Thầy căn dặn mấy con là cái chỗ để cho mấy con nhiếp được mấy con bám chặt đừng để cái tâm dao động. Sớm muộn rồi mình cũng chết. Cái đau nhức thì ai cũng đau nhức, mà vì cái nghiệp của mình, nó thọ cái đau nó quá tận cùng, còn cái nghiệp của người ta nó ít hơn, cũng như người ta bị cảm rồi cái người ta chết. Còn mình bị ung thư nó đau quá sức, nhưng mà đau tối đa cách nào nó cũng là thọ. Mà nó đau sơ nó cũng là thọ, cái đó là cái thọ thôi. Cho nên đau ít cũng thọ mà đau nhiều cũng thọ, nhất định là tâm bất động, coi như mình không có sợ hãi nó.
Thì như vậy Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết thọ là vô thường mà. Mà vô thường là khổ, cho nên vì vậy chúng ta không có ngại không có sợ thọ. Do đó chúng ta lấy cái tiêu chuẩn đó để chúng ta biết cuộc đời của chúng ta đối với thọ chúng ta coi nó vô thường.
Thành ra thì bây giờ chúng ta yên tâm chúng ta ra đi với cái trạng thái tâm nó không còn tái sanh luân hồi, chấm dứt đi để nó khổ lắm. Nó còn tái sanh là còn khổ đó. Mà nó còn cái nghiệp thiện nghiệp ác của nó nó còn cái nghiệp mà ham muốn của nó thì tức là nó phải tái sanh. Còn mình bất động trước các cái ham muốn các cái đau khổ này thì nó không tái sanh. Bởi nghiệp tái sanh chứ đâu phải mình đi tái sanh. Mà cái nghiệp nó còn thì nó phải tái sanh sao. Mà bây giờ cái nghiệp đó nó hết thì nó làm sao tái sanh, mà bây giờ cái nghiệp đó nó hết thì nó còn cái nghiệp, nó tạo ra thành cái nghiệp không tái sanh là cái nghiệp không tham sân si, cái nghiệp tâm thanh thản, thì cái này nó vẫn còn cho mình chứ đâu phải cái thân hay là linh hồn của mình còn đâu.
Hai cái này, một cái nghiệp tham sân si thì nó luôn luôn nó mãi đi tái sanh luân hồi. Một cái nghiệp không tham sân si thì cái này nó chấm dứt tái sanh luân hồi thì cái này nó phải còn chứ. Cho nên Thầy tu mà Thầy cũng phải có chứ không lẻ Thầy tu rồi Thầy cứ ngơ ra. Mà có là có cái gì đây? Không lẽ giờ có Phật tánh được ở trong này sao? hay hoặc có cái kia?
Nhờ cái pháp hướng này mà Thầy huân thành cái nghiệp không tham sân si, phải không? Cho nên cái này nó còn.
Cho nên Đức Phật nói một cái cây mà chúng ta dạt vỏ, bỏ cái rác thì nó còn cái lõi chớ. Nhưng mà cái cây mới mọc có lõi được không? Nếu nó không do cái công phu mà đối trị với cái ác pháp thì làm sao có cái lõi này được. Phải không? Cái này là cái nghiệp đi tái sanh, còn cái này là cái nghiệp không tái sanh, thì bây giờ mình muốn cái nghiệp không tái sanh thì mình phải huân tập cái nghiệp không tái sanh thì nó không tái sanh chứ, thì cái nào nó cũng còn chứ. Cái này thì nó tái sanh nó khổ hoài, còn cái này nó không tái sanh thì nó không khổ, mà mình có tạo ra cái nghiệp này thì phải có cái nghiệp này. Hai cái, bây giờ hai con đường, nếu con đường tái sanh luân hồi thì cứ theo con đường này thì nó tái sanh luân hồi, mà cái đường này là không tái sanh luân hồi thì cứ huân cái nghiệp này thì nó không tái sanh luân hồi. Thì cái nào nó cũng còn chứ không phải nó mất. Cho nên tu cũng còn.
Phật tử 2: Mô Phật bạch Thầy, con có một cái… con thấy vầy sống thì do mình sống, sống thì tu, …nào bỏ xác thì vui vẻ ra đi chớ còn không có uống thuốc tốn tiền tốn bạc… con giờ đâu làm ra tiền nữa, con thấy vậy đó Thầy, giờ Thầy dạy pháp hướng nữa con thấy bổ sung cho con đầy đủ quá rồi.
(1:01:56) Trưởng lão: Bây giờ con nghĩ một điều, nhưng còn hiểu pháp là một điều, rồi còn tu là một điều nó đòi hỏi đó. Bây giờ mình hiểu không tu, tới chừng đó cái nghiệp của mình nó lôi, nó không có đủ năng lực mà chống lại nó đâu. Cho nên trong cái đời sống mình hiểu rồi mình nỗ lực quyết tu, thành ra từ cái nghiệp tham sân si nó sẽ trở thành cái nghiệp không tham sân si, mà cái nghiệp không tham sân si này có rồi nó mới đối trị được cái nghiệp tham sân si, do đó khi mà mình sắp sửa mình chết, cái nghiệp tham sân si này nó rất mạnh nó lôi mình, mà mình có cái lực của cái nghiệp không tham sân si này nó sẽ chống lại, do đó mình mới hoàn toàn giữ được cái này, còn cái này nó sẽ tan hoại, nó mất hết. Tức là nó chuyển hết cái khổ đau rồi.
Phật tử 2: Con định nói với Thầy là con nghe Thầy để con cố gắng con tu cho cái cuối cùng được tốt đẹp, như cái cô gì mà Thầy nói đó là mà mãi mãi ở bên Phật, bên Thầy.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên là Thầy nói giữ tâm bất động là mãi mãi rồi. Đó bây giờ thì các con thấy yên tâm rồi, có hiểu biết rồi, ráng lo tu, chớ đừng có cứ mở băng cứ đọc kinh sách Thầy hoài thì nó cũng không có gì đâu, Thầy nói thiệt ra thì chỉ là mình giải trí mua vui vậy thôi, để mình an ủi sách tấn mình. Trong khi đó mình thấy mình buồn buồn chừng nào thì mình tu lung chừng nấy mình đừng có nghe. Nói thật sự ra chứ ba cái băng này dẹp hết. Cho nên Thầy giảng có sáu mấy cuộn băng rồi giáo án tu tập của Phật giáo cho nó làm sống lại rồi thì Thầy không giảng nữa. Thầy giảng nữa ở đây là làm đào kép nó cứ thu băng nó nghe hoài.
Phật tử 2: Dạ, nãy giờ nghe để hiểu về tu.
Trưởng lão: Đó còn bây giờ các con nghe rồi hiểu rồi, tự mình thắp đuốc lên mà đi, còn ba cái này lỉnh kỉnh lắm, bỏ xuống. Đọc để hiểu, hiểu rồi dẹp hết không có đọc nữa. Nắm gọn được cái gì tu trước cái gì tu sau. Cho nên Thầy nói thật sự ra, nếu mà cái người nào tin Thầy đừng có thèm kinh sách gì hết lại đây Thầy dạy. Bây giờ đó, ra lệnh nè, ngồi xuống nè, ra lệnh đứng dậy nè, ra lệnh thân hít thở nè, ra lệnh đi nè. Cứ như vậy làm vậy đi rồi Thầy dạy kế, dạy kế thì chắc chắn là chắc ăn rồi. Còn bây giờ đọc kinh sách cho nhiều, cha Thầy nói thì hay quá, trời ơi cái này là tuyệt diệu đủ thứ hết, nó làm cho trong bụng này một bụng, cuối cùng không biết cái pháp nào tu hết. Có phải không mấy con?
(1:04:10) Phật tử 2: Dạ thưa phải, con có theo Thầy mấy ngày nay con biết kết quả Thầy nói, cái lúc sư Phước Nhẫn dẫn về gặp Thầy đó, cái sư Phước Nhẫn đi cái ở trong thất đó con còn tham lắm, con muốn gặp Thầy nhiều hơn đó, cái con nghe băng với con đọc kinh sách cái bắt đầu tự nhiên mỗi lần con đi kinh hành cái con ngồi… thì sư Phước Nhẫn về con cũng trình với sư Phước Nhẫn con nói… con quyết chí nghe lời Thầy không đọc, thì con có bị rồi con có bị là dụ băng với kinh này nè.
Trưởng lão: Thôi bây giờ thì mấy con phải ráng tập rồi thì ngày mai sáng bảy giờ gặp Thầy, Thầy sẽ dạy về cái Tứ Niệm Xứ. Con hiểu không? Thầy dạy về cách thức biết tu pháp Tứ Niệm Xứ, để rồi lúc nào mà tu Tứ Niệm Xứ đâu phải là nghĩ như mình về, cũng như bây giờ con về con sống trong gia đình nhà của mình thì mình tu pháp nào, rồi bắt đầu cái giờ phút nào, giờ nào mình tu Tứ Niệm Xứ chứ đâu phải là không tập, tập nó để rồi sau khi nó có đủ duyên, mình mới khép chặt mình trong cái khuôn khổ một tháng, nữa tháng nào đó, để mà thực hiện Tứ Niệm Xứ tức là như gà ấp trứng đó, hoàn toàn là đàn con sẽ được nở hết.
Phật tử 2: Mô Phật sung sướng quá! Thầy bổ sung con hoài, con đội ơn Thầy.
Trưởng lão: Thì mấy con nhớ là Thầy dạy ráng tập, bây giờ cứ tập cái này cho nó thuần. Rồi Thầy sẽ dạy từng cái pháp hướng sẽ thêm vào, từng cái giai đoạn nào mà sẽ thêm vào pháp hướng nào pháp hướng nào. Chứ còn mình chưa có tỉnh thức, mình lo mình hướng những cái tâm ly tham ly sân ly si, cái tỉnh thức nó chưa có đủ để mà nó tiếp nhận những cái ác pháp bên ngoài để ly tham sân si chưa nổi đâu. Cho nên mình tập tỉnh thức trước đã. Tập tỉnh thức tức là mình tập phá cho được cái buồn ngủ. Các con hiểu không?
Phá cho được cái buồn ngủ hôn trầm rồi, bắt đầu bây giờ mới có câu “Tâm như cục đất, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã”, rồi nó mới biết thuận theo trong cái pháp hướng đó. Chứ bây giờ nó chưa có tỉnh thức nó còn gục tới gục lui đây mà biểu nó ly tham sân si sao được nó ngu quá làm sao nó ly, phải không các con hiểu không? Tu nó phải vậy chớ mình phải ly cái si của mình ra thì cái tham cái sân nó mới dẹp được. Chứ còn si nó còn thì sao mà tham với sân nó dẹp được. Cho nên tu tập nó phải có từng bước, cũng như lớp một phải học cho hết rồi tới lớp hai lớp ba lớp bốn. Còn này lớp một chưa rồi cái lên lớp bốn mà lớp ba.
Nhưng mà đại khái chúng ta phải biết rằng, khi chúng ta có những thì giờ mà chúng ta có thể học thêm để chuẩn bị cho mình bước lên cái lớp khác đặng mình có căn bản chứ gì. Đó là những cái học thêm mà. Vì vậy mà học thêm thì nó đâu phảỉ cái chuyên môn của chúng ta học tại cái lớp đó đâu. Xong bây giờ, Thầy phải học thêm cái gì cái gì, để sau này Thầy lên cái lớp hai này nó đỡ Thầy được bao nhiêu điều. Coi như là học Thầy giáo cho học cái bài đó để chuẩn bị, Thầy là học trò giỏi.
Thôi xá Thầy thôi, con còn hỏi gì nữa không con?
(1:07:07) Trưởng lão: Tập cho nó quen, còn đến phần mà tu Tứ Chánh Cần hàng ngày các con tiếp xúc với ác pháp bên ngoài, các con cố gắng ngăn ác diệt ác để sống suốt cuộc đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ người. Thì luôn luôn nó phải sống bằng cái Chánh Kiến hay hoặc bằng cái đôi mắt thấy nó thiện ác đừng thấy đúng sai phải trái, mà thấy nó thiện ác thì các con sẽ được giải thoát. Còn bây giờ tới một cái pháp của tu sĩ tu chứ không phải cái pháp của cư sĩ nữa.
Đây là cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà ở trong Bát Chánh Đạo thì gọi là Chánh Niệm. Cái này là quan trọng bởi vì nó còn cái nẻo thứ bảy và còn một cái nẻo cuối cùng là Chánh Định. Vậy thì Chánh Niệm là cái phương pháp dùng để cho người tu sĩ tu chứ không phải người cư sĩ. Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp rất là tuyệt vời, nếu mà người tu sĩ biết tu. Còn nếu mà người tu sĩ mà không biết tu thì vào trong thất chừng ba bữa thì cái thất đó nó cũng đuổi đi lui ra chứ nó không có cho ở.
Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là một cái người im lặng như Thánh mới tu được, còn cái người không im lặng như Thánh thì không tu được. Cho nên các con nhớ kĩ những cái điều mà rất quan trọng, nếu mình là tu sĩ thì mình ôm pháp Tứ Niệm Xứ mình tu tức là chánh Niệm, còn nếu là cư sĩ thì chúng ta có những giờ tu chứ không phải là không tu cái pháp Tứ Niệm Xứ được.
Nghĩa là chúng ta không tu liên tục hàng ngày suốt ngày được, hoặc là ngày này qua ngày khác được nhưng chúng ta có giờ tu Tứ Niệm Xứ, ví dụ như buổi khuya, buổi tối trong gia đình yên tĩnh thì chúng ta có thể tu Tứ Niệm Xứ được, tất cả những cái hoàn cảnh mà thuận tiện coi như là trong cái cảnh yên tĩnh thì chúng ta tu Tứ Niệm Xứ, còn trong những cái cảnh động thì chúng ta tu Tứ Chánh Cần. Các con hiểu điều đó rồi?
Cho nên khi mà hiểu được những cái cách thức và phương pháp tu nó đúng, đúng cái thời của nó thì nó phải có kết quả, còn mình hiểu pháp mà tu không đúng thời và không đúng cái đối tượng tu nữa, cái thời tu như bây giờ ở giữa chợ mà đem Tứ Niệm Xứ tu thì chắc không được rồi. Cho nên vì vậy ở giữa chợ thì chúng ta chỉ có tu Tứ Chánh Cần là tốt nhất, cho nên nó hợp với pháp đó chứ không thể hợp Tứ Niệm Xứ được.
Mà Tứ Chánh Cần mà đem vô trong rừng thanh vắng một mình ngồi tu thì tu cũng không được nữa, nó cũng sai pháp rồi. Cái thời gian mà tu của nó phải hợp. Cho nên hôm nay Thầy nói như vậy thì các con phải biết cái phương pháp áp dụng pháp môn của Phật phải đúng cách, đúng thời. Cho nên Đức Phật nói, mình tu tập đúng thời thì có kết quả mà không đúng thời thì không có kết quả. Cho nên đúng thời của Phật muốn nói cái pháp đó phải áp dụng đúng thời điểm…
(1:10:04) Hôm nay các con sẽ học cái pháp Thầy dạy là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ nó có bốn chỗ Thân- Thọ-Tâm-Pháp, nhưng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật dạy Thân-Thọ-Tâm-Pháp. Bây giờ chúng ta học cái pháp đó rồi chúng ta mới quan sát lại cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Cho nên Đức Phật nói trên thân quán thân, trên cái thân của pháp mà Đức Phật dạy đó, là mình hiểu cái thân của pháp này, khổ là vô thường, bây giờ mình quán lại cái thân của mình, quán lại cái thân của mình xem coi có phải là khổ thật như vậy không, nó có phải là vô thường thật như vậy không. Khi mình đem nó mình quán xét thì mình thấy: À! Cái pháp Tứ Niệm Xứ nó nói rất đúng, đúng cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình đúng không có chỗ nào sai hết.
Vậy thì từ đây mình phải nương vào bốn chỗ thân thọ tâm pháp của mình đây, mà mình nương vào cái pháp Tứ Niệm Xứ, pháp Thân-Thọ-Tâm-Pháp của Phật dạy đó, để mình quan sát bốn cái chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Rồi hàng ngày hàng giờ hàng phút hàng giây, không có biếng trễ được. Nghĩa là phải Chánh Tinh Tấn, luôn luôn phải tinh tấn siêng năng, luôn luôn quan sát lại bốn chỗ này. Mà hễ thấy nó có một cái chướng ngại pháp nào thì chúng ta mau mau đẩy lui nó không để cho ở trên bốn chỗ này có chướng ngại pháp. Như vậy gọi là Tứ Niệm Xứ.
Chứ không phải ngồi đây mà quán bất tịnh, ngồi đây mà quán xương trắng, ngồi đây mà quán thân sình trương hôi thúi, hoặc là quán cái này quán cái khác, không phải đâu. Bởi vì trong cái bài Tứ Niệm Xứ của Phật nó có gồm chung, cho nên cái bài đó nó không có cụ thể làm chúng ta khó hiểu. Đức Phật bảo mình quán bất tịnh, thì nó cũng nằm trong Tứ Niệm Xứ mà quán bất tịnh, rồi quán hơi thở, đủ thứ hết, rồi quán Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, Thân Hành Niệm đều tất cả dạy tùm lum trên đó gọi là Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta đọc tới Tứ Niệm Xứ người ta rối.
Thật sự ra thì trong khi đó chúng ta trước khi mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ thì chúng ta đã trở thành một con người rất là thanh tịnh, cái thô không còn nữa, cái tâm tham dục tham ái nó không còn nữa. Chứ bây giờ nếu mà cái tâm chúng ta còn tham ái mà ngồi mà quán bất tịnh thì làm sao mà chúng ta ở đây mà quét sạch những chướng ngại nho nhỏ trên thân của chúng ta Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta được.
Cho nên Tứ Niệm Xứ không phải cái chỗ mà để cho các người còn thô pháp, còn tâm tham ăn tham uống, còn ham vui ham dục lạc, ham xe ham cộ ham chùa to Phật lớn mà tu Tứ Niệm Xứ thì không thể tu được. Cho nên quán gì cũng không được hết. Mà đây là cái tâm của chúng ta hoàn toàn thô tháo nó đã hết rồi, chỉ còn cái vi tế nhỏ lăn tăn nhỏ ở trong thân tâm của chúng ta, cho nên chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ được.
(1:12:50) Coi như là thời khóa của Đức Phật là cái thời khóa để dạy cho người ta tu Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Chánh Cần đâu,… không phải ngồi đây mà quán bất tịnh nữa. Mà đây gọi là quét, quét những cái rác rến ở trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta mà đó đang bị nhiễm. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
Như vậy Tứ Niệm Xứ đó, lúc nào người cư sĩ như các con mà muốn tu, thì lúc đó là khuya, một hai giờ khuya trong gia đình ai cũng ngủ im phăng phắt hết rồi, chỉ có mình thức dậy rồi mình mới tập thể thao cho cơ thể nó giãn gân giãn cốt cho nó tươi tỉnh nó không còn buồn ngủ nữa, nó không còn lười biếng nữa. Thì lúc bấy giờ thấy nó tỉnh táo xong rồi, bắt đầu chúng ta mới vào ngồi kiết già hoặc ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế, chúng ta đặt quan sát bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta.
Thứ nhất chúng ta quán thân. Chúng ta xem xét từ trên đầu chúng ta tới dưới chân coi nó có cái pháp gì cái chướng ngại pháp nào ở trên thân không. Nếu không có thì chúng ta tiếp tục chúng ta quán thân thọ. Bây giờ xem thọ của cái thân có không, hồi nãy mình quan sát từ đầu xuống chân rồi không thấy có một cái gì hết, không thấy có một cái vật gì, bây giờ thí dụ như bây giờ mình quan sát từ ở trên thân của mình tới cái chân mình không thấy một cái chướng ngại nào hết.
Bây giờ mình mặc cái áo rách, bây giờ gió nó lạnh thì tức là cái áo nó rách nó bắt buộc mình hay hoặc là mình mặc cái áo ngắn hay hoặc là mình ở trần đi, mình không có mặc áo nữa. Thì mình quan sát từ trên này, mình thấy trong khi này mình tu Tứ Niệm Xứ mình nghiêm chỉnh chứ không thể nào mà mặc cái áo thun, hoặc là mặc cái áo ngắn hoặc ở trần mà ngồi quán sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp như vậy là thiếu đức hạnh về ăn mặc.
Bởi vì trong giới luật của Phật có dạy đạo đức về ăn mặc mà. Mình phải ăn mặc kín đáo. Trong khi mình ngồi tu như vậy, thân tâm mình thanh tịnh thì tức là mình phải ăn mặc một cách thanh tịnh, chứ không thể như một võ sĩ mà vận nội cộng hoặc luyện khí công bằng cách ở trần để mà gồng để mà vận công đâu, thì như vậy là mình là một võ sĩ chứ không phải một tu sĩ Đạo Phật.
Người tu sĩ của Đạo Phật khi quan sát thấy như thế này mình mặc cái áo này không hợp rồi, thân mình mặc như vậy không hợp rồi, thôi bây giờ mình phải mặc cái áo nào kín đáo, cái áo đơn giản như một cái áo bình thường như cái vạt miễn con mấy con như áo bà ba vậy, mặc cho kín thân đừng có để hở hang chỗ nào hết. Nhất là mình gần cái gió lạnh ngoài kia, thì do đó mình quan sát thì mình thấy giờ cần phải ăn mặc đàng hoàng.
Mình ăn mặc đàng hoàng cái vô mình ngồi lại, quan sát từ trên đầu chí xuống, mình thấy à như vậy là được rồi không có gì hết. Mà giờ nghe gió nó thổi lạnh, do đó mình lấy cái khăn mình quấn lại cổ, hoặc mình lấy cái nón mình đội lên cái đầu cho nó ấm áp đàng hoàng. Bởi vì quan sát mình mới thấy cái sự thiếu trên cái thân của mình, cho nên do đó gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
(1:15:49) Phải không, cái hành động làm như vậy nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ chứ gì, bảo vệ cái thân của mình nó không bị chướng ngại pháp. Chớ lát đây mình ngồi đây cái hơi cái gió lạnh quá chạy đi xách cái nón thì như vậy mình bị động nhiều rồi. Cho nên mình chuẩn bị được cái thân của mình cho nó yên ổn thanh thản được cho nó không bị động, cho nên gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
Thế như bây giờ trên cái thân quán cái thân rồi, rồi bắt đầu cái thân nó yên áo y rồi này kia ăn mặc đàng hoàng ngồi nghiêm chỉnh rồi, thì bây giờ mới quán cái thọ coi nó có cái thọ chỗ nào, nó có đau nhức cái chân này nó có đau nhức cái chỗ kia mỏi chỗ nọ không, hoàn toàn không thấy cái thọ của nó nữa, phải không?
Thì bắt đầu bây giờ mình quán xét cái tâm, mình tiếp tục thân thọ tâm mà, bây giờ tới cái tâm. Quán xét cái tâm coi nãy giờ mình đã tác ý ra hay hoặc là nó tự phóng ra. À nãy giờ mình hoàn toàn mình chủ động mình tác ý ra để mình quan sát thì đây là đúng, mà nãy giờ tự động nó phóng ra cái niệm này nó phóng ra, thì cái tâm này nó phóng dật. Tự nó phóng ra, như vậy là sai, như vậy là mình phải cảnh giác, cái tâm nó còn lăng xăng lắm.
Cho nên vì vậy mình nỗ lực mình ngăn ác diệt ác hơn nữa, nghĩa mà mình tiếp duyên ban ngày đó bây giờ mình ngồi lại nó hay lăng xăng nè. Phải không, bởi vì cái người cư sĩ còn tiếp duyên mà bây giờ mình ngồi lại tu Tứ Niệm Xứ thì đâu có yên được cho mình. Bây giờ tu sĩ cũng chưa chắc yên nữa. Cho nên nó lăng xăng vì vậy mình thấy tâm mình nó lăng xăng như vậy, thì mình nói như vậy hằng ngày sống tiếp duyên với các pháp thì mình phải ngăn ác diệt ác rốt ráo hơn nữa. Vì vậy cho nên mình quan sát rồi mình thấy thì mình nhắc cái tâm từ nay về sau phải nỗ lực tu Tứ Chánh Cần nhiều hơn, nhắc nó vậy để cho nó nhớ.
Rồi kế đó mình tiếp tục mình quan sát mình thấy cái tâm của mình bây giờ, hễ khi mình biết nó phóng thì nó không phóng nữa, nó hết phóng rồi. Vậy thì bắt đầu bây giờ mình mới nhắc nó cái tâm mà nếu muốn không phóng ra nữa thì cái tâm phải định vô hơi thở, bởi vì cái chỗ nó định mà, mình kêu nó “cái tâm định vô hơi thở”, bắt đầu mình dặn nó “cái tâm phải định vô hơi thở”, nhớ kĩ nghe “cái tâm phải định vô hơi thở”, thì bắt đầu đó mình bảo nó định trên hơi thở của nó đi. Thì không phải là bây giờ như mình ngồi mình tu Định Niệm Hơi Thở mình nhắc nó biết hơi thở ra thở vô rồi bây giờ mình ngồi đó mình biết, không phải đâu. Bắt đầu mình lại nhắc nó rồi, mình không có chú ý hơi thở đâu, mà mình quan sát các pháp.
(1:18:00) Bây giờ các pháp nè, cái nhà nè có kín gió không nè, tất cả những cái âm thanh sắc tướng gì bên ngoài nè có coi có ai mà làm động không, hoặc nghe mọi người đều tiếng ngủ ngáy khò khò, im phăng phắc lặng lẽ, à vậy như vậy tốt giờ thanh tịnh, các pháp không làm động mình nữa rồi. Như vậy là các pháp đều rất tốt, không có tiếng động lớn không có tiếng động nhỏ, hoàn toàn là giúp cho mình yên tĩnh, được rồi các pháp nó không còn xâm chiếm mình rồi. Do đó, chứ bây giờ khi đương ngồi mình nghe người ta hát radio, nghe người ta hát ti vi nó la um sùm, thì tức là mình bị các pháp đánh mình rồi, thôi bây giờ mình không thể mình ngồi tu Tứ Niệm Xứ được, mình phải xả đi kinh hành chơi thôi, để mà tu tập Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác pháp.
Tu Tứ Niệm Xứ khi mình quan sát nó không có tiếng động nó không có nó yên tĩnh… Bây giờ đó, thì khi bắt đầu bây giờ đó mình nhắc lại một lần nữa “tâm phải định vào hơi thở”, khi mình quan sát các pháp nó không làm động mình rồi, tức là không làm chướng ngại trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình rồi, do đó mình mới nhắc “tâm định trên hơi thở đi”, thì bắt đầu bây giờ mình thấy nó thở ra thở vô. Thì trong khi đó thở ra thở vô mình độ chừng chứ không đếm. Mình độ chừng khoảng thời gian hoặc mười hoặc năm hoặc là hai mươi hơi thở, để cho nó yên tịnh, nhưng mà phải nhớ, nhắc bây giờ quan sát trở lại Thân-Thọ-Tâm-Pháp để xem coi.
Thì bắt đầu bây giờ mình cũng quan sát cái thân của mình từ đầu chí cuối, rồi cái thân của mình thấy hoàn toàn yên lặng, rồi bắt đầu bây giờ mình vừa quan sát thì nó có thọ và thân nó một lượt, nếu nó có thọ thì con muỗi cắn hoặc con kiến cắn hoặc con vật gì nó làm cho chúng ta đau nhức hay hoặc là ngứa ngáy gì đó thì nó hiện ra liền. Vì khi mà quan sát tới nó thì nó sẽ thấy được những cái vi tế ở trong thân của nó ngay liền, ngay liền nó có những cái chướng ngại pháp đó thì chúng ta quán, bắt đầu mở ra một cái mặt trận, mặt trận tức là mặt trận Định Vô Lậu, quán xét coi nó lậu hoặc gì, dục lậu hữu lậu vô minh lậu. Khi mà quán xét những cái lậu hoặc đó chúng ta đã biết cái này là hữu lậu, cái này là vô minh lậu rồi cái gì là nhân quả cái gì là không nhân quả, cái gì là duyên hợp cái gì không duyên hợp, chúng ta thông suốt được cái lý này rồi, thì chúng ta đẩy lui bằng cách nào?
Nếu thọ thì đẩy lui bằng cái kiểu thọ, mà bây giờ nó lỡ nó bị đau cái đầu hoặc là nhức cái tay, thì cái thọ nó nằm ở trong thân nó bệnh nó đau nhức, thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng mà đẩy lui, rồi bắt đầu chúng ta cũng gọi cái tâm tập trung, tức là định vào hơi thở, khi mà cái tâm nó bám vào hơi thở thì cái thọ nó sẽ đẩy lui đi, nó không còn đó nữa. Nghĩa là chúng ta có cái mục đích là cắt ly khỏi cái thọ, cái tâm với cái thọ nó rời nhau bằng cách nó trụ vào chỗ khác, và đồng thời cái pháp hướng ra lệnh cho cái thọ rời khỏi cái thân, cái tâm của nó để hoàn toàn nó được trở về sự thanh thản, an lạc và vô sự của nó. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
(1:20:54) Cho nên nó rất khỏe, người mà biết tu Tứ Niệm Xứ rồi, suốt một ngày một đêm người ta ngồi người ta giữ bốn cái chỗ này thanh tịnh, nếu mà chịu khó mà quét Thầy nói thật sự trong bảy ngày là chúng ta đã chứng đạo. Nó không có khó! Bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là nó sẽ sung mãn nó làm cho cái tâm của chúng ta ly dục ly ác pháp rất là trọn vẹn và đầy đủ rồi. Nhưng mà siêng năng hằng ngày siêng năng tập luyện thì nó có cái thời gian rất ngắn để mà chúng ta chứng được đạo quả giải thoát hoàn toàn.
Cho nên Đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ là bảy ngày bảy đêm, bảy ngày bảy tháng bảy năm, thì nó sẽ viên mãn nó sẽ thành tựu. Mà đúng lời Đức Phật nói, Đức Phật nói bảy ngày chứ không có nghĩa là bảy ngày. Bây giờ chúng ta ngồi tu mà tới chiều tới sáng, ngày hôm nay nội ở trong cái vòng thời gian là bảy ngày, một ngày hai ngày ba ngày là chúng ta thành tựu chứ đâu phải là bảy ngày mới giải thoát được sao, mới chứng đạo được sao.
Nó chỉ trong thời gian đó có chuyên cần hay không chuyên cần thôi. Mà chuyên cần mà suốt cái thời gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hoàn toàn không có một cái chướng ngại gì mà xảy ra trên thân của nó được hết, thì lúc bấy giờ nó đã chứng đạo, chớ không phải gì. Cho nên vì vậy mà đâu phải tu tới bảy ngày, chỉ cần hai mươi bốn tiếng đồng hồ là chúng ta tạm đủ chúng ta sẽ chứng đạo rồi. Mà nếu mà trong suốt bảy ngày mà chúng ta vẫn còn bị chướng ngại pháp ở trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp đó, thì chúng ta sẽ tiếp tục tu nữa, thì không có nghĩa là bảy tháng, mà chỉ cần có mười lăm ngày hoặc là một tháng là chúng ta đã xong. Chứ đâu phải là phải căn cứ vào tu phải bảy tháng mới được sao.
Mà nếu suốt bảy tháng mà chúng ta chưa làm xong, thì cái người này mà có tệ nhất đi nữa là cũng phải bảy năm, nhưng đâu có nghĩa là bảo là phải đúng bảy năm mới thành tựu. Nghĩa là có thể một năm hay là chín, mười tháng, một năm nó hơn cái bảy tháng thì nó cũng có thể thành tựu. Đó là cái điều mà Đức Phật đưa ra cái điều kiện để mà chúng ta thấy, nhưng mà chúng ta có tệ thế nào đi nữa là bảy năm là quá sức tưởng tượng rồi, quá lâu rồi.
Vậy mà người ta tu bây giờ hai ba chục năm mà chưa làm chủ, mà vẫn tu mà vẫn hy vọng, thiệt là nuôi hy vọng ảo. Bởi vì cái thời gian xác định của Đức Phật có bảy năm hà, nghĩa là tối đa chúng ta bỏ ra bảy năm. Thế mà có vị tổ tu hai chục năm, ba chục năm, như ngài Diệu Cao Phong là phải tu ba chục năm, mà ba chục năm không biết là đúng không nữa. Thật sự ra cái tu của ngài là tu tưởng rồi thành ra đâu có chắc gì đúng, bởi vì ngài đâu có làm chủ sinh già bệnh chết được. Ngài đâu có thực hiện được Tam Minh, cho nên đâu có chắc gì ngài đã được mà phải ba chục năm trời tu như vậy. Ngài Đại An phải mười hai năm mới gọi là kiến tánh thành Phật, mười hai năm ổng chỉ có kiến tánh không, thì thiệt ra Thầy chỉ dạy một chút xíu là quý Thầy kiến tánh liền tức khắc, cũng thấy được cái tánh biết rồi. Nhưng mà cái tâm tham sân si chúng ta còn hay hết?
Cho nên vì vậy thật sự ra, tu thì rất vất vả cực khổ, mà cuối cùng thì trở về hai bàn tay không chẳng có gì. Còn cái này đằng này chúng ta tu, thật sự ra nếu mà chúng ta giữ gìn được cái tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự như vậy là ly tham sân si là tham sân si phải hết chớ. Thì tham sân si hết thì tức là giải thoát chứ còn gì nữa. Chứ đòi cái gì nữa, bây giờ Thầy có đòi thiền định gì đâu, mà thiền định ngay chỗ tâm không tham sân si chứ đâu phải thiền định ngoài tham sân si mà được. Tâm tham sân si ly hết rồi thì thiền định ngay tại đó, cho nên nó quá đơn giản và quá dễ, và cái thời gian cũng đâu có phải kéo dài mấy chục năm. Bảy năm là tối đa, nhưng mà bảy năm đó thực sự ra Thầy nói, cái người đó chắc vô đấy chơi chứ còn thiệt ra không phải tu.
Chứ còn thiệt tu thiệt quyết tu thì Thầy nói, dốt đặc như ông Bàn Đặc ổng chẳng biết cái gì hết, ổng dốt ổng đọc câu kệ hoài bốn câu kệ mà không thuộc, thiệt là ông tối thật tối đó. Thế mà ông Phật dạy ông Tứ Niệm Xứ tức là ổng ngồi quét tâm chứ gì. Các con đọc đến cái bài kinh mà nói về ông Bàn Đặc, thật sự ra khi ổng quét sạch cái tâm ổng không phóng dật nữa, tới chừng đó người ta thỉnh mọi Thầy mọi vị tỳ kheo với Phật đi thọ trai, còn ổng là cái người tu không ra gì có ai thèm mời ông ăn đâu.
(1:24:55) Cho nên ổng ở lại cái khu rừng đó, hôm đó ổng quét sạch cái tâm ông rồi, cho nên ai cũng đi vắng hết, bắt đầu ông ra lệnh cái thân ổng biến ra cả ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng. Nhưng mà chỉ có ông Phật ổng đi thọ trai là ổng biết mà thôi, cho nên ổng mới bảo, bảo ông chủ nhà đó, “gia chủ hãy đến rừng kêu ông Bàn Đặc đến đây thọ trai, nói đức Phật bảo” Thì ông chủ nhà ông mới đến khu rừng mà chỗ Đức Phật ở đó, sao mà dòm chỗ nào cũng thấy có một cái mặt ông tỳ kheo giống nhau ở dưới gốc cây ngồi đầy rừng hết trơn. Biết ông nào là ông Bàn Đặc mà kêu.
Cho nên ông này ông mới trở về nói với Phật, bây giờ con vào cái khu rừng thấy thôi tu sĩ ngồi đặc hết gốc cây nào cũng có hết, như vậy biết kêu ông nào bây giờ. Thì Đức Phật nói bảo gọi tên ông nào là ông nào là ông Bàn Đặc thì ôm bát đi xuống thọ trai, Đức Phật mời thì ngay đó ông nào mà đi khỏi rừng thì ông sẽ hướng dẫn ổng về đây. Thì lúc bấy giờ ông ta đến đầu rừng ổng đứng kêu “Vị tỳ kheo nào là Bàn Đặc thì Đức Phật mời đi thọ trai”, thì tất cả những ông Bàn Đặc đều mất hết chỉ còn có một ông ôm bình bát bước ra.
Đó thấy như vậy rõ ràng cái năng lực của người ta khi quét sạch cái tâm tham sân si rồi thì nó có năng lực màu nhiệm, một thân biến ra hàng vạn thân mà. Thế mà sao chúng ta không tu, để cái tâm tham sân si này nó khổ chứ làm gì. Thôi bây giờ giả dụ bây giờ ông Bàn Đặc ổng tu được như vậy đó, ổng nói thôi giờ mình ra lệnh cho cái khu rừng này nó có một cái chùa đẹp nhất, đẹp hơn các lầu đài vua chúa, làm được không? Các con thấy cái năng lực đó nó làm hơn cái gì nữa chứ đừng có nói. Phải không?
Cho nên vì vậy đó, cái khả năng đó có thể nó làm được tất cả hết, tại sao chúng ta không tu mà chúng ta cứ ôm áp cái tâm tham sân si, mà nó trôi lăn ở trong lục đạo. Bởi vì cái tham sân si nó còn thì nó phải còn cái nghiệp của nó, nó phải đi tái sanh luân hồi, nó làm chúng ta khổ đau. Mà cái pháp rất là tuyệt với, ngồi đây để mà xả những cái vi tế của tâm mình để nó hết tham sân si chứ đâu phải là xả cái gì. Bởi vì nó chướng ngại là nó có tham sân si chớ. Mà nó không chướng ngại, bây giờ con muỗi nó cắn ở đây, mà biết ngứa là chướng ngại, mà chướng ngại là do tham sân si nó mới có ngứa chứ còn cở không tham sân si làm sao ngứa. Vậy thì phải xả cái tham sân si ra, thì xả cái ngứa ra thì nó sẽ hết, chứ có gì đâu. Như vậy là rõ ràng là chúng ta xả riết xả riết nó phải sạch thôi.
Tới con muỗi mà nó còn ghét mình còn cắn mình là mình vay nợ nhân quả nó như thế nào rồi.Cho nên một người tu người ta ngồi đám muỗi nó không có lại cắn là tại người ta hết nhân quả rồi nó đâu có nợ mà nó đòi. Còn mình ngồi thử coi. Mấy con cứ ngồi đi, thân nhân quả nó còn hay hết là mấy con biết liền. Hết mà sao muỗi nó đòi máu mấy con, đòi nợ máu đó. Phải không, các con thấy rất rõ mà. Chứ nếu mà các con hết nợ rồi làm sao nó đòi. Tự nhiên cái từ trường của các con cái thiện đó, nó bảo vệ các con.
(1:27:46) Bởi vậy Đức Phật nói, giới luật là thần hộ mạng của chúng ta mà. Cho nên thiện pháp nó bảo vệ các con, cái từ trường nó bảo vệ vầy, làm sao có cái nghiệp gì của ai mà đến đây đòi nợ nó được nữa. Phải không, nó nợ nhân quả mà, rõ ràng mình ngồi đây, muỗi cắn tôi, rồi nói con muỗi cắn chứ không ngờ là nó con nợ của mình nó đến nó đời nợ máu mình đó. Nó chích mình dù một chút máu đi nữa cũng là nợ máu.
Nợ máu sao? Mình ăn thịt nó, biết bao nhiêu máu người ta mình ăn trong bụng mình bây giờ có chút xíu mình rên à. Chà chút xíu cái là ngứa. Người ta lấy có chút xíu à. Mà nhiều con vậy nó đòi nợ máu mình bao nhiêu không. Rồi lại dùng cái này dùng cái kia để tạo nhân quả giết hại nó thêm, để tạo nhân quả ác thêm chứ làm gì. Có phải không? Các con nào là dùng thuốc dùng này kia đủ thứ ngừa con muỗi giết con muỗi vậy, nhưng mà không ngờ tạo cái nhân quả ác. Không ngờ con muỗi là hiện thân để đi đòi nợ máu của chúng ta.
Đó bây giờ Thầy nói để mà thấy rõ bởi vì, khi nào các con có cái đôi mắt nhân quả, suốt rõ cái đường đi nhân quả các con sẽ thấy chúng ta là những cái người vay nợ của nhân quả, mỗi mỗi đều có vay nợ. Nếu mà chúng ta sống toàn thiện thì chúng ta chuyển hết nhân quả, thì không có ai đòi nợ mình nữa thì không có con kiến lại cắn mình nữa. Mình hết nợ rồi nó đâu có lại nó đòi. Tự cái từ trường của mình nó đã làm cho con kiến nó không có đến nó cắn được mình. Cái từ trường thiện mà. Nó có cái sự bảo vệ của cái từ trường đó. Cho nên vì vậy một người sống đúng giới luật nghiêm chỉnh thì nó sống hoàn toàn an ổn không có một cái pháp trần nào có thể xâm chiếm họ.
Cho nên Thầy nói cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định cái từ trường nó bao bọc như cái lồng kiếng, mưa không ướt nắng không nóng họ, làm như là có một cái lồng nó che. Cho nên đời nay Thầy dễ gì có người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định mấy ông nói chuyện, đâu phải dễ. Chuyện người ta có một cái từ trường như vậy, như một cái lồng kính mà nó giữ gìn cái nhục thân của người ta trong này, thì mấy ổng phải biết là làm gì có bụi bặm mà dính trong người ta được, làm gì có mưa gió gì mà hủy hoại được cơ thể của người ta được. Giữ gìn cái đó ngàn đời nó không hư hoại.
Nhưng mà đây là cái trò ảo thuật thôi, như vậy mà nó còn màu nhiệm, huống hồ là cái tâm chúng ta hết tham sân si là nó đã mục đích của chúng ta đạt rồi, chúng ta đâu có cần cái thứ đó. Cái đó là cái trò ảo thuật để cho người ta biết cái màu nhiệm của đạo Phật như vậy, cái lực nó như vậy mà chúng ta không phải cái gì đó mà chúng ta ham, mà vì cái mục đích giải thoát, vì cái sự làm chủ chấm dứt luân hồi, nó không còn mang cái thân khổ đau này nữa, đây là cái mục đích chính. Cho nên chúng ta tham thần thông. Thầy muốn nói thần thông để rồi Thầy bác thần thông là cái mục đích đó, để không là chúng ta cứ chăm chú vào cái sự thần thông, thấy nó huyền diệu màu nhiệm, nhưng mà sự thật cái huyền diệu màu nhiệm chỉ là cái ảo, một cái trò ảo thuật mà thôi.
Còn cái chính của chúng ta là làm sao cái tâm nó hết tham sân si nè, làm sao chúng ta ly dục ly ác pháp nè, để cho chúng ta bất động trước các pháp, trước các cám dỗ của dục lạc thế gian, thì đó là chúng ta giải thoát. Mà giải thoát rồi thì tức là cái tâm của chúng ta nó sẽ ở chỗ nào chúng ta biết rồi, nghĩa là chết chúng ta biết đường chúng ta về, sống chúng ta biết đường chúng ta về. Còn bây giờ chúng ta chưa tới đó thì chúng ta thấy, nghe Thầy nói thanh thản, an lạc, vô sự nhưng mà nó có chỉ chút nó mất. Còn người ta sống hàng ngày người ta sống ở trong đó hoài hoài người ta sống trong đó, người ta không có mất cái chỗ đó, cái niết bàn của người ta nó thường hằng vĩnh viễn đó mà.
Tâm nó không có tham sân si thì nó phải có trạng thái không tham sân si chứ, mà cái trạng thái không tham sân si thì cái trạng thái không nghiệp lực, thì nó đâu có làm sao mà tái sanh luân hồi được. Cho nên chúng ta chấm dứt luân hồi, mà chấm dứt khổ đau ngay liền, chúng ta ở trong trạng thái đó là chấm dứt khổ đau rồi không còn giận hờn phiền não hết, không ai làm gì mình được.
(1:31:12) Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Vầy nó là tưởng rồi, bởi vì hoàn toàn nó ở trong tâm thức của chúng ta bởi vì có những cảm giác gì nó rần rần ở trong này thì nó sai hết. Nó luôn luôn phải thanh thản, an lạc, vô sự. Bởi vì cái cảm thọ của mình bây giờ nó sinh ra cái trạng thái hỷ lạc, cái hỷ lạc này nó hoàn toàn nó không thể chấp nhận được. Bởi vì Đức Phật nói ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, chừng nào mình ly dục được rồi, ly cái lòng ham muốn của mình được rồi, còn bây giờ mình chưa hoàn toàn giới luật của mình chưa nghiêm chỉnh tức là dục chưa có ly, mà nó có những cái trạng thái gì nó cũng đều là ma, nó giả, nó không có đúng đâu.
Bởi vì mình phải xét thấy cái điều của mình. Tu tập mình biết cái tâm ly dục mình ly hết chưa, mà nếu mình ly hết thì cái tâm tự động nó quay vào chứ không cần nhắc nó, nghĩa là nó quay vào nó định trên hơi thở, chứ không phải bây giờ mình tập trung trong hơi thở rồi khi mà cái hơi thở đó cái tâm nó …
(HẾT BĂNG)