PHẬT TỬ CAM RANH 01 - NHỮNG ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian:
Thời lượng: [01:24:19]
Tên cũ: Cam Ranh 1-Tâm Thanh thản là không tái sanh
(00:00)* Trưởng lão:* Ở gần bên Thầy hạnh phúc lắm mấy con, an ổn lắm, không sợ gì nữa hết. Đau bệnh chết mình còn không sợ thì còn sợ lo cái thứ gì nữa, có đúng không? Đời nay người ta chỉ lo sợ đau bệnh và chết mà mình bây giờ đau bệnh, chết không có lo gì. Thì thanh thản, an lạc, vô sự thì còn gì lo. Cho nên mấy con sẽ ở yên đó, mấy con thấy hạnh phúc lắm!
Còn bây giờ mấy con có duyên mấy con tu thêm để làm chủ được sự sống chết, chết tự tại rồi chơi vậy thôi. Rồi mấy con còn có thì giờ mà mấy con còn sống thêm thì mấy con sử dụng Tam Minh để xem vũ trụ đồ chơi, để biết quá khứ, cái chuyện đó chuyện chơi chứ đâu phải là chuyện thật. Mà chuyện thật chỉ có thanh thản, an lạc, vô sự thôi. Có nhiêu đó thôi, cái bí quyết là cái chỗ đó thôi, không có gì hết.
Mà nếu mà không tu thì tới đó nó không giữ nổi đâu, cái nghiệp nó mạnh hơn thì nó lôi mấy con tứ tung. Mà nếu mấy con ráng mấy con tập thì nó đủ cái lực thì nó lôi không nổi, thì do đó mấy con sẽ thắng. Nhớ hằng ngày mấy con nỗ lực mấy con tập như vậy thì Thầy tin rằng mấy con sẽ thanh thản tới giờ phút chết.
(01:07) Bởi vì có nhiều cụ ở ngoài Hà Nội họ lớn tuổi. Họ chín mươi mấy tuổi, bảy mươi mấy tuổi họ sắp chết. Đều là khi đó con cái gửi thư vào cho Thầy, thì Thầy viết bức thư hoặc Thầy thu một đoạn băng nhắc nhở đem về cho cụ nghe. Tức khắc ngay liền để cụ giữ tâm mình bất động trước cái sự đau khổ của thân cụ sắp hoại diệt. Như vậy là mấy cụ nỗ lực chết êm re các con. Nghĩa là khi chết rồi con cái gửi thư: “Mẹ con chết rất êm, không có thấy khổ đau, không có thấy lăn lộn. Bà cứ giữ tâm thanh thản, kiên trì ôm cái pháp đó mà thấy thanh thản, không có khổ đau nữa. Thành ra cuối cùng thì bà ra đi tụi con thấy rất là êm chứ không phải như cụ ông hồi trước đau khổ hết sức rồi mới chịu chết. Còn bà êm re bà ra đi rất êm”. Nhờ phương pháp của Phật quá tuyệt vời mấy con.
Vì vậy mà Thầy thấy mấy cụ không còn tái sanh nữa. Lúc nào, bây giờ cũng ở trong chỗ trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, giải thoát. Mặc dù là cuộc đời vì con vì chồng các cụ rất là cực khổ mấy con, làm nhiều việc ác. Nhưng mà cuối cùng được duyên Phật pháp mấy cụ giữ được tâm bất động của mình thanh thản, an lạc chuyển hóa tất cả những nghiệp.
Một cái pháp đó mà chuyển tất cả nghiệp nhiều đời của chúng ta. Nhưng chúng ta biết cách tu tập và niềm tin của chúng ta tức là Tín Lực. Các cụ nhờ lòng tin thôi, chứ chưa có tu tập gì nhiều nhưng mà nhờ lòng tin, tin theo Thầy, cho nên khi được nghe lời Thầy, được bức thư Thầy con cháu đọc các cụ tin cho nên ôm chặt. Mà khi ôm chặt pháp rồi thì cơn đau mà sắp sửa chết nó giảm đi mấy con. Bởi vì Tín Lực hàng đầu của đạo Phật mà, cái lòng tin, cho nên các cụ được là nhờ lòng tin và Thầy cũng biết gợi đúng lòng tin đó cho nên cứu được các cụ. Chớ không khéo thì kể như cũng bị trôi lăn trong đau khổ mà thôi, không có gì khác.
(03:04) Vì hôm nay con có duyên về đây thì Thầy biết sự vô thường không phải như cháu kia còn trẻ là nói tôi còn sống dai, không phải đâu! Đùng một cái mấy con cũng sẽ biết vô thường sẽ chết không kịp đâu. Cho nên chuẩn bị hết khi biết được Phật pháp và chúng ta chuẩn bị còn sống một giây, một giờ, một ngày chúng ta chuẩn bị pháp đó để cho nó có một nội lực để khi (cái chết nó đến).
Cũng như bây giờ đặt vấn đề gặp tai nạn giao thông xảy đến cái rầm ngay liền chúng ta bất động liền chẳng sợ, bởi vì chúng ta đã từng tác ý câu đó rồi, cho nên khi mà nó vừa ra thì nó làm cho chúng ta hoảng hồn hết biết, lúc bấy giờ chúng ta “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”. Khi thấy cái xe kia chạy ngay mình một cái là “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự” chẳng sợ, ngay đó tâm bất động liền, hoàn toàn không run sợ, nó không mất, chứ nó hết hồn đó con! Con hiểu không?
Cho nên vì vậy những cái này là cái thình lình nó mất hồn. Đột ngột mà mình không chuẩn bị trước, mình không tỉnh thức trước, bất ngờ nó đụng một cái rầm hồn vía mình mất hết, hết biết cho nên mình chuẩn bị, khi thấy điều kiện sắp sửa xảy ra thì tác ý ngay liền: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự, tất cả đều vô thường, nhân quả không sợ”, do đó cái tâm nó vững vàng. Đụng cái rầm chết thanh thản, an lạc, vô sự hạnh phúc lắm mấy con!
Thân này mà có gì đâu, nó đâu phải của mình đâu. Các con thấy nó không thật phải của mình. Tại sao…? Nếu là của mình thì mình sai nó được chứ, phải không? Của nhân quả, cho nên nó đau mình bảo nó đừng có đau nó đâu có nghe mình đâu. Phải không? Còn cái tâm này đâu phải của mình đâu. Nó giận, bảo nó đừng có giận nó đâu có nghe đâu, có đúng không? Nó đâu phải của mình đâu, nó là của nhân quả.
Cái người tu người ta làm chủ lại nó là tại vì người ta cướp lại của nhân quả người ta làm chủ lại nó. Cũng như bây giờ Thầy muốn chết chết, muốn sống sống, đó là cái thân của Thầy là thân của nhân quả rồi. Hồi nào tới giờ nhân quả nó sai nhưng bây giờ Thầy đuổi giặc nhân quả, Thầy chuyển nhân quả đi, cho nên thành cái thân bây giờ nó mới thuộc của Thầy đó. Thầy sai nó được, các con hiểu chưa? Thật sự ra đức Phật nói: "Thân này không phải là ta, không phải của ta, không phải là bản ngã của ta". Không có gì của mình hết, nó của nhân quả. Nhưng một người tu rồi làm chủ lại nó, tức là bây giờ nó là vật của mình sai rồi, nó cũng không phải của mình đâu nhưng mà mình sai được, mình bảo được.
(05:19) Đó là cách thức tu mấy con. Nỗ lực đi, Thầy tin rằng mấy con người nào cũng làm được hết. Cháu nhỏ kia cũng làm được chứ không phải không. Mà nếu mà nó bỏ mình đi tu đó thì nữa sau này nó làm trụ cốt giải thoát, cho nên ráng đi con! Thật sự ráng còn nhỏ học hành sau đó mình có duyên được nghe Pháp. Có một lần nhớ lại trong cuộc đời của mình theo những bác, chú đến đây gặp Thầy cũng là một cái duyên. Cho nên do đó sau khi mà cuộc đời có nhiều cám dỗ thì các con nhớ đến Thầy, nhớ đến cái ngày nào còn bé mấy con đến Tu viện này, cái hướng của mình là hướng muốn giải thoát ra cái đau khổ cuộc đời. Cho nên nhiều khi những hình ảnh, những cái duyên như vậy nhắc mấy con, làm cho nó thoát ra khổ cuộc đời của nó. Bây giờ thì cái duyên không có gì đâu nhưng mà nhờ đó mà sau này nó có cái duyên tu mấy con.
Cho nên mấy con nhớ kỹ lời Thầy, Thầy đem hết tâm huyết của Thầy. Những cái gì mà Thầy đã làm được thì nói hết để cho mấy con vừa sách tấn vừa khích lệ cho mấy con. Mấy con cố gắng mà tu lấy. Phật pháp thì sẵn sàng giúp đỡ mọi người hết không bỏ một người nào. Nhưng còn điều kiện của mấy con, mấy con phải làm.
Thôi xong rồi phải không?
(06:41) Hồi nãy chú Thanh Quang có gởi hai cuộn băng cũng nhờ con sau này sang lại cho chú cái băng và Chú đi qua đi lại Chú nghe Thầy giảng. Chú muốn có cái tài liệu để nghe. Con nhớ con sang giùm Chú khi mà con còn ở lại.
Bây giờ mấy con có còn hỏi gì Thầy nữa không?
Đúng vậy còn hỏi Thầy sẽ trả lời!
(07:10) Bây giờ thầy trả lời câu hỏi đó của mấy con. Phật tử trong đất nước Việt Nam chúng ta có hai giới Phật tử. Một cái giới Phật tử theo ông bà mình đi chùa rồi bắt đầu ông bà mình chết rồi mình cũng tiếp tục theo cái thói quen đến chùa thôi, chứ không quy y với ai hết. Nhưng mà cũng kính trọng Phật, kính trọng Thầy, kính trọng Pháp (lời của Phật dạy), cũng kính trọng nhưng mà vẫn theo nề nếp, theo phong tục di truyền của ông bà của mình. Hồi đi chùa bây giờ con cháu cũng dẫn tới, dẫn lui, giờ quen rồi lớn lên cũng đến để cúng trong chùa vậy thôi. Chứ còn hiểu thêm về quy y với ông thầy nào thì không có quy y. Đó là giới Phật tử gọi là do di truyền, truyền thống của dân tộc chúng ta gọi hầu hết là Phật tử đó đông.
Còn có một số Phật tử đến chùa rồi họ xin quy y họ viết tên họ. Sau đó ở trong chùa ông thầy đó đại diện cho ba Ngôi Tam Bảo. Rồi ông mới làm cái điệp phái ghi tên họ. Cho điệp phái ký tên, đóng dấu trong đó rồi về treo đó. Rồi cũng đến chùa cúng bái, tụng niệm. Cũng có nhiều khi tụng kinh ở trong chùa chiền chiều bữa nào cũng đến tụng kinh thì đó là Phật tử quy y. Nghĩa là Phật tử mà ông thầy đó nắm. Nắm cái số Phật tử đó là đệ tử của chùa mình.
Còn cái kia người ta muốn đến là người ta đến còn không đến thì thôi, không có quyền gì hết. Và đồng thời thì những cái người mà quy y như vậy đó thì thường mà ở trong chùa họ muốn làm cái gì đó, họ cất chùa thì họ kêu mấy người có giấy tờ đóng góp cất chùa, còn Phật tử và đi theo di truyền thì họ không có nắm, họ không có biết đâu họ kêu. Cho nên đến cúng được nhiêu hay nhiêu thôi chứ họ không kêu. Đó cũng là Phật tử, nhưng Phật tử theo truyền thống.
Còn Phật tử mà có giấy tờ đó là Phật tử chính của ông thầy đó, của chùa đó. Cho nên Phật tử này gánh nặng lắm mấy con. Gánh nặng cho Chùa đó lắm. Hở ra cái gì đó: ông cúng giỗ, cúng bái hay làm lễ gì thì cái nhóm Phật tử này còng lưng mà chịu chung số tiền này. Đó là cái số Phật tử thuận thành. Cho nên hầu hết là ở các chùa Thầy thấy Phật tử mà đã được quy y rồi họ tổ chức như gia đình Phật tử, họ tổ chức Ban hộ đạo. Để làm gì? Họ chỉ cần nắm cái người đầu tiên mà trong cái tổ chức đó, gọi người này thì người này kêu hết nhóm Phật tử này đóng góp. Hễ làm gì đó họ kêu đóng góp, đi đâu đó họ kêu mướn xe, mướn cộ thế nào… Cái ông Trưởng Ban, Phó Ban hộ đạo này ông chịu hết mấy cái vấn đề này. Đó là những Phật tử có giấy tờ đó.
Còn trái lại, đúng theo tinh thần của đạo Phật thì Phật tử theo truyền thống của ông bà cũng như Phật tử mà được quy y có giấy tờ với mục đích chính của đạo Phật là dù người đó đến chùa, đến chùa thôi, theo truyền thống của ông bà và người được trực tiếp quy y có giấy tờ đều được hướng dẫn như nhau, hướng dẫn cách sống đạo đức.
(10:26) Cho nên cái ông thầy ở trong chùa đó có nhiệm vụ, không có nghĩa là kêu gọi những người Phật tử này cúng dường mà dạy họ những điều kiện cần thiết để cho họ sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Như năm giới chưa đủ mình phải dạy. Và năm giới họ chưa sống trọn vẹn thì mình tìm cách khuyến khích họ, nói lên những đạo đức.
Ví dụ như giới sát sinh. Mặc dù là con thấy có nhiều người vô chùa họ đã thọ năm giới không sát sinh rồi chứ gì? Thế mà họ vẫn ăn thịt chúng sinh, họ vẫn đi bắt cá như thường. Có nhiều Phật tử họ lại mở tiệm bán phở, bán cơm mặn đủ thứ, chứ chưa hẳn. Họ cũng Phật tử, thay vì họ mở tiệm cơm chay thì cũng không nói gì, thậm chí có người lại mở tiệm rượu nhậu nhẹt nữa, vừa mình bán rượu cho người ta mà vừa ông chồng ở quán cũng uống rượu.
Đó là những cái thọ là thọ nhưng mà sự thật ra họ không nghiêm chỉnh. Cho nên ông thầy ông chỉ làm cho có hình thức giấy tờ để dễ dàng. Khi làm như vậy có cuốn sổ mấy con, có ghi tên họ, pháp danh của mấy con. Cho nên vì vậy khi cần lật sổ này ra thì ông sẽ kêu mấy con không trật người nào hết đâu. Phải không mấy con? Thầy là một tu sĩ ở chùa Thầy biết mà, Thầy biết rất rõ điều đó. Cho nên ở đây cái cần thiết mấy con quy y có giấy tờ cũng tốt mà không giấy tờ cũng tốt. Miễn con chọn đến một vị thầy, con thưa hỏi vị thầy đó.
(12:03) Cái người tu sĩ mà hoàn toàn biết thương người khác đau khổ, hoàn cảnh gia đình con như thế nào, xảy ra đau khổ thế này. Con đến với chùa nơi con thường đến lạy Phật, Phật không nói được điều gì giải khổ con được. Con lạy thì an ủi tinh thần con thôi chứ đức Phật không cứu khổ gia đình con được mà chính ông thầy mới là người cứu khổ gia đình con. Nghĩa là hoàn cảnh con rối ren con khổ quá. Thì lúc bấy giờ con đến con tâm sự trình bày với ông thầy. Ông thầy hướng dẫn đúng chánh pháp của Phật. Con thấy cởi mở tâm hồn con liền. Ông thầy như một ông cha của mình. Cho nên khi mà quy y có giấy tờ hẳn hòi đàng hoàng con là một người đệ tử cũng như một đứa con, cho nên ông luôn luôn, bởi vì cái tình cảm.
Ngay khi mà con nhận cái giấy cái tình cảm con thấy mình như là một người thân của ông. Cho nên có những nỗi khổ gì thì ông là một người cha giúp cho mình vượt qua những cái khổ đó. Cho nên mình đến mình thưa hỏi và thưa hỏi để học hỏi, thưa để học đạo đức, thưa hỏi để học kiến thức sống thì ông thầy đó mới chính ông thầy của mình. Và người đó mới là người đại diện cấp giấy tờ cho mình, con hiểu không?
Còn nếu mà con theo truyền thống mà đi đó thì nhiều khi nó không có sự gắn bó với nhau. Có khi con dám hỏi mà có khi con không dám, con hiểu không? Còn khi có giấy tờ rồi thì đương nhiên thầy trò coi như là gắn bó với nhau cho nên con dám hỏi, dám thưa những điều này, điều kia. Con thấy đó là nó có một cái dây nối liền với nhau. Thưa hỏi để làm gì? Thưa hỏi để học hỏi những gì mà đức Phật đã dạy. Các con là Phật tử chưa biết mà ông thầy là cái người đã thông hiểu. Và ông thầy là người sống được những đức hạnh đó, họ là cái gương hạnh cho mình.
Chẳng hạn, ví dụ như bây giờ con gặp những cái khó khăn nào đó như con mất chiếc xe đi, con bị ăn trộm lấy chiếc xe mà con dùng để đi làm, mà bây giờ trời ơi mất cái xe coi như là cụt cái chân của mình rồi khổ sở quá. Bây giờ sáng phải ra ô tô buýt mà đi đến sở làm thấy nó khổ, mà mất xe thì nó tiếc vô cùng tận. Do đó, khi đó thì bỗng dưng nhớ đến thầy mình, thầy mình chẳng có gì hết, ông còn "ba y một bát", ông không còn quần áo nhiều để mặc như mình, mình sao mất chiếc xe mà buồn, nhớ đến Thầy, nhớ đến sự buông xả của thầy thì con thấy bớt đi sự đau khổ mất xe của con liền. Con hiểu chỗ đó chưa?
(14:35) Cho nên khi mà quy y nó có giấy tờ nó cũng lợi, là vì nhờ cái đó gắn bó thầy trò với nhau để mà thưa hỏi những điều kiện gì cần thiết. Chẳng hạn nào nó có cái tình với nhau lắm. Chẳng hạn bây giờ con đến thăm không phải Thầy đòi hỏi áo quần này kia con sắm cho Thầy, không kêu gọi con cúng dường cái gì hết. Nhưng thấy Thầy rách cái áo, các con về thăm Thầy thấy cái áo Thầy rách các con xin cúng dường Thầy, các con hiểu điều đó không? Do đó nó có cái tình nghĩa với nhau.
Bây giờ trong hoàn cảnh gia đình con khổ, nó thường nó thấy mình như thế này, bởi vì người tu sĩ họ không có gia đình. Tất cả đệ tử của họ là gia đình của họ đó, con hiểu không? Cho nên từ cái tình cảm nhỏ mọn mà các con thấy, tình cảm nhỏ nhặt đó nó gây cái tình sâu lắm mấy con, con trao cho Thầy cái áo khi mà Thầy bỏ cái áo rách của Thầy bận lên cái áo của con nó nhớ cái tình của con lắm. Do đó, khi nghe cái sự đau khổ của gia đình con thì ông thầy tìm cách giúp cho con để cho con được thanh thản, con hiểu không, nó khác chút. Nó lấy cái đại gia đình của Phật giáo làm chung.
Cho nên các con biết có những cụ ở Hà Nội họ cũng vừa biết Thầy thôi, họ cũng chưa được Thầy làm lễ xuất gia. Nhưng mà cái niềm tin của họ có, vì con của họ đã xuất gia với Thầy thôi. Mà nói đến đây là người mẹ của người đệ tử của mình rồi thì đương nhiên là cái người thân của mình, giúp bà làm sao bà vượt thoát được sự đau khổ mà nghiệp lực đang hoành hành bà, các con hiểu không?
Đó là như vậy, rõ ràng là đứa con xuất gia làm đệ tử của Thầy thì cả những người thân của họ cũng đều nhờ công ơn của Thầy, con hiểu không? An ủi nhau để giúp nhau trên cuộc đời đầy đau khổ của sự sống kiếp người sinh, già, bệnh, chết là khó ai thoát khỏi điều này. Cho nên được Thầy, được trò, được sống một đại gia đình của Phật giáo như vậy là hạnh phúc vô cùng mấy con.
Cho nên mấy con không gặp Thầy, gặp Thầy rồi thì bắt đầu bây giờ chưa quy y nhưng mà mấy con chỉ nhắc cái tên Thầy nhớ có lần nó đến chùa mình, bây giờ hoàn cảnh con khó khăn mình thương nó, giúp đỡ nó những ý kiến để nó vượt qua khó khăn. Còn bắt đầu bây giờ mấy con quy y Thầy làm sao quên được mấy con! À hôm đó con về con quy y, hôm nay hoàn cảnh con gặp khó khăn mong Thầy dạy cho con cách nào để thoát ra. Lúc bấy giờ Thầy sẵn sàng Thầy giúp mấy con chứ Thầy đâu có bỏ mấy con đâu.
Con hiểu chỗ đó không? Đó là quy y thật sự, nó lợi ích lắm. Bởi vì các con tìm đến những bậc chân tu thì người ta thật sự người ta đem cái tình thương, lòng đại từ, đại bi của họ thương mấy con. Bởi vì họ biết mấy con khổ lắm. Khổ vì gia đình, khổ vì bản thân cho nên họ rất là thương. Còn trái lại mấy con thương Thầy là vì Thầy sống cái hạnh, cái hạnh mà ngoài đời khó làm. Cũng như con nghĩ mình ăn ba bữa mà Thầy ăn một bữa được. Các con hiểu điều đó không? Nhưng mà vì cái hạnh của Thầy thì không được ăn nhiều bữa đâu. Nhưng mà Thầy thấy được cái sự giải thoát nơi cái hạnh đó. Còn mấy con không thấy cho nên mấy con thấy Thầy khổ cực.
Thầy bận áo rách mấy con thấy Thầy mấy con thương, nhưng mà con không ngờ là cái mặc áo rách của Thầy là cái để giải thoát nơi thân Thầy. Mấy con không hiểu nhưng mà Thầy hiểu. Nhưng mà mấy con vì cái hiểu theo cái tình cảm của mấy con thấy Thầy mặc áo rách, cái tình của mấy con thấy Thầy, thương Thầy. Mấy con hiểu điều đó. Tự nhiên mình phải có tình cảm như vậy, nó gắn bó như vậy mấy con.
Cho nên ở đời các con thấy mình từ lâu đến giờ con không quy y với ai hết là tại vì cái duyên mình chưa gặp. Nhưng mà khi mình gặp mình quy y rồi mình thấy, mình quy y rồi mình chọn lấy một vị thầy chân tu, một vị thầy tu hành thực sự, mình thấy được tình cảm của vị thầy đó đối với mình như một người cha, như một mẹ hiền đối với con. Họ rất thương mấy con. Rồi mấy con sẽ gần gũi, mấy con sẽ trở thành những đứa con của họ, những đứa con ngoan. Mấy con rất thương Thầy và Thầy cũng rất thương mấy con, cái tình cảm sâu sắc nhau ở chỗ đó. Gần gũi lần lượt chia sẻ nhau trên pháp Phật, bởi vì cái nền đạo đức nhân bản nhân quả, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, chia sẻ nhau từng chút, từng li, không để nhau cho khổ.
(18:57) Cho nên quy y là điều đó tốt, có giấy tờ cũng tốt mà không giấy tờ cũng tốt. Nhưng mà có giấy tờ để làm bằng chứng để mà nhớ nhau, để mà có sự liên hệ nhau, sự giúp đỡ nhau. Rồi thì mấy con có cần hỏi thầy gì nữa không?
Rồi Thầy hiểu rồi. Để Thầy giải thích cho hiểu.
(19:30) Bởi vì, cũng như hồi nãy Thầy đã nói cha mẹ cùng đến chùa, ông bà cùng đến chùa, con cái vẫn theo đến chùa, đó là một Phật tử theo truyền thống. Cho nên một Phật tử theo truyền thống chứ tại sao người ta không đi nhà thờ mà người ta đi chùa. Thì mình cho người ta vong linh chứ không phải là Phật tử, phải không?
Đó là truyền thống, họ cũng vẫn là đệ tử của chùa đó. Tại vì cái xóm họ ở đây có cái chùa ở đây, mà họ không đi lại cái nhà thờ, mà họ cứ lại cái chùa. Tại vì ông bà, cha mẹ người ta cứ đến chùa lạy Phật, rồi con cháu người ta cũng vẫn vô đây, người ta không dẫn vào nhà thờ, người ta không có giấy tờ gì hết, nhưng mà đó là Phật tử truyền thống. Những người đó là những người truyền thống của cả dân tộc.
Cái nền đạo đức dân tộc là đạo đức Phật giáo đó mấy con. Truyền thống rất là tuyệt vời. Từ cha ông người ta truyền với nhau đến bây giờ người ta không giấy tờ của ông thầy, thay vì ông cố, ông nội của mình đã quy y với ông thầy nào ở cái chùa đó. Bây giờ ông bà, cha mẹ, cứ dẫn mình vào chùa thôi, cái truyền thống người ta lâu đời lắm chứ không phải là không có đâu.
Nếu mà trước kia, ông cố người ta không có được quy y chùa đó chắc họ không đến chùa đâu, con hiểu chỗ này không? Cho nên đừng có gọi vong linh mà gọi là Phật tử nó mới đúng đó. Nghĩa là con đến chùa được gọi con là Phật tử. Trừ ra con đến nhà thờ rồi con đến chùa thì không được gọi Phật tử, bởi vì con có tôn giáo khác, con nhớ không?
Con đến chùa con lạy Phật, con cung kính thầy trong chùa là đủ rồi con! Cho nên Đạo Phật có nói như thế nào con biết không? Mấy ông thầy nói như thế là sai: “Tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng”. Tự quy y chứ đâu phải mà có ai quy y tôi đâu. Tại vì cái tinh thần của tôi thấy Phật tôi kính trọng, tôi thích đến chùa đó là tự quy y Phật, quy y Pháp rồi con hiểu chưa? Cho nên không có được gọi con là vong linh suông đâu mà gọi con là Phật tử mới đúng đó.
Còn người ta quy y để mà có giấy tờ, cũng như bây giờ con đến chùa con cũng thấy sao mọi người viết tên họ xin quy y. Thôi mình cũng xin quy y với thầy đi. Tức là từ đây về sau con mới có ông thầy của mình. Chân chính rồi đó. Còn hồi đó con chỉ biết đến chùa kính trọng Thầy vậy thôi nhưng chưa hẳn ông là Thầy của con. Nhưng mà khi ông thầy đó đứng ra quy y cho con rồi thì đó chính là ông thầy của con, là ông cha thứ hai đó, con hiểu không? Trách nhiệm ông nặng lắm đó chứ không phải là nhẹ đâu.
(21:52) Khi mà ông chấp nhận quy y cho con là ông phải chịu trách nhiệm. Con có gì mà con khóc là ông phải dỗ con, đừng để cho khóc chứ không phải thường đâu! Nên đạo Phật có cái đạo đức lắm mấy con! Cho nên cái người thầy họ nói như vậy là họ không hiểu Phật tử truyền thống. Phật tử truyền thống là tại vì dân tộc của chúng ta đã có cái Phật giáo trở thành truyền thống dân tộc, mình phải hiểu mà, các con đọc lịch sử có phải không? Phật giáo của mình lâu đời lắm. Bây giờ tôi đến chùa tôi lạy Phật chớ tôi không có quy y với ai hết nhưng tôi là Phật tử truyền thống đó, cho nên gọi là Phật tử. Đừng có nói tôi không phải Phật tử.
Trong khi đó con có quy y, con không quy y là tất cả những phật tử trong chùa này đều có bổn phận hộ niệm con hết, chứ đừng có nói bỏ. Nhưng mà phải biết phân loại, Phật tử có giấy tờ và Phật tử không giấy tờ, đó biết phân loại. Nhưng mà Phật tử có giấy tờ đó thì nắm được trong cái chùa này khi mà Mặt trận hoặc khi Ban tôn giáo hỏi chùa này có bao nhiêu Phật tử? Mà nói về Phật tử truyền thống thì tôi nói không biết, bởi vì không có giấy tờ nên tôi không biết mấy người này được. Nhưng họ cũng vẫn đến chùa tôi lạy Phật, cho nên tôi không biết. Mình phải trả lời với họ mà, với Nhà nước.
Còn trái lại với Phật tử mà tôi biết là có giấy tờ tôi có quy y. Bây giờ từ một trăm hay hai trăm người tôi biết, có giấy tờ đàng hoàng đưa ra cho họ nắm. Còn Phật tử truyền thống từ ông bà, cha mẹ họ đi chùa rồi bây giờ họ cũng đi chùa lạy Phật, tôi không nắm họ được đâu. Nhưng mà có con số này đông lắm. Số Phật tử mà có giấy tờ thì ít lắm, cái số mà Phật tử truyền thống thôi.
Tại sao như vậy mấy con biết không? Tại vì với cái tinh thần, với cái nghĩ, cái hiểu biết của họ, họ không có thấy ông thầy đó quy y. Cho nên họ không quy y mà họ chỉ muốn đến chùa. Chứ nếu mà ông thầy tu đúng giới hạnh hẳn hòi, dù sao đi nữa con đến chùa vài lần con mến ông thầy đó liền, con muốn con làm đệ tử của Phật, con hiểu chưa? Thành ra con muốn con làm Phật tử truyền thống chứ con không muốn quy y là tại vì ông thầy đó có vợ, có con, ăn uống phi thời sống không đúng, có phải đúng không? Tự mình thấy ông Thầy sống không đúng mình đâu có muốn ông làm thầy mình đâu, mà mình muốn đến chùa lạy Phật thôi. Mình không muốn ông làm thầy mình.
Nhưng mà con thấy ông thầy đó bình thường là người ta có cái nhìn mấy con người ta muốn quy y với ông thầy đó. Ông thầy đó có trong hàng giáo phẩm, phải làm Hòa thượng, rồi phải làm hàng giáo phẩm, Thượng tọa, cách thức giảng sư này kia, đi phải rầm rộ xe trước xe sau. Bây giờ mình làm đệ tử của ông thầy này cũng oai lắm chứ. Cho nên người ta theo mấy ông đó quy y chứ không phải không đâu. Ông này là Phó Tăng Thống, ông này là Chủ tịch Phật giáo, thì bắt đầu thấy ông đó có đệ tử quy y đông không? Là tại vì người ta thấy cái danh của ông ta.
Còn mấy con mà tìm một cái vị mà tu hành đạo đức để theo thì thật ra mấy con khó quá. Cho nên những chùa xa xa ở quê các con tìm thầy khó lắm, cho nên mấy con không muốn làm đệ tử mấy ông thầy đó, hiểu chưa? Thầy nói như vậy mà mấy con rõ.
(25:23) Thật sự ra thì quy y nhiều ông thầy được thì tại vì mình cứ thấy ông thầy này, ông thầy khác mình quy y, chứ sự thật ra quy y là quy y Tam bảo chứ không phải quy y ông thầy, phải không? Mấy con thấy không? Tam Bảo. Bởi vì đạo Phật hay, không có quy y với ông thầy mà cũng không quy y dưới một ông Chúa hoặc ông Phật, mà ông Phật bắt mình phải quy y ba ngôi Tam Bảo. Đó là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có kèm theo ông Tăng trong đó. Mà bây giờ bữa nay mình quy y ông Tăng này mai mình quy y ông Tăng khác, quy y Tăng sao nhiều quá vậy mà quy y ông Phật có một ông thôi, thì nó trật mấy con.
Ví dụ bây giờ như mấy con quy y với một vị thầy nào đó mà ông thầy đại diện cho ba ngôi tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Ông làm lễ cho mấy con, rồi cho mấy con điệp phái. Bây giờ mấy con đến mấy con muốn quy y với Thầy thì khi mà quy y rồi thì Thầy sẽ hỏi mấy con, mấy con có hiểu về năm giới. Khi quy y Tam bảo thì phải thọ năm giới, thì tức là Thầy hỏi con có hiểu không? Mấy con không hiểu thì Thầy dạy thêm. Bởi vì mấy con đã quy y, Phật, Pháp, Tăng rồi mà.
Bây giờ người ta đã cho pháp danh đó, tên gì đó thì mấy con cứ nhận điều đó đi. Bây giờ đến với Thầy thì con khỏi cần quy y, tại sao Vậy? Đã quy y: Phật, Pháp rồi mà, đâu cần có ông thầy đại diện, chứ đâu phải quy y cho ông thầy đó đâu. Cho nên bây giờ mấy con đến gặp Thầy thì Thầy chỉ cần hướng dẫn cách thức tu mà thôi. Thầy cũng xem như Thầy là thầy của mấy con, khi mấy con có ý muốn quy y với Thầy, thì như vậy Thầy hướng dẫn.
Còn bây giờ con hồi nào con quy y với vị thầy đó, mà vị thầy đó thì con cũng kính trọng thấy đó là thầy của con. Nhưng mà thầy đó con thấy như không có chỉ dạy con cách thức tu hành gì hết hoặc là chỉ dạy con cúng bái, cầu siêu, cầu an. Bây giờ con đọc kinh sách con thấy nó không có đúng với cái ước muốn của con. Cho nên bây giờ con muốn con quy y với Thầy, để Thầy chỉ dạy cho con cách thức sống như thế nào đúng đạo đức. Chứ đừng có sống trong cúng bái, cầu siêu, cầu an mê tín như vậy. Mong thầy chỉ dạy con cách thức. Phải quy y lại hay không quy y? Thì Thầy sẽ hướng và bây giờ các con sẽ như thế nào thế nào, cần thì Thầy sẽ quy y lại cho mấy con. Từ đây về sau nhất định chỉ có: Phật, Pháp, Tăng, đúng như vậy, sống đạo đức như vậy, thắp đuốc lên mà đi như vậy chứ không có được làm mê tín, nhảm nhí tầm bậy, tầm bạ.
Nghĩa là Thầy cấm mấy con không được làm, thay vì hồi nào tới giờ ở trong nhà mấy con hay đốt tiền vàng mã. Bây giờ Thầy cấm không được. Hồi nào tới giờ mấy con mỗi lần có làm tuần, làm tự thì dán kho, dán quần áo đem đốt. Thì Thầy cấm không cho làm chuyện đó nữa. Ở dây không làm chuyện nhảm nhí tốn tiền đó đâu. Thậm chí mua xe gắn máy, tủ lạnh bằng giấy đem lại đốt cho ông bà xài, chuyện đó Thầy cấm luôn không cho.
Bắt đầu bây giờ Thầy dạy cách thức mấy con sống. Thế giới siêu hình không có, chết là tiếp tục tái sinh. Thầy hướng dẫn cho mấy con sống đúng cách, đúng những lời Phật dạy. Kể từ đó coi như là mấy con nên theo Thầy để học tập tu không còn làm những chuyện mê tín đó nữa, dẹp hết ba chuyện mê tín đó.
(28:32) Bắt đầu bây giờ thay vì ngày mấy con phải tốn hết một cây hương. Ít ra một cây hương để mà thắp trên bàn thờ Phật, hôm nay đối với Thầy không thắp cây hương nữa. Hàng ngày thắp cây hương giải thoát nơi tâm mấy con, chắp tay lên trước bàn Phật, nghiêm chỉnh mặc áo dài, áo rộng đàng hoàng, chắp tay lên thắp năm cây hương “Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, giải thoát, giải thoát, Tri Kiến hương” các con thắp cây hương tâm giải thoát.
Một ngày mấy con nhịn người ta, người ta chửi mấy con mấy con không giận. Chiều mấy con chắp tay lên, hôm nay con thắp hương giải thoát mong đức Phật chứng minh cho con. Con đã đền đáp công ơn Phật bằng cách con không biết giận người ta nữa. Mà ngày nào mấy con cũng đem công đức thắp cây hương lên Thầy tin rằng suốt đời con không biết giận ai nữa hết, phải không?
Mới đầu thì còn giận giận chứ sau mấy con thắp hương riết như vậy kiểu đó thì con sẽ không giận nữa. Bởi vì hàng ngày mình dâng lên cái sự mà không tham, sân, si của mình, cúng Phật mà. Bởi vì đó là hương giải thoát mà. Mà mấy con cứ dâng cúng như vậy đâu cần gì đốt cây hương bằng vỏ cây, phải không? Nhưng nó thanh tịnh lắm mấy con! Đó là cách thức mà mấy con có tốn tiền mua hương không? Không tốn tiền cắc nào hết mà mình lại thắp hương rất là tuyệt vời. Đó là phá đi cái mê tín của mình. Nhưng trong khi anh em ruột thịt của mình còn trong cái truyền thống thắp cây hương thì ngày Giỗ, ngày Tết mấy con không có được quyền không thắp hương hay bài bác người ta, cây hương là tượng trưng cho cái lòng thương nhớ của người ta.
Bây giờ người ta còn cái niềm tin đó thì con không được bác, các con hiểu chưa? Người ta thắp hương nhưng mà mình không thắp hương, mình chắp tay lên mình dâng cái lòng tôn kính của mình đối với ông bà tổ tiên của mình trong ngày ông bà mất, ngày Giỗ, ngày Tết, phải không? Người ta thắp hương, gia đình mình thắp hương ông bà hoặc cô bác, anh chị em mình thắp hương, mặc không nói ai hết, họ thắp hương tượng trưng cái lòng của họ.
Nhưng mà thắp hương để cầu linh hồn ông bà, cha mẹ về phù hộ thì bác liền, phải không? Thắp hương mà cầu kiểu này không có được. Ông bà phù hộ kiểu này, mình đi ăn trộm cũng phù hộ cho mình đừng bỏ tù thì chắc chắn là xã hội náo loạn hết, không được. Cho nên mình bác luôn. Không được, mấy người đừng kêu ai phù hộ, chính mình phù hộ mình. Mình làm thiện mình phù hộ mình chứ gì. Nhắc nhở họ vậy.
Cắm hương thì đốt hương mình không nói nhưng mà phải thực hiện tinh thần tư tưởng khi mà cắm cây hương đó. Còn mình biết nó nhảm nhí, tốn tiền mình không thắp. Chắp tay lên mình đem những cái điều mà mình làm tốt cho gia đình của mình. Không có làm cái điều mà mất uy tín cho ông bà, cha mẹ của mình trong cái ngày giỗ, ngày chạp mình dâng lên sự cúng dường. Con cái học giỏi làm cho gia đình của mình thẳng tiến, mình đem cái hương đó mình thắp lên, nói lên con cháu ngày nay đã làm xứng đáng cho gia đình, cho tổ tiên. Đó mình thắp cây hương. Tâm nguyện của mình như thế nào thì đó là cái hương tâm của mình.
Mấy con nhớ không có tốn tiền mấy con. Nhưng mà mấy con không được bác ai hết, nhớ kỹ người ta thắp hương nhưng mình khéo dẫn dắt họ cho đi vào con đường chánh tín thôi. Thắp cây hương tượng trưng cho lòng hiếu thảo, lòng biết ơn.
Có gì không con? Có gì con, bây giờ tới giờ rồi?
(32:00) Khi mà người chết vừa tắt thở thì cái nghiệp của họ nó tương ưng ở trong bào thai liền. Còn tất cả những điều kiện, hiện tượng mà con thấy đó là hiện tượng của cái tưởng của người xung quanh đó chứ không phải là cái người chết đó còn. Tất cả những điều kiện mà xảy ra là những người còn sống đang ở đó là cái tưởng uẩn của họ nó hoạt động qua cái niềm tin họ như thế giới linh hồn, như thế này, thế kia thì hoàn toàn là cái tưởng của mọi người còn sống đó, nó hoạt động qua những cái điều kiện đó thôi chứ không phải là người chết đó còn ở đó.
Bởi vì thầy nói khi mà nó chưa tương ưng được nó nằm đây nó hô hốp, nó không chết đâu. Mà khi nó tương ưng được, tức là nó có cái bào thai rồi làm một đứa con. Cái bào thai trong bụng mẹ rồi thì ngay đó tắt thở liền. Còn chưa có được cái bào thai, chưa có cái trứng nước ở trong bào thai thì nó nằm đấy thoi thóp. Cho nên con thấy có nhiều người họ nằm họ thoi thóp họ chờ, họ chờ để cho nó đúng cái điểm của nó, cho nó vừa ở bên kia có một cái thân xác thì bên đây nó tắt thở.
Cái nhân quả nó là cái ngọn đuốc. Cái đuốc này vừa tắt thì cái đuốc kia nó cháy lên liền, nó không có kẽ hở. Nó không phải bốn mươi chín ngày để cầu siêu, cầu an của Đại thừa đâu, nó là sai mấy con. Nhân quả nó để như vậy là có khoảng hở đó nhân quả nó tác động ngay. Bởi vì cái thân của chúng ta nhân quả sai chúng ta hằng ngày: Giận hờn, phiền não, ham muốn cái này, cái kia đủ thứ mà bây giờ nó chết, cái này để kẻ hở nói sai ai mà tham muốn đây? Nó đâu có. Cho nên khi đó nó vừa bên cái thân này nó tắt thở thì nó có cái thân mới để cho nó sai rồi. Cái thằng chủ nhân quả này nó khôn lắm nó đâu nó đâu có để cho chúng ta ngồi không đâu. Cho nên nó có cái thân mới.
Mà khi mình ở trong cái bào thai mình có thọ khổ không? Có khổ chứ đâu phải không khổ. Nó chật ních ở trong đó chứ bộ nó rộng, phải không? Ăn, uống, cách thức này kia, khi mình lọt qua bên đây là nó khổ rồi. Còn tất cả những hiện tượng mà xảy ra là do chính những người đang sống đó mà nó có cái phần hoạt động về cái hình ảnh siêu hình mà chúng ta tưởng thế giới siêu hình. Ở trong người chúng ta có cái điều kiện đó, con hiểu chưa?
Có gì không con? Tới giờ thọ trai rồi hả con? Thôi nghỉ
(34:28) Như vậy là buổi chiều hai giờ Thầy đến trong một hai tiếng đồng hồ để trả lời mấy con. Phải rồi, phải ở lại đây rồi tập thử, nghĩa là mình tập có thích nghi không? Coi mình tập nếu mà nó chưa có thích nghi được thì mình về mình tập từ từ. Đạo Phật phải tu tập bằng cách thích nghi cơ thể và tâm của mình chứ không phải ức chế và gò bó nó không được. Muốn làm Phật mau không có được đâu. Cho nên phải tập từ từ mấy con!
(35:20) Nó cũng giúp cho chúng ta hiểu biết một cách rất cụ thể, rõ ràng. Nhất là những pháp hành. Mà nếu cái pháp hành hỏi kỹ rồi tu tập thực hành, rồi còn được phải xem xét trắc nghiệm lại coi sự tụ tập đó có đúng hay chưa nữa. Chứ không phải mình hiểu rồi mình tu tập là đúng đâu, nó còn tập sai trong đó mà cái hiểu của mình chưa có được chính xác. Cho nên khi hiểu là một lẽ nhưng mà khi hành là một cái điều kiện.
Cho nên trong khi tu tập thì luôn luôn mình gần gũi với thiện hữu tri thức trong giai đoạn đầu để Người xem xét cái hành động tập tu của mình có đúng hay chưa? Nếu chưa thì Người sửa lại cho mình đúng. Mà nếu đúng thì mình tu tập tiếp tục tốt.
Nó có kết quả trong từng giây, từng phút của sự tu tập. Nếu mà tu sai một chút thì nó sẽ không có kết quả mà nó còn có tai hại mà nó gây cho mình bị rối loạn cơ thể, tức là bị bệnh trong cơ thể. Nhất là tập trung sai thì nó bị bệnh thần kinh, nó làm rối loạn thần kinh. Về hơi thở nếu mà vận dụng hơi thở sai thì nó rối loạn hô hấp. Nếu nó rối loạn hô hấp thì nó lâu ngày thì nó cũng ảnh hưởng đến tim của mình, nhịp tim đập của mình. Cho nên nó có thể nó làm tu sai gây rất tai hại cho cơ thể của mình. Vì vậy mà khi tu tập dù một pháp môn nào thì cũng nên được vị thầy thiện hữu tri thức hướng dẫn kỹ lưỡng trong giai đoạn đầu tu tập. Chứ đừng nghĩ rằng mình nghe hiểu rồi mình tu là đúng, không phải đâu. Nó không đơn giản.
(37:03) Cho nên hầu hết sau một thời gian hướng dẫn cho mọi người đệ tử của Thầy ở đây, Thầy mới biết rằng họ hiểu là một lẽ nhưng hành là một cái lẽ nó không được đúng đắn như là Thầy hướng dẫn. Cho nên ngôn ngữ không thể diễn tả được hết cái ý nghĩ của sự tu tập. Nó chỉ nói cái nghĩa như vậy nhưng người hiểu như thế này, kẻ hiểu như thế khác. Cho nên biến ra hành động mình nó vẫn bị sai.
Vì vậy mà từ lâu con đường của đạo Phật đã truyền thừa quá lâu mà đến hôm nay chúng ta thấy rằng con đường thiền định của Phật là con đường “Thiền Xả Tâm”. Thế mà người ta tu mãi ức chế tâm. Đó là tại vì tu sai mà không biết, không được thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn, cho nên càng lúc lại càng đi xa con đường của đạo Phật làm mất đi dấu vết thực hành, cái phương pháp giải thoát của đạo Phật. Và cả làm mất luôn cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người cũng bị mất luôn.
Đến hôm nay, nhờ cái phước duyên của chúng sanh mà Thầy đã nổ công tu tập để được kết quả giải thoát như hôm nay. Và đồng thời, triển khai lại cái nền đạo đức của Phật giáo làm cho con người có một cách sống, một lối sống không làm khổ mình, khổ người. Thật may mắn cho con người trên hành tinh này trong thế kỷ của chúng ta. Vậy thì từ đây về sau quý Phật tử cố gắng đừng để làm mất một lần nữa. Và mất một lần nữa biết còn có ai khơi dậy lại ngọn đèn Chánh pháp, ngọn đèn đạo đức này nữa hay không? Rồi mãi mãi những con người trên hành tinh này sẽ ra sao? Sống ra sao? Hay là để tự nó hoại diệt lấy nó? Thật là đáng thương. Thật là đau khổ, phải không các con!
Cho nên từ nay về sau các con cố gắng đem hết sức mình vì bản thân của mình, vì nỗi khổ của mình, và vì con cháu của chúng ta, và vì những sự sống trên hành tinh này các con phải cố gắng, cố gắng hết mình. Cũng như Thầy cố gắng, cố gắng hết mình đem lại sức mòn mỏi tuổi già yếu của mình. Vẫn một niềm ước vọng làm sao đem lại một nền đạo đức cho con người trên hành tinh này, biến cõi sống trên hành tinh này thành Thiên Đàng, Cực Lạc từng phút, từng giây, cho từng người, từng sự sống.
(39:41) Vậy thì các con, quý Phật tử có những điều gì cần thưa hỏi thì thưa hỏi cho kỹ. Chúng ta không biết Phật pháp mà thôi, khi đã biết Phật pháp thì phải biết cho thật, hiểu cho thật rõ ràng, cho kỹ lưỡng, cho hẳn hòi. Đừng hiểu lơ mơ rồi truyền thừa lại người khác làm lệch con đường của Phật thì rất tội cho Phật pháp. Vậy mấy con ai có gì cứ hỏi Thầy.
Dù bất cứ một điều gì Thầy sẵn sàng trả lời cho các con. Hiện giờ có nhiều điều Thầy trả lời các con chưa hiểu, nhưng ngày mai các con cũng sẽ hiểu. Thầy tin rằng lần lượt những gì chưa hiểu rồi các con sẽ hiểu. Thậm chí như cả thế giới siêu hình từ lâu mọi người trên hành tinh này đều không biết nó có hay không? Nhưng hiện tượng của nó xảy ra, người ta đều cho rằng có thế giới siêu hình. Nhưng hôm nay Thầy nói rằng không có thế giới siêu hình mà có những trạng thái siêu hình từ Thức Uẩn của chúng ta tạo ra. Nhưng Thầy tin rằng một ngày nào đó các con sẽ thấy điều Thầy nói là chân thật không sai. Nhưng hôm nay thì mấy con còn bán tín bán nghi, nhưng chắc chắn cái gì thật là thật, chân lý là chân lý không thể nào chân lý là không phải chân lý được.
(41:15) Những gì Đức Phật nói ngày xưa là chân lý, đến ngày nay vẫn đúng như vậy, không có sai. Và lời hôm nay Thầy nói cho đến hàng ngàn năm sau, tỷ năm sau vẫn là như vậy không thể thay đổi được. Vậy thì các con cứ yên tâm mà hỏi, bởi vì xung quanh chúng ta có nhiều cái sai. Trên hành tinh này thường xuyên xuất hiện những bậc đầy đủ trí tuệ để lại cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu, hiểu như thật. Đó là những người đã hy sinh sự sống của mình, đã hy sinh cuộc đời mình để đem lại sự an vui cho mọi người.
Ví dụ như đức Phật, Ngài bỏ sự sung sướng giàu sang, vợ đẹp con xinh. Ngài tu tập gần như chết, khổ hạnh sáu năm, Ngài để lại một gia tài cho chúng ta ngày nay. Công ơn ấy vô cùng không làm sao chúng ta đền đáp công ơn ấy được. Vì hôm nay được nghe lời Thầy nói những điều lợi ích mà đức Phật đã để lại cho chúng ta, chúng ta thấy mình là những đứa con được duyên phước mà đức Phật để lại Chánh pháp như thế này. Biết được như thế này còn biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta chưa hiểu, chưa biết và chưa được nghe nữa.
Thế mà chúng ta được nghe, được hiểu biết như thế này thì chúng ta phải ráng cố gắng học, tu tập như thế nào để may ra chúng ta làm tấm gương cho những người xung quanh chúng ta thấy được để họ giảm bớt sự đau khổ chính họ đang mang trên vai, trên đầu, cổ họ mà họ không biết cách nào buông bỏ.
Vậy các Phật tử các con hãy cố gắng. Cố gắng cùng Thầy để làm tấm gương. Chứ chúng ta chưa có điều kiện gì mà nói họ nghe cả, nhưng chúng ta hãy làm tấm gương giải thoát để giúp cho họ thấy được cái gương phản chiếu giải thoát đó. Họ biết cách từ bỏ những điều mà họ chưa hiểu. Do đó họ mang sự đau khổ mà họ không bỏ được.
(43:52) Cho nên hôm nay mấy con cứ thẳng thắng mà hỏi Thầy. Dù trong thời gian Thầy rất bận nhiều công việc nhưng Thầy vẫn dành cho mấy con buổi sáng, buổi chiều. Mấy con biết trong giờ khắc mấy con nghỉ thì Thầy phải làm việc, làm việc rất nhiều. Để có những cuốn sách, để những điều mà con chưa hiểu rồi các con sẽ hiểu. Để giúp cho con đường của Phật giáo càng ngày càng sáng tỏ hơn, lối đi càng ngày càng dễ dàng hơn. Để giúp cho các con bước đi một cách vững vàng mà không sợ lạc lối nữa. Cho nên từng cuốn sách của Thầy ra đời là từng giọt mồ hôi nước mắt của Thầy đổ xuống nói lên một sự thật, nhắc lại một điều sự thật mà những người đã qua họ đã để lại cho chúng ta.
Vừa rồi Thầy cho ra đời bộ Giới hành của người đầu tiên bước chân vào đạo Phật. Chúng ta đọc chúng ta rất xúc động, xúc động gia đình của đức Phật. Con cái, vợ con của đức Phật ngày xưa thì chúng ta nhìn lại chúng ta hiện giờ cũng vậy, chúng ta cũng có vợ, có con. Chúng ta thử nghĩ tâm trạng của đức Phật và tâm trạng của vợ con mình trong khi người chồng đi tu. Và ở nhà vợ của Đức Phật ở nhà sống như thế nào để tỏ lòng chung thủy với chồng.
Chúng ta đọc đến chỗ bà Da Du Đà La khi đức Phật ăn mặc xấu ba y một bát, ăn ngày một bữa thì ở nhà bà Da Du Đà La cũng sống ngày một bữa. Có người vợ nào mà sống được với chồng chung thủy như vậy không mấy con?
Cuộc đời này khó quá. Chồng đi tu ăn ngày một bữa, vợ ở nhà vẫn ăn ngày ba bữa như thường hoặc là vợ đi tu vào đây ăn ngày một bữa thì chồng ở nhà vẫn say sưa, rượu chè, chưa có chia sẻ những nỗi niềm cùng nhau. Thầy thấy đọc đoạn sử này, Thầy nhìn lại các cư sĩ các con lòng chung thủy của mình có không? Gia đình của đạo Phật đẹp quá, chồng đi tu vợ không tu nhưng chồng làm những gì thì vợ ở nhà vẫn làm đúng cái điều đó.
Các con có đọc cuốn “Mười Giới Đức Thánh Sa Di tập 2” thì các con sẽ xúc động khi đức Phật trở về. Với tình cảm của người phụ nữ khi gặp chồng mười năm cách xa trở về các con biết lòng họ như thế nào không? Thầy muốn diễn tả hết nỗi lòng đó nhưng ngòi bút của mình không đủ để nói lên. Nhưng cũng vẫn làm cho mấy con đọc xúc động. Một đứa con xa cha từ khi mới sinh đến mười năm sau, mười tuổi mới thấy mặt nhau. Chẳng biết mặt cha mình là ai. Thế nên mấy con thấy những người cao quý tuyệt vời vì mọi người, vì sự sống con người bỏ cả thương yêu gia đình của mình.
Hôm nay nhắc lại chúng ta thấy thương cảm vô cùng. Như vậy chúng ta phải làm sao cho xứng đáng với tình thương của đức Phật. Ngài đã bỏ hết để đem lại sự an vui, hạnh phúc cho chúng ta. Để đem lại Chánh pháp cho chúng ta làm chủ được sinh, già, bệnh, chết. Để đem lại cho chúng ta Giáo pháp chấm dứt tái sinh luân hồi làm người. Ơn ấy không ai, không có gì đổi được. Ơn ấy vô cùng to lớn đối với mọi chúng ta khi chúng ta biết được Phật pháp. Hôm nay Thầy kêu gọi nhắc nhở mấy con đánh thức tình cảm của mấy con sống dậy để nhớ ơn của một con người, một vĩ nhân đưa ra bốn chân lý của loài người.
(47:42) Mà chúng ta nếu không có đức Phật cuộc đời chúng ta bơ vơ và chúng ta không còn lối đi. Không còn biết đường nào để cứu mình ra khỏi sự đau khổ của kiếp người nếu không có Ngài. Thầy cũng chỉ là theo đường lối và vết đi của Ngài, Thầy cũng không đặt ra được con đường này nổi. May mắn lắm là Thầy đã đi đúng đường. May mắn thay, đủ phước duyên thay Thầy trở về với con đường Nguyên Thủy, với những câu pháp hướng Như Lý Tác Ý mà thành tựu được đạo giải thoát.
Thì hôm nay buổi sáng Thầy đã hướng dẫn mấy con những cốt tủy của pháp tu tập. Chỉ có phương pháp “Như Lý Tác Ý” mà tác ý những câu thực tế để thực hiện được tâm hồn giải thoát của mình ngay liền trong khi tu tập nó. Các con nhớ kỹ. Và hằng ngày như câu thần chú, những điều tâm niệm luôn luôn khắc ghi trong lòng. Đừng quên những câu này, nó là những phương pháp cứu cánh đời của mấy con thoát ra khỏi đau khổ kiếp làm người. Thầy trao cho các con những bí quyết chỉ giúp cho các con không còn đau khổ trong kiếp sống này nữa. Vậy các con nhớ gì? Hôm nay phải nhớ những điều gì, mấy con sẽ không còn ở đây mấy hôm nữa, ngày mai mấy con trở về quê mình thì cứ hỏi những điều gì cho cặn kẽ để Thầy hướng dẫn cho. Mấy con cứ hỏi đi!
(49:52) Thật sự ra thì với người cư sĩ mà đi đến kết quả cứu cánh hoàn toàn được như Thầy, tức là “Nhập Thiền Định Chứng Tam Minh”. Thì trong chiếc áo người cư sĩ còn bao nhiêu gia duyên, còn bao nhiêu trách nhiệm, bổn phận đạo đức làm người thì các con không thể nào đến đạt được mục đích cao đó được. Nhưng trong chiếc áo cư sĩ, trong mọi gia duyên của các con có những phương pháp giúp các con sống được giải thoát, được an vui, biết xả tâm của mình, biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Có phương pháp giúp cho các con sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Ở mức độ tâm bất động chứ không thể đi vào thiền định, thực hiện Tam Minh được.
Vì người cư sĩ còn trách nhiệm, còn gia duyên phải làm mọi công việc không thể như người tu sĩ. Chỉ có người tu sĩ, xuất gia, cắt ái ly gia, từ bỏ gia đình sống không nhà cửa mới thực hiện được thiền định sâu màu. Không thế nào để cư sĩ vừa làm vừa nuôi con, vừa giúp gia đình mình, vừa an ủi những người thân trong gia đình của mình mà thực hiện được giải thoát vì đó là ái kiết sử.
Ái kiết sử tức là những sợi dây thương yêu ràng rịt cái bổn phận trách nhiệm, đạo đức của một con người đối với gia đình, xã hội. Thì không thể nào mà chúng ta hoàn toàn được giải thoát như Phật, như Thầy được. Cho nên chỉ chẳng qua chúng ta phải sống đạo đức để dọn đường cho đến khi đủ duyên thuận tiện, chúng ta mặc dù không cạo tóc, không mặc áo tu sĩ nhưng chúng ta phải sống một đời sống như Phật, như Thầy. Vì giới luật là phương pháp đầu tiên mà cuộc sống không đúng thì tu pháp gì cũng không được.
(52:00) Cuộc sống mà không ly gia cắt ái thì không thực hiện được sâu màu. Cho nên với người cư sĩ chỉ có sống tu tập hướng tâm, dẫn tâm vào đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì cũng được giải thoát. Giúp cho tâm bất động thì cũng hạnh phúc lắm rồi. Không có gì khác hơn được nữa. Cho nên không thể nào thực hiện một người cư sĩ, thực hiện rốt ráo được như Thầy. Bởi vì đối với một người tu sĩ, để được rốt ráo họ bỏ, hết bỏ sạch như Thầy nói, chỉ còn lại ba y một bát, trắng bạch như vỏ ốc phóng khoáng như hư không, không nhà không cửa thì rày đây mai đó, du tăng khất sĩ. Đi xin ăn, bữa đói, bữa no. Không được đầy đủ như người sống trong gia đình.
Các con biết đời sống của người tu sĩ thì không thể nào là đời sống của người cư sĩ được. Họ hoàn toàn, nếu đứng góc độ cuộc đời của người cư sĩ thì đời sống của người tu sĩ là rất khổ, khổ mà vui trong cái khổ của họ. Hạnh phúc trong cái khổ đó để mà tìm lấy con đường giải thoát vì vậy mà thiền định mới sâu.
(53:20) Ví dụ ba y một bát mưa gió mà ướt hết bộ đồ như thế này thì đành phải chịu ướt át suốt đêm và cả ngày. Không được quyền ở trần ở truồng mà phải mặc, mà mặc đồ ướt thì liệu sức của người cư sĩ các con chịu được không? Mà tu sĩ phải chấp nhận điều đó. Còn bữa đi xin ăn có thì no, bữa xin ăn không có thì phải chịu đói.
Thậm chí như ngày xưa La Hầu La là đứa con trai của Phật đi xuất gia theo Phật tu hành. Đi xin ăn người ta thấy tuổi trẻ còn nhỏ người ta không cho cơm ngon mà người ta cho cơm lại ngựa ăn, cơm xấu. Do đó chú bé con nhà giàu, con vua chúa mà ăn cơm vậy Chú ăn không được. Chú ngồi Chú khóc. Đọc lại những trang sử rất đau lòng, nhưng thầy Bổn sư của chú bé là Xá Lợi Phất: “Con phải nhẫn nhục, mình là người tu buông xả hết, không cần ăn ngon, cái gì ăn sống là ăn”. Cho nên bữa có người ta cho mình cái gì ăn được cứ ăn, sống. Không chê, không khen, không đòi hỏi. Đó là hạnh “Ly dục ly ác pháp” mà con người tu sĩ của đạo Phật chấp nhận.
Một người tu sĩ đạo Phật không thể để dành tiền gửi ngân hàng rồi lần lượt lấy lời đem về sống mà tu. Tu kiểu đó không bao giờ đạt được mục đích giải thoát. Cho nên có nhiều người nghĩ rằng mình có của để dành từng đó mình ngồi không mình tu. Ngồi không tu cũng chẳng tới đâu. Cho nên rất khó mấy con! Vì vậy cái vai trò, phương pháp của người cư sĩ là phải tu theo phương pháp của người cư sĩ. Không thể tu theo phương pháp người tu sĩ được.
Rồi giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ sống đúng đức hạnh để tâm bất động. Tiếp đến giai đoạn thứ hai là phải tu như thế nào cho đúng cái hạnh của người cư sĩ. Chẳng hạn, bây giờ mấy con tu tập đứng trước cái ác pháp tâm mấy con nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.
Kế đó mấy con mấy bước qua một giai đoạn thứ hai, mấy con phải sống ăn, ngủ và độc cư các con thấy rõ. Đầu tiên thì Thầy nói: “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng” trước ác pháp đó là cư sĩ. Kế đó sau khi thấy tâm mình bất động trước hoàn cảnh gia đình, xã hội tiếp xúc với mọi người thấy được thì bắt đầu bước thêm một cái giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ hai phải sống nhẫn nhục, mình phải sống ăn ngày một bữa, phải sống ngủ đúng giờ, phải sống trầm lặng, độc cư một mình. Đây là ba cái hạnh sống của một giai đoạn thứ hai.
Nếu mà sống được giai đoạn này, thì tất cả các pháp tu hành nó không giống như các pháp tu hành của người cư sĩ trong giai đoạn thứ nhất. Đó là từng bước, từng bước như vậy. Bởi vì đạo Phật có lớp lang và thứ lớp, từ cái thấp bước đến cái cao, từ chiếc áo người cư sĩ chuyển qua chiếc áo của người tu sĩ đều có những cái giai đoạn tu tập cụ thể, rõ ràng.
Giới luật của người cư sĩ không phải giới luật của người tu sĩ nó khác nhau, nó không giống nhau. Cho nên người cư sĩ chỉ có thọ Bát Quan Trai, sống một ngày một đêm, hai mươi bốn tiếng đồng hồ hoặc hai ngày hai đêm, rồi những ngày khác hoàn toàn sống trong giới luật của người cư sĩ chứ không thể nào luôn luôn thọ Bát Quan Trai.
(57:01) Thọ Bát Quan Trai là phương pháp để giúp cho người cư sĩ tập làm tu sĩ chứ chưa phải tu sĩ. Vì có tập làm tu sĩ mới sống giới luật của người tu sĩ thì mới có đạt được thiền định và Tam Minh. Đó là giai đoạn cao hơn, sâu hơn. Còn giai đoạn của người cư sĩ chỉ có ở trạng thái bất động tâm, nhập được bất động tâm định. Các con thấy, đạo Phật nó rõ ràng chứ không phải người cư sĩ cũng kiến tánh cũng thành Phật. Người cư sĩ cũng làm được như người tu sĩ nhưng người cư sĩ mà muốn làm được như người tu sĩ, là phải sống như người tu sĩ, không phải ở chỗ chiếc áo, cái đầu mà chỗ cái hạnh sống.
Cho nên người cư sĩ vẫn còn mặc áo của người cư sĩ nhưng phải cắt ái ly gia, nhưng phải sống như người tu sĩ. Giới luật nghiêm túc hẳn hòi. 250 giới đâu ra đó, còn nữ thì phải 348 giới không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào và đồng thời thực hiện những pháp cao hơn, sâu hơn của ngươi cư sĩ.
Đó thì bắt đầu mấy con đọc sách Thầy thì mấy con cứ tu. Tu sĩ cũng giống như cư sĩ. Nhưng mà không ngờ là cái hạnh sống của các con, của người cư sĩ nó không giống của người tu sĩ. Các con về các con cũng nói mình ở trong gia đình ăn ngày một bữa. Không ngờ ăn ngày một bữa với con đã làm rối loạn cả gia đình mình hết. Ví dụ như chồng ăn ngày một bữa, vợ con buồn khổ, thấy cha ăn vậy lo lắng mất sức khỏe của cha, các con thấy chưa? Mà vợ đi tu, ăn ngày một bữa về nhà cũng tập tu đi kinh hành không ngó ngàng gì tới chồng con nữa, thì chồng con buồn khổ nó làm rối loạn gia đình, không hạnh phúc.
Cho nên trong gia đình cư sĩ chỉ nên tu đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Biết sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng mà thôi. Đó là cách thức tu của người cư sĩ. Vậy thì mấy con hỏi Thầy thêm gì nữa không?
(59:10) Như trong kinh Tương Ưng đức Phật đã dạy rất rõ ràng. Vì đức Phật chỉ cho chúng ta thấy chúng ta tương ưng chỗ nào thì chúng ta cứ bỏ thân này là chúng ta sẽ ở chỗ đó. Hiện giờ tâm chúng ta còn tham, sân, si, phiền não. Thì chúng ta còn tham, sân, si tức là tương ứng với những người còn tham, sân, si. Khi chết thì chúng ta phải làm con cái của những người còn tham, sân, si. Khi chúng ta hết tham, sân, si thì trạng thái không tham, sân, si có chứ không phải không?
Hiện giờ tâm chúng ta còn có tham, sân, si, cho nên chúng ta không nhận thấy được trạng thái không tham, sân, si. Khi tâm chúng ta hết tham, sân, si nó có một trạng thái không tham, sân, si hiện ra. Vì vậy trạng thái không tham, sân, si, tức là trạng thái tâm bất động.
Hiện giờ quý Phật tử ngồi lại chỉ trong vòng một giây, năm mười phút là đã có từng niệm khởi. Tâm còn động chưa phải là bất động. Do tâm còn động cho nên không có thấy trạng thái bất động được. Vì vậy, tâm còn động tức là tâm còn tham, sân, si. Mà tâm còn tham, sân, si khi chết thì chúng ta tương ưng nơi đâu có tham, sân, si thì sẽ tái sinh chỗ đó.
Còn trái lại tâm chúng ta không tham, sân, si tức là tâm bất động. Tâm bất động chúng ta hiện đang sống, còn thân này chúng ta vẫn nhận ra được trạng thái đó, trạng thái không tham, sân, si. Bây giờ các Phật tử chưa ai nhận ra được trạng thái không tham, sân, si là tại vì tâm mình còn tham, sân, si. Cho nên người tu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh hằng ngày tức là tâm chúng ta còn tham, sân, si thì sẽ còn những móng niệm ham muốn cái này, cái kia. Vì vậy mà người tu sĩ hằng ngày dừng những cái niệm đó. Dừng những cái niệm đó không có nghĩa là ức chế nó mà chúng ta dừng nó bằng cái tri kiến giải thoát, bằng phương pháp thực sự để hóa giải những niệm đó. Làm cho những niệm đó lìa ra.
Ví dụ như bây giờ Thầy nói để cho thấy được chỗ mà lìa những cái niệm. Bây giờ ngồi đây mà khởi muốn ăn một cái bánh, muốn uống một ly nước ngọt hoặc là muốn ăn cơm. Nó khởi sự nó muốn ăn thì nếu mà chúng ta đi lấy cơm, lấy bánh hoặc lấy nước uống thì đó là chúng ta không ly dục ăn, dục uống. Còn chúng ta không chấp nhận đúng giờ là ăn mà không đúng giờ nhất định là không ăn và khi mà giữ gìn đúng như vậy tức là ta ly dục. Và cuối cùng thì thân và tâm chúng ta sẽ quen đi. Không có ăn uống phi thời như vậy tức là chúng ta ly được dục ăn, và ly được dục ăn mà thân chúng ta quen thì không thấy đói giờ đó.
Cũng như buổi sáng hoặc buổi chiều thì không thấy đói, thậm chí như buổi trưa mà chúng ta vẫn giữ được tâm ly dục, cho nên trạng thái an lạc hiện ra chỗ tâm ly dục. Vậy thay vì buổi trưa ăn ngày một bữa cho tới trưa mai mình mới ăn. Tới trưa thì đói chết, mình cảm thấy đói lắm. Nhưng trái lại một người mà có cái trạng thái ly dục thì họ không còn thấy đói nữa, họ không còn thèm ăn nữa. Nhưng tới giờ họ ăn là ăn chứ thật ra họ không phải vì đói, vì thèm cái thực phẩm ngon dở mà ăn. Nó khác xa lạ, nó không còn giống như chúng ta còn mang tâm dục, tâm thích ăn, nó đói, nó thèm ăn.
(01:02:48) Còn đằng này nó đã hết, nó ly dục, nó hết thèm, nó không muốn ăn. Nhưng họ biết ăn để sống. Họ nhàm chán, họ biết được từng thực phẩm là bất tịnh. Cho nên họ đem cái bất tịnh để nuôi cái bất tịnh trong thân của họ, họ nhàm chán. Họ khác xa chúng ta rất nhiều. Vì vậy khi chúng ta đã ly dục ly ác pháp có một cái trạng thái, trạng thái đó là chúng ta nếm được mùi vị giải thoát. Mùi vị giải thoát đó nó giúp cho thân chúng ta làm chúng ta không thấy đói khát. Và cơ thể chúng ta do cái chỗ mà an lạc của cái thân sung mãn đó, do cơ thể chúng ta không bị đau bệnh và không bị đói khát nữa. Nó vẫn khỏe mạnh bình thường của một người tu tập, của một người biết xả tâm biết ly dục, ly ác pháp.
Cho nên cái trạng thái mà gọi là mùi vị giải thoát thì hầu hết các Phật tử mới hiểu biết thì chưa ai nếm được mùi vị. Cũng như có người nói cái bánh này rất ngon mà chưa từng được ăn miếng bánh cho nên mình không biết nó ngon cỡ nào, ngọt như thế nào, béo như thế nào, cay như thế nào, đắng như thế nào thì mình chưa biết. Nhưng một người đã ly dục, ly ác pháp rồi người ta biết được cái bánh đó. Do khi ly dục, ly ác pháp rồi thì người ta biết khi bỏ thân này thì người ta trở về cái chỗ đó rồi, đó là cái chỗ mà chúng ta về. Thực tế là chúng ta đã biết. Còn bây giờ tâm mình còn dục mình chưa biết. Chưa ly, cho nên mình chưa biết, khi mà mình tập ly chút chút thì mình thấy nó hiện ra. Nó hiện ra như thế nào khi mình ly được?
(01:04:28) Ví dụ như mười phần mình ly được 5 phần thì nó hiện ra trong vòng 5 phút, 10 phút rồi nó mất. Bởi vì mình còn dục cho nên nó có hiện ra, nó hiện ra mình thấy an lạc thật. Rồi nó lại mất nó không kéo dài được và cố gắng mình ly nữa thì nó lại kéo dài thêm ra. Thêm ra từ một giờ rồi hai giờ rồi nó mất, nó không được kéo dài nữa thì mình biết tâm mình ly chưa hết. Cố gắng tập ly nữa, tập hoài, tập cho đến khi 24 tiếng đồng hồ như đức Phật đã nói: “Trong mười hai tiếng đồng hồ Nhất Dạ Hiền một đêm làm Thánh hiền”, tức là mười hai tiếng đồng hồ ở trong trạng thái an lạc đó, ở trong trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp đó. Hay nói là trong trạng thái tâm không phóng dật thì lúc bấy giờ đó là một trạng thái mà khi chúng ta bỏ thân này thì chúng ta ở đó. Vì nó sẽ tương ưng chỗ không tham, sân, si. Cho nên chỗ đó là chỗ chư Phật đang ở.
Vì một người mà nhập Tứ thiền thì người ta cũng ở trong trạng thái bất động đó mà người ta muốn gặp đức Phật Thích Ca thì ngay trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự đó, cái trạng thái an ổn đó người ta vừa muốn gặp Đức Phật Thích Ca thì hình ảnh của đức Phật Thích Ca trong trạng thái đó hiện ra rất rõ ràng và cụ thể như chúng ta hai người nói chuyện trực tiếp nhau như hiện giờ trong căn phòng này.
Cho nên thực tế như vậy. Vì vậy mà chúng ta biết con đường chúng ta chết là chúng ta sẽ đi về đâu. Cảnh giới mà chúng ta đến, trạng thái mà chúng ta đến rất là rõ ràng. Nhưng khi chúng ta tu chưa hết, chưa ly dục ly ác pháp thì chúng ta chưa nếm được mùi vị đó thì chúng ta còn mờ mịt không biết. Chết không biết về đâu? Không biết đi về đâu? Đó là câu hỏi cư sĩ hỏi Thầy.
(01:06:12) Vì vậy thật sự chúng ta biết đường đi, biết nơi chúng ta về khi chúng ta tu đúng chánh pháp của Phật. Đó là điều mà cần thiết, bởi vì chúng ta tu tập rất là gian khổ mà nếu không đạt được, nếm được mùi vị này thì sự gian khổ chúng ta chỉ phí bỏ không có ích gì cả.
Nhưng chúng ta cũng dễ lầm bởi vì kiềm bên chúng ta có một trạng thái xúc tưởng hỷ lạc. Do tưởng chúng ta tạo ra làm chúng ta bị gạt. Mà chúng ta phải có một thiện hữu tri thức gần bên để xác định được trạng thái đúng và trạng thái sai. Chứ không khéo ma, là trạng thái tưởng của chúng ta nó cũng tạo có sự an lạc đó. Cho nên một người ức chế tâm nó cũng hiện ra trạng thái an lạc đó. Nhưng không phải tâm bất động là tại sao? Tại vì tâm bất động chúng ta xả ra bình thường tâm vẫn bất động. Còn trạng thái của sai lạc khi mà chúng ta nhiếp tâm, tâm không có niệm khởi thì nó cũng trạng thái an lạc, nhưng khi xả ra thì tâm tham, sân, si chúng ta còn đủ. Thì người này bị ma chứ không phải là thật.
Cho nên phải xác định được điều đúng và điều sai. Cũng trạng thái an lạc mà trạng thái an lạc đúng và trạng thái an lạc sai nó sẽ không làm được. Đó là cách thức mà quý Phật tử sau này tu tập cần phải thưa hỏi kỹ những cái điều này. Chứ không khéo thấy bữa nay sao tu hành mà nhiếp trong hơi thở nghe nó an lạc không biết đúng sai phải hỏi kỹ cái điều này để cho bậc thiện hữu tri thức người ta xác định cho rõ ràng đây là đúng, đây là sai. Đây là đúng thì cố gắng tiếp tục ngăn và diệt áp pháp nữa thì trạng thái này tự nó tăng lên. Chứ không phải hôm nay thấy nó có an lạc rồi mình cố gắng mình khởi tâm ham muốn duy trì nó lên. Không bao giờ duy trì được. Không bao giờ duy trì trạng thái đó được. Như vậy thì con đường tu chúng ta vẫn biết được đường đi của chúng ta, biết được cái mùi vị giải thoát của chúng ta rất rõ ràng.
Chỉ khi nào mà tâm chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta sẽ thấy được điều này. Và ly dục được một phần chúng ta cũng cảm giác được cái phần ly dục đó, cái kết quả. Bởi vì Đức Phật đã nói “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”. Ngay chúng ta tu tập có ly được một phần, nghĩa là bây giờ ăn ngày một bữa mà thấy sung sướng, thấy thích thú trên cái ăn ngày một bữa. Thì người đó đã có nếm mùi vị giải thoát của ăn một bữa rồi chứ chưa nói là những cái khác nữa. Đó là thực tế của đạo Phật là như vậy. Không tu thôi mà tu đúng một cái điều kiện, ly được cái điều kiện nào thì chúng ta có lợi ích ngay được cái điều kiện đó liền. Có nhận ra được cái giải thoát ngay cái điều kiện đó.
Ví dụ như bây giờ Thầy ngủ. Thầy tập làm chủ được cái ngủ, Thầy thắng được cái ngủ. Thì Thầy sẽ có một cái trạng thái bất động của cái ngủ, làm cho Thầy tĩnh mạch trong trạng thái an lạc của kết quả phá được ngủ. Còn Thầy ăn cũng vậy và Thầy sống độc cư mà Thầy thấy thích thú sống một mình trong thất, không thích nói chuyện với ai. Không có ưa thích nói chuyện người nào hết mà sống một mình vui, vui sống một mình thì ngày đó Thầy cũng có một cái trạng thái, cái mùi vị giải thoát của sống độc cư.
Đó là những điều ly dục bằng cái phương pháp đó đã giúp cho chúng ta nhận ra được cái trạng thái rất tuyệt vời. Giải thoát. Chứ không phải là đợi chúng ta tu hết rồi nó mới có, không phải đâu! Mỗi điều mà chúng ta làm được là chúng ta thấy được kết quả, đặt thành vấn đề để quý Phật tử thấy rất rõ ràng. Bây giờ cơ thể chúng ta đang bị đau bụng hoặc nhức đầu mà chúng ta ngồi ôm pháp tu tập không lìa pháp. Sau khi cơn đau đó qua, do pháp mà để vượt qua được cơn đau thì ngay đó chúng ta sẽ thấy được một cái trạng thái an lạc vô cùng. Cơn đau qua rồi thì để lại một chiến lợi phẩm cho chúng ta thấy đó là trạng thái rất là tuyệt vời.
Cho nên trong đạo Phật không có tu tập nào mà không có kết quả. Có kết quả đầy đủ nhưng chúng ta không chiến thắng được giặc sinh tử thì chúng ta sẽ thất bại, thì chúng ta ê chề, vừa là tu tập chịu khó trong một khoảng thời gian mà không chiến đấu tận cùng. Cho nên khi mà bổ ngửa ra thì sự cực khổ chúng ta rất nhiều, mà chiến lợi phẩm không có, coi như là thất trận.
(01:10:22) Còn trái lại chúng ta chiến đấu tận cùng. Thắng trên mặt trận bệnh tật mà do cái ôm pháp mà thắng thì nó để lại cho chúng ta có một chiến lợi phẩm. Tức là có một trạng thái rất là an ổn. Vì vậy nó tạo cho chúng ta có một niềm tin, một niềm tin lớn. Chúng ta không hề sợ đau bệnh nữa, không hề sợ đau nhức trong thân này nữa.
Gặp đau nhức là chúng ta ôm pháp chiến đấu tận cùng, cuối cùng giặc sinh tử đầu hàng. Mà đầu hàng thì chúng để lại cho chúng ta một trạng thái giải thoát thật sự cụ thể rõ ràng. Chứ không phải như chúng ta uống thuốc hết bệnh rồi thì nó đã bình thường, nó không có gì hết, không phải, đạo Phật khác, chúng ta chiến thắng được bệnh để lại cho chúng ta thấy được một trạng thái chiến thắng của mình rất rõ ràng, an lạc vô cùng, cơ thể sung mãn đầy đủ như chúng ta uống thuốc bổ, còn hơn là uống thuốc bổ, đó là cách thức của đạo Phật là như vậy.
Những câu hỏi của mấy con, trong cái sự mấy con hiểu biết về Phật pháp mà hiểu biết thật rõ ràng thì mấy con không sợ hãi. Mấy con tu thì nó còn có thấy được rõ ràng, chết các con sẽ đi về đâu và tương ưng ở đâu? Được về đâu? Pháp đó con tu như thế nào? Đạt được như vậy thì mấy con không lầm lạc, không sợ lạc đường. Mấy con biết đường đi của mình rất rõ ràng.
Mấy con còn hỏi gì Thầy thêm nữa không?
Cháu bé kia có cần hỏi gì Thầy không? Con học, con sẽ tụ tập như thế nào, Con biết không?
(01:11:59) Làm sao cho mình còn trẻ tuổi mà mình học vừa thông minh mà vừa tu được. Đó là điều quan trọng đấy cháu. Cho nên tu mà thông minh để mà học, phải không? Nếu mà mình thông minh mình học mình sẽ nhớ dai. Vậy thì người tuổi trẻ mình phải có trách nhiệm học để hiểu biết và phải có phương pháp tu để cho mình thông minh. Học đâu nhớ đó không quên thì do đó mới là học trò giỏi, có phải không? Chứ không khéo con học rồi con quên thì dù con có muốn cách gì giỏi cũng không giỏi được, bởi vì quên. Vì vậy cho nên đạo Phật dạy cho chúng ta có 4 giai đoạn tu tập không quên gọi là tỉnh thức.
Giai đoạn thứ nhất: Là chúng ta biết ngày giờ chúng ta chết. Như bây giờ, người mà tu tập tỉnh thức bây giờ ngày mai chết, họ biết họ chết, phải không? Họ biết được, họ báo trước được. Đó là biết trước mình chết chứ không phải làm chủ mình chết. Cho nên các con nghe những nhà tu Tịnh độ, những nhà tu Mật tông Tây Tạng họ biết ngày mai, ngày mốt, tháng sau, tháng tới họ chết, họ nói đúng quá mình thấy cũng hay chứ. Nhưng mà đó là giai đoạn tỉnh thức thứ nhất mấy con!
Tới giai đoạn tỉnh thức thứ hai: Là khi chết họ đi vào bào thai mẹ họ biết. Còn cái kia chết rồi họ mờ mịt họ không biết. Họ biết được ngày chết nhưng mà chết rồi họ không biết họ đi về đâu. Không biết về Cực Lạc hoặc là về nơi đâu hay được tái sinh luân hồi họ không biết.
Rồi bây giờ tới cái giai đoạn thứ hai tập tỉnh thức tức là tập nhớ được, nhớ cả cái thời gian họ sắp tới họ biết được. Cho nên bây giờ tập tỉnh thức tới giai đoạn thứ hai là khi chết rồi họ đi vào bào thai mẹ họ biết đi vào bào thai mẹ.
Rồi tới giai đoạn thứ ba: Ở trong bào thai mẹ họ biết, nghĩa là tới cái ngày mà bà mẹ xuất thai. Khi bà mẹ sinh mình ra đau quá mình mất mình không biết nữa. Cũng như bây giờ mình biết nè mà khi đau quá chết hết biết, không biết, mất tiêu luôn cái biết của mình. Nó không còn nhớ.
Giai đoạn thứ tư: Là khi bà mẹ xuất thai ra. Mình sinh ra mình biết mình nhớ mình hồi đó là ai, ở đâu, xứ nào, nước nào, tên gì, họ gì? Đó là có bốn cái giai đoạn Tỉnh Thức.
(01:14:18) Cho nên có cái thiền định gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Nó có bốn giai đoạn tu tập tỉnh thức đó. Cho nên đạo Phật nó có những cái phương pháp giúp chúng ta tu tập rõ ràng chứ không phải niệm chú, niệm Phật hoặc niệm bùa, niệm gì cả hết. Mà nó có những cái giai đoạn tập luyện trên thân hành của nó để tạo tỉnh thức. Nó có 4 giai đoạn tỉnh thức.
Một người hay quên là thuộc về người vô ký. Trên tâm ý của mình quên trước hay quên sau cho nên có những phương pháp tập cho chúng ta không vô ký. Vì vậy giờ giấc chúng ta phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Chẳng hạn, bây giờ con dự định con tập để cho mình có được sự không quên nhớ dai thì con phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác nương vào thân hành. Đi kinh hành hoặc nương vào cánh tay hoặc nương vào hơi thở. Tập nhiếp phục tâm trong hơi thở. Đó là tập không quên.
Bởi vì "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", mà không quên hơi thở ra vô tức là nhớ, phải không? Không vô ký. Và tập làm sao nhiếp cho được. Vậy nhiếp đến bao giờ? Đến bao lâu mà sức tỉnh thức có?
Do sự hướng dẫn của một vị thầy mà người ta hướng dẫn. Từng đó con tập thì con sẽ có trí nhớ không có quên. Vì vậy mà khi học nó rất là nhớ. Đầu óc của tuổi trẻ mới lớn lên, cuộc đời chưa có đè nặng trên đôi vai cho nên còn rảnh rang, sáng suốt mà được tập tỉnh thức thì lại nhớ, không quên. Cho nên mỗi lần học bài học gì thì nó không quên.
Cũng như bây giờ chúng ta hít thở mỗi hơi thở thứ nhất, hơi thở thứ hai, hơi thở thứ ba, hơi thở thứ tư, hơi thở thứ năm nó quên đi không biết mình thở ra thứ mấy rồi, đó là bị vô ký, bị quên. Còn trái lại thở tới một ngàn hơi thở, hai trăm hơi thở, ba trăm hơi thở, một triệu hơi thở, hơi thở nào cũng rõ ràng cụ thể đó là “Tỉnh Thức Trên Thân Hành Nội”, con thấy chưa? Tỉnh thức như vậy là không quên mà không quên tức là nhớ. Con thấy chưa?
Đó là những cái giai đoạn tu tập cho người tuổi trẻ để chúng ta áp dụng vào trường học mà không quên. Nhưng muốn tu tập cũng không phải dễ. Coi vậy muốn tập tỉnh thức cũng không phải dễ. Lơ mơ không khéo thì bị ức chế tâm. Ức chế con biết như thế nào? Nó căng thần kinh, nhức đầu. À bây giờ cứ tập trung đi rồi mấy con sẽ thấy vậy nhức đầu. Thầy nói đâu có đó, chứ không sai đâu! Nhưng phải biết, phải hỏi. Muốn học, muốn tu đều là phải có Thầy, không phải là muốn mình làm đại là được.
Cho nên với tuổi trẻ mấy con cần phải học thì cần phải tu tập những phương pháp làm đừng cho vô ký, tức là không quên. Làm cho trí nhớ đó là cái lợi ích của mấy con. Cho nên đến chùa phải thưa hỏi. Thưa hỏi với ông thầy, với ông thầy có kinh nghiệm, ông sẽ dạy cho từ đó mình về học thấy tiến bộ, nhớ dai không quên, các con hiểu không? Còn những người già lớn tuổi thì phải học như thế nào, phải không?
(01:17:17) Do đó phải học tu như thế nào? Rồi còn gia đình và tu như thế nào? Những pháp gì để áp dụng vào đời sống gia đình an mình vui và hạnh phúc? Đó là mục đích. Bởi vì mình đứng trong vị trí nào thì có cái phương pháp đó để giúp cho mình được an ổn, được hạnh phúc trong cái vị trí của mình đang. Rồi cái vị trí đó qua rồi nói đến một cái thời điểm khác và cái vị trí khác. Cái tuổi tác nào nó ở trong cái thời điểm của nó. Thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện những cái pháp nó hợp với cái tuổi tác, hợp với cái thời điểm của mình thì nó sẽ đem lại sự hạnh phúc cho chính mình.
Bây giờ già rồi mình rảnh rang không còn lo cho con cháu nữa mà cứ ở đó ẵm con, ẵm cháu hoài thì như vậy chẳng có lợi ích gì hết. Bỏ xuống, bỏ xuống! Phải làm theo kiểu người già.
Do đó cái người già bây giờ mình còn vài năm sống trên thế gian này hãy làm gì cho mình có lợi ích. Chứ không phải lo cho đứa này, lo cho đứa kia, lo cho đứa nọ, lo sao được? Già rồi đâu còn lo nữa. Chia của chia cải cho chúng rồi thì bắt đầu bây giờ còn lại những ngày còn sống phải lo cho chính bản thân mình. Để khi mình phải ra đi mình chết được an vui thanh thản, được biết ngày giờ mình chết. Được làm chủ sự sống chết đó là quan trọng, phải không? Cho nên ở đây từng tuổi, từng cái hoàn cảnh gia đình mấy con cứ thưa hỏi để mấy con biết pháp mà tu. Chứ không phải tu chung chung.
Bây giờ nghiên cứu Phật giáo mấy con biết đó. Nhưng mà khi tập tu thì phải biết với vai trò của mình, cái hoàn cảnh của mình, phải tập tu cái gì? Chứ không phải muốn tu cái gì là tu. Bởi vì sách vở hiện giờ đang chấn chỉnh. Chưa có đường lối rõ ràng, chưa có phương pháp rõ ràng. Người còn trẻ tuổi phải tu cái gì? Người lớn tuổi phải tu cái gì? Người già phải tu cái gì? Và mỗi cái nó có một cái căn bản chung cho những người đó thì mọi người đều phải giữ trong bản chung đó như thế nào. Và những cái riêng biệt của từng lứa tuổi, từng thời điểm, từng hoàn cảnh của gia đình, của bản thân mình đều phải có phương pháp phù hợp.
(01:19:24) Do đó, những bộ sách mà dạy được như vậy thì cần phải có thời gian để cho những người đã kinh nghiệm tu qua họ làm công việc này để giúp cho mình cầm cuốn sách, biết được mình đang tu ở giai đoạn nào. Đó là phải chờ một thời gian nữa mới có. Chứ bây giờ ngay liền một mình Thầy, Thầy làm chưa kịp. Chứ nếu mà đã có những cuốn sách đó thì mấy con khỏe lắm rồi. Chỉ cần trao cho mấy cuốn sách rồi dạy cho mấy con cái nào chữ nghĩa không hiểu chỉ hỏi mà thôi. Còn bây giờ chưa có những cuốn sách đó.
Nhưng mà Thầy cũng đã xây dựng trong cái đầu của mình để cố gắng soạn thảo thành một bộ sách đó cho mấy con! Để từng cái lứa tuổi, từng cái hoàn cảnh mà biết cách áp dụng đúng pháp, đúng người, đúng thời điểm, thì sẽ được giải thoát ngay liền. Như đức Phật nói: "Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy".
Cái lời nói đó không phải là nói sai, mà tại vì bây giờ pháp nó lộn xộn, kết tập bằng pháp lộn xộn. Nghĩa là đọc kinh sách của Phật người kết tập phải nói rằng là người không có tu chứng. Cho nên họ kết tập bài kinh dạy về Chánh kiến thì nó nhét sau ở đâu xứ nào đâu chứ không có mà ngay cái chỗ là lớp Chánh kiến đó mà chúng ta tìm thấy. Cho nên khi đọc toàn bộ kinh của Phật mà rút ra từng những cái bài kinh thuộc về Chánh kiến thì phải có công trình. Họ làm lộn xộn, có bài trước, bài sau nó lộn xộn đủ thứ trong này.
Cho nên đọc kinh Phật chúng ta không thấy cái thứ lớp nào là cư sĩ, lớp nào cho tu sĩ, như thế nào. Chúng ta không tìm thấy được điều đó, thấy lộn xộn. Mấy con mà nghiên cứu về kinh sách tạng kinh Nguyên Thủy thì mấy con mới thấy cái điều mà kết tập nó không có thứ lớp, nó không có lớp lang. Cho nên bây giờ chúng ta vất vả vô cùng. Vì vậy mà từ đó cho tới giờ không có người tu chứng. Chứ mà có người tu chứng thì họ đã sắp xếp lại cho chúng ta có một đường lối tu tập rồi.
Cho nên xét qua kinh sách bây giờ chúng ta thấy thiệt đang lộn xộn, chứ chưa phải là có cách thức rõ ràng. Cũng như bây giờ các con thấy các nước trên thế gian này về chương trình giáo dục thì lớp một có những bài vở của lớp một. Lớp hai có bài vở lớp hai. Phật giáo mình thì cũng giống như chương trình giáo dục của mọi nước trên thế gian này. Thế mà bây giờ lớp một nó không biết cái bài nào, lớp hai không biết bài nào. Đọc kinh thì lu bù. Đọc bài nào cũng thấy hay hay mà không biết nó ở đâu? Có phải bài này của mình tu tập không? Hay là bài học cho mình tu tập đây? Thôi thấy bài nào cũng tu được hết thì cứ tu chứ còn chẳng biết. Đó là mấy con thấy Phật giáo chúng ta nó đang lộn xộn như vậy đó.
Cho nên có những người tu chứng hẳn hòi người ta mới làm cái này cho chúng ta. Còn không có người tu chứng thì đâu dám sắp xếp, đâu dám làm, làm bậy nó sai sao. Cho nên từ khi đức Phật tịch cho đến giờ không có ai sắp xếp lại con đường tu tập này. Cho nên đến giờ rất là vất vả cho chúng ta.
(01:22:18) Ngày hôm nay Thầy đang ra công làm công việc này nhưng trải qua một thời gian tu tập cũng quá lớn tuổi. Bốn mươi mấy năm mươi tuổi rồi. Rồi bắt đầu từ đó cho đến giờ thì hơn bảy mươi tuổi rồi. Mà sắp xếp lại cái này thì thật ra với cái tuổi mà bảy mươi mấy, Thầy nói tuổi này là tuổi nghỉ ngơi chứ không phải làm việc, thế mà phải làm việc như thế này thì các con phải biết là vì Thầy thương tất cả chúng sinh mà làm, từng mồ hôi, công lao của mình để lại chứ đâu phải làm cái này để danh lợi, để làm gì. Còn vài hôm nữa ra đi rồi mà danh lợi để làm gì nữa mấy con, phải không?
Cho nên trong khi làm vì lợi ích mà vắt hết từng sức của mình ra để làm. Rồi phải chịu khó phục hồi. May là mình phục hồi chứ còn cỡ mà một người bình thường mà ngồi làm việc như Thầy thì cái chết rất là nhanh chóng. Cơ thể già ăn uống không được nhiều mà lại ăn một bữa thì làm sao đủ cung cầu cho cái thân mà làm việc như vậy. Thế mà phải dùng những cái sự tu tập của mình để phục hồi cho sự sống tế bào trong người để làm việc, để cho những bộ sách ra đời, để giúp cho mấy con biết được đường lối, cách thức tu theo Phật giáo. Đó là việc làm hết sức cố gắng, cho nên Thầy nói từng giọt mồ hôi, nước mắt của mình vì thương chúng sinh mà phải làm. Chứ rất là vất vả.
(01:23:41) Cho nên hôm nay mấy con chỉ biết không phụ lòng Thầy. Chỉ biết làm sao người ta chửi mình không giận. Người ta nói nặng nhẹ không buồn phiền. Cả gia đình của mình, vợ con mọi mọi điều không có buồn phiền, vì đó là nhân quả. Các con cứ nhìn đó là nhân quả là các con đã đền đáp ơn Thầy. Các con không giận hờn, không phiền não thì các con đã đền đáp ơn Thầy rồi. Không cần mấy con tu gì nhiều đâu. Các con nhớ như vầy cũng đủ đền đáp ơn Thầy. Cho nên trong khi đó mấy con thưa hỏi để cho biết, để rồi mấy con tụ tập mới được. Vậy thì còn ai thưa hỏi?
HẾT BĂNG