00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

PHÁP HÀNH 26 - ĐỊNH VÔ SẮC LÀ BÓNG DÁNG CỦA TƯỞNG THỨC

PHÁP HÀNH 26 - ĐỊNH VÔ SẮC LÀ BÓNG DÁNG CỦA TƯỞNG THỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1998

Thời lượng: [48:36]

1- ĐẶT PHÁP NGŨ UẨN LÊN TỨ NIỆM XỨ

(tiếp theo Pháp Hành 25)

(0:00) Trong năm Ngũ Uẩn này, chúng ta biết rằng nó có cái thân Ngũ Uẩn trong đó, và đồng thời chúng ta đặt ở trên cái thân, chúng ta đem cái pháp Ngũ Uẩn này mà đặt lên trên cái thân để mà xem xét nó, để xem xét cái chấp ngã của cái thân của chúng ta ở chỗ nào.

Bởi vì trong cái thân này, trong cái Thân Tứ Niệm Xứ, thì nó có cái thân Ngũ Uẩn trong đó: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ở trong cái thân đó, ở trong Thân Niệm Xứ, tức là cái pháp Thân Niệm Xứ, nó có cái thân Ngũ Uẩn.

Bây giờ chúng ta mới đặt cái pháp thân Ngũ Uẩn này lên trên cái Thân Tứ Niệm Xứ này, mà chúng ta quán xét, để xem coi nó chấp cái ngã ở chỗ nào của cái Thân Niệm Xứ này, rồi chúng ta mới quán pháp thân Ngũ Uẩn trên pháp Thân Niệm Xứ, các thầy hiểu chưa?

Quán cái pháp, bây giờ chúng ta đặt nó trên đó rồi, bây giờ chúng ta mới quán đây. Quán cái thân Ngũ Uẩn trên pháp Thân Niệm Xứ, phải không, bởi vì cái Thân Niệm Xứ là cái thân chúng ta đang có nè, bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ trong thân chúng ta.

Còn cái pháp Ngũ Uẩn kia là cái pháp mà Phật đã dạy cho chúng ta biết, nó vô thường, khổ, không, vô ngã, hay hoặc là Thân Ngũ Uẩn này nó do năm cái duyên này hợp lại, khi mà nó hoại diệt thì nó không còn một cái duyên nào hết, cho nên trong đó không có ngã, không có cái gì của ta trong đó, không có cái bản thể, bản ngã gì của ta trong cái thân Ngũ Uẩn này hết!

Do cái chỗ mà chúng ta đặt lên trên chúng ta quán lại cái Thân Niệm Xứ chúng ta, nó ở trong thân Ngũ Uẩn này, thì hoàn toàn nó như là cái thân Ngũ Uẩn nó cũng không có cái ngã của chúng ta hết.

Vì vậy chúng ta xả cái ngã, ly cái ngã, diệt cái chấp lầm của chúng ta là chấp cái thân là cái của ta, cho nên vì vậy mà nó làm cho chúng ta nhiều cái khổ. Do cái lầm chấp đó mà chúng ta có nhiều cái khổ.

Mà lầm chấp cái thân là Ngũ Uẩn, Đức Phật gọi là thân kiến hay hoặc là ngã kiến, nghĩa là cái kiến chấp của mình, cho cái thân là thật của mình, nó không có thể hoại diệt, luôn luôn nó trường tồn, thì đó là mình cố chấp như vậy.

Bây giờ mình mới đem mình quán cái thân Ngũ Uẩn, mình mới thấy rằng Phật phân tích cho chúng ta thấy cái thân Ngũ Uẩn, khi mà hoại diệt thì nó không còn một cái gì gọi là trong cái Ngũ Uẩn còn lại hết.

Do vì vậy mà cái thân của chúng ta - cái Thân Niệm Xứ của chúng ta nó sẽ sạch sẽ, mà nó không bị lầm chấp, cho nên nó giải thoát được, nó không bị coi cái Thân Niệm Xứ này là cái ngã của nó nữa.

Tức là quán pháp trên pháp, tức là quán cái pháp này trên cái pháp khác chớ không phải, đem cái Ngũ Uẩn, quán cái pháp Ngũ Uẩn trên cái pháp của Niệm Xứ, chớ không phải quán pháp Ngũ Uẩn trên pháp Ngũ Uẩn, các con phải hiểu chỗ đó. Bởi vì ở đây chúng ta rõ ràng là đem cái pháp Ngũ Uẩn mới tu ở trên cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên mới quán pháp trên pháp.

Nhiều khi chúng ta quán pháp trên pháp, chúng ta tưởng rằng đem cái pháp Ngũ Uẩn này quán ở trên cái pháp Ngũ Uẩn! Không phải, Phật nói cái câu nói mà cái người mà không kinh nghiệm thì người ta cứ nghĩ rằng mình quán cái thân này ở trên cái thân này. Không có phải cái điều đó đâu!

Nghĩa là quán cái pháp này ở trên cái thân Ngũ Uẩn này, là cái pháp của Tứ Niệm Xứ này thì nó mới đúng, chớ không phải là quán cái pháp Ngũ Uẩn này trên cái pháp Ngũ Uẩn, mà quán cái pháp này trên cái pháp Tứ Niệm Xứ. Là pháp quán trên pháp, quán pháp này trên pháp kia, chớ không phải quán pháp Ngũ Uẩn trên pháp Ngũ Uẩn.

Đó Thầy nhắc lại để chúng ta thấy cái chỗ tu tập của chúng ta nó rõ ràng và nó cụ thể.

(03:40) “Ví dụ con đang lầm chấp thọ là ngã, do đó con lấy pháp thân Ngũ Uẩn đặt trên pháp Thọ Tứ Niệm Xứ.”

Hồi nãy “thân” thì nghe nó trùng với “thân” chứ gì? Bây giờ chúng ta lấy cái “thọ” để chúng ta thấy có cái tên khác rồi, thì chúng ta thấy rõ ràng hơn.

“Con đang lầm chấp thọ là ngã”, nghĩa là cái gì đau là mình đau đó, là coi như là mình là cái thọ đau đó, mình lầm chấp đó là cái ngã của mình. Do đó bây giờ mình mới lấy cái pháp Thân Ngũ Uẩn này mình mới đặt trên cái pháp Thọ Tứ Niệm Xứ này.

“…​ rồi quán pháp Thân Ngũ Uẩn trên pháp Thọ Niệm Xứ.

Tức là con quán pháp trên pháp, nghĩa là con quán pháp này trên pháp kia. Tùy theo trên bốn pháp này, một pháp nào đang bị ô nhiễm”

Tức là trên cái Bốn Tứ Niệm Xứ này mà có một cái, thí dụ như bây giờ tâm con bị ô nhiễm, hay là thọ con bị ô nhiễm, bị ác pháp, bị ô nhiễm, thân con bị, hay là trên cái pháp Thân Tứ Niệm Xứ con đang bị, con hãy đặt cái pháp tứ, bây giờ con đang tu cái pháp Ngũ Uẩn, thì con lấy cái pháp Ngũ Uẩn mà đặt lên, mà nếu con tu cái pháp khác thì con lại lấy cái pháp khác mà đặt lên.

Thí dụ như con tu Ngũ Triền Cái hay hoặc là Thất Kiết Sử, thì con lấy cái pháp Thất Kiết Sử con đặt lên trên đó, hoặc là con lấy cái pháp Ngũ Triền Cái con đặt lên trên đó, hay hoặc là con lấy Thập Nhị Nhân Duyên con đặt lên ở trên Tứ Niệm Xứ, ở trên cái pháp đó mà con tu.

Như vậy là quán từ cái pháp, thí dụ như bây giờ là cái pháp Ngũ Uẩn, thì con quán từ cái pháp Ngũ Uẩn mà nó đặt ở trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ, hay hoặc là con quán cái pháp Ngũ Triền Cái, nó ở trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ, hay hoặc là con quán cái pháp Thập Nhị Nhân Duyên trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ.

Đó, từng cái pháp để rồi chúng ta triển khai nó ra chúng ta mới thấy, chúng ta mới xả được cái tâm lầm chấp của chúng ta, từ đó gọi là vô lậu.(05:54) Có như vậy thì các con mới thấy rằng cái sự tu tập nó rất là dễ hiểu, nó không có khó khăn nữa.

Còn nếu mà chúng ta không hiểu thì chúng ta còn rắc rối ở cái chỗ tu tập Tứ Niệm Xứ của chúng ta, rồi chúng ta không biết, chúng ta cứ ngỡ tưởng rằng trên Tứ Niệm Xứ rồi tu pháp Tứ Niệm Xứ, nó không phải đâu.

Nếu mà cái Tứ Niệm Xứ là một cái pháp thì chắc chắn là chúng ta phải đem cái pháp Tứ Niệm Xứ mà đặt lên trên cái Thân Tứ Niệm Xứ mà tu tập. Đằng này cái Tứ Niệm Xứ lại chỉ cho chúng ta, lẽ ra thì cái Tứ Niệm Xứ này thì nó phải đặt cái tên là Tứ Trụ Xứ, bốn cái chỗ để mà chúng ta tu tập, bốn cái nơi chỗ đó để chúng ta tu tập, chớ không phải Niệm.

Cho nên vì vậy mà chữ Niệm là Thầy thiết nghĩ rằng cái người mà dịch chữ Niệm này, là họ chưa có hiểu Tứ Niệm Xứ.

Bởi vì chúng muốn giải thoát ra khỏi cái sự sanh tử luân hồi, thì không ngoài cái thân Tứ Niệm Xứ này - thân, thọ, tâm, pháp này mà giải thoát được cái chỗ luân hồi sanh tử chúng ta được.

Bởi vì nếu mà chúng ta đặt ra ngoài, thí dụ như bây giờ một người tu Tịnh Độ mà niệm Phật, tức là đặt ra ngoài cái Tứ Niệm Xứ rồi, mà đặt cái Cực Lạc nó ở đâu, thì do đó nó làm sao nó giải quyết được cái Tứ Niệm Xứ này? Cũng như một người Thiền Tông, đặt cái Phật Tánh vô hình đó chớ không phải đặt ở trên cái Tứ Niệm Xứ này mà tu.

Còn bây giờ chúng ta ngay ở trên cái Tứ Niệm Xứ là cái Thân Tứ Niệm Xứ này, là cái thân đang khổ nè, đang đau khổ nè, đang gặp những trường hợp bất toại nguyện nè, đang nhức nhối nè, đang sanh tử luân hồi nè, thì chúng ta đặt đó để mà chúng ta hàng phục, chúng ta quyết chiến quyết thắng với những cái đau khổ đó. Vì vậy là chúng ta trực tiếp chúng ta đã thành tựu được cái sự giải thoát nơi bốn cái trụ xứ này chớ!

(07:55) Vì con người sanh ra ai cũng có bốn cái trụ xứ này hết, không có người nào mà thiếu bốn trụ xứ này, thân, thọ, tâm, pháp thì người nào cũng phải có chớ. Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ.

Nhưng cái pháp gọi là Ngũ Uẩn, thì đó là năm cái duyên để mà kết hợp lại thành cái thân của chúng ta hiện giờ, chớ không phải nó là pháp Tứ Niệm Xứ.

Cho nên chúng ta đừng có lầm cái thân của Tứ Niệm Xứ là cái thân của Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn là một cái khối, còn cái Tứ Niệm Xứ là một cái vị trí ở trong cái thân của chúng ta đang có, mà trong cái thân này thì nó là cái thân Tứ Niệm Xứ chớ không phải là cái thân Ngũ Uẩn, nhưng cái pháp Ngũ Uẩn xác định cho cái thân này là nó do năm duyên mà hợp lại.

Các thầy hiểu, cái pháp Ngũ Uẩn nó xác định cho cái thân Tứ Niệm Xứ này là năm duyên hợp lại, chớ không phải Tứ Niệm này là hợp lại. Cho nên không bao giờ Đức Phật nói rằng bốn cái duyên hợp lại mà Đức Phật nói Thập Nhị Nhân Duyên, mà Đức Phật nói Ngũ Uẩn chớ không bao giờ nói có Tứ Uẩn bao giờ!

Đó thì các rhầy phải hiểu được như vậy mới thấy rằng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái nơi để mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta thực hiện làm cho nó sạch sẽ bốn cái chỗ đó nó thanh tịnh, thì tức là chúng ta giải thoát.

2- MỤC ĐÍCH CỦA ĐẠO PHẬT LÀ LÀM CHỦ SANH GIÀ BỆNH CHẾT

(09:07) Bây giờ đến một cái câu hỏi nữa, là Chánh Đức hỏi Thầy:

Hạ năm nay Thầy dạy riêng Pháp Hành”- tức là Giới hành đó, “Thầy thường nhấn mạnh và chỉ dạy cụ thể từng pháp môn, nhằm giúp chúng con tu tập đúng Chánh Pháp một cách vững vàng không thể lạc sang tà pháp ngoại đạo, Thầy thường khuyến khích chúng con học phải hỏi, nên con cũng xin có một câu hỏi đơn sơ mà ai cũng biết, đó là Thầy đặt tên Tu viện.

Tới nay Thầy luôn khẳng định, nhấn mạnh, thường nhắc đi nhắc lại quá nhiều, nhưng ít ai để ý tới. Chủ đích của đạo Phật là gì? Xin Thầy chỉ dạy chúng con rõ.

Từ hơn hai ngàn năm nay đạo Phật có quá nhiều người tu mà rất ít người chứng đạt. Mười tám năm Thầy đã mở cửa Tu viện đón chúng bốn phương mà cũng chưa mấy ai thành đạt, chắc chắn chỉ vì lỗi không để ý đến chủ đích ấy.

Con cúi xin Thầy từ bi nhấn mạnh, khẳng định thêm nữa để đám đệ tử si ám của chúng con chuyên chú nhớ mãi thì mới có hi vọng có thêm người thực hiện được lời dạy của Thầy.”

Ở đây thì cái câu hỏi thì rất đơn sơ, hỏi Thầy cái chủ đích của Đạo Phật như thế nào, mà hầu như là người ta không có nhắm vào cái chủ đích của nó.

Thật sự ra họ cũng, đạo Phật thì cũng có nhắc nhở những điều đó thật sự chớ không phải không, nhưng mà vì người ta cũng bị lạc lầm vào những cái giáo pháp, người ta làm mờ cái trí của họ đi.

Cho nên họ cũng thấy rằng cái thiền định nó cũng không phải là lo lắng gì đến cái chỗ mục đích sanh tử luân hồi, mà chỉ làm sao mà giữ cái tâm của mình, để cái Phật Tánh nó hiện tiền, thì cái mục đích sanh tử luân hồi nó chẳng có quan trọng.

Bởi vì ở trong cái thân của mình, mà nó có một cái tâm ma thường hằng, hằng biết, hằng sáng, thì mình có tham dục, mình có ham ăn, ham uống thì cái đó nó vẫn còn, nó đâu có mất, mình vẫn ăn uống phi thời phá giới thì cái đó nó đâu có mất!

(11:24) Mà khi mà mình đã nhận ra được nó rồi, thì cái ham ăn, ham uống nó sẽ hết, và cái tâm sân hận phiền não cũng hết, do đó thì họ mường tượng được cái Phật Tánh. Khi có thì tất cả, Phật thì đâu có còn, giác ngộ mà, đâu có còn cái gì mà làm cho ông ta ham muốn được.

Nhưng mà sự thật đó là cái nghĩ nó không đúng cái đối tượng, cái mục đích của đạo Phật, cho nên do đó đưa đến con đường tu tập mà từ lâu tới bây giờ, bao nhiêu thế kỷ trải qua, mà người ta không thực hiện được sự giải thoát.

Cho đến hôm nay, mười mấy năm trời, vì cái ảnh hưởng đó mà hầu hết là các tu sĩ cũng chỉ mường tượng đến cái chỗ thiền định ức chế tâm để đi vào thiền định, để rồi cũng có nghĩ rằng tâm mình sẽ hết tham, sân, si, cái nghĩ của họ.

Bởi vì họ cũng đi qua, tuy rằng nó không phải là đang tu trên những cái pháp hành của đạo Phật thật sự, nhưng mà họ cũng nghĩ mường tượng rằng mình cũng sẽ được sự giải thoát đó.

Nhưng mà cái chủ đích thật sự của đạo Phật, thì như chúng ta cũng biết rằng, Đức Phật khi chứng đạo thì Ngài đã nói lên được bốn câu kệ, nhưng mà người ta huyền thoại Ngài, khi mới sanh ra Ngài nói lên bốn câu kệ.

Nhưng sự thật ra, khi một đứa bé sanh ra mà nói lên bốn câu kệ, thì nó chưa có thật giải thoát. Mà khi mà, trong kinh Nguyên Thủy xác định rằng Đức Phật mà tu chưa chứng, chỉ còn là Bồ Tát thì làm sao biết được mình làm chủ sanh tử mà dám nói lên lời nói đó.

Cho nên ở đây chúng ta thấy bốn câu kệ rất rõ ràng là:

“Thiên thượng thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhất thiết thế gian

Sanh, lão, bệnh, tử”

(13:20) Thì Đức Phật đã xác định như vậy, thì cái bài kệ này phải xác định là sau khi chứng đạo, khi mà chứng đạo rồi thì Ngài mới nói câu kệ này, chớ còn nếu mà chưa chứng đạo, thì mình nói như vậy hóa ra mình nói láo sao?

Mà trong khi mới sanh ra, thì Thầy nghĩ dù là người ta huyền thoại Đức Phật là Thánh đi nữa, khi sanh ra thì đi bảy bước có hoa sen, tay chỉ trời, chỉ đất mà nói lên câu nói đó, thì thật ra ông Phật này đã thành Phật lâu rồi, chớ không phải là mới thành Phật ở trong kiếp này.

Nhưng mà Đức Phật đã xác định trước đó thì chưa có ông Phật nào. Nhưng những kinh khác thì nói rằng trước Đức Phật có những Đức Phật, nhưng mà có những đức Phật sao tôn giáo Phật giáo không ra đời?

Nếu có những người tu mà đã thấy được cái pháp tuyệt diệu, tuyệt vời như thế này, thì ngay (khi) ông mà đã tu rồi, thì ông đó có ích kỷ, nhỏ mọn đến cái mức độ mà ông chỉ tu rồi ông lại, bởi vì cái tâm một người mà tu giải thoát họ phải mang theo cái một cái tánh chất từ bi của họ, thì không có lý nào mà các Phật quá khứ vô tâm đến cái mức độ mà không nghĩ đến những con người trong cái thời điểm của Đức Phật đó, đang khổ đau quằn quại trên bốn sự đau khổ, tức là sanh, lão, bệnh, tử?

Cho nên nếu mà đã có một cái vị Độc Giác thôi, Thầy nói nghĩa là người đó tự tu mà tự chứng được dù là Thập Nhị Nhân Duyên thì người này cũng đã xác định cho thế gian này biết rằng không có thế giới siêu hình.

Nếu mà người như bậc Duyên Giác, họ tu họ cũng phải thấy được điều đó, thì ít ra họ cũng phải xác định được pháp Thập Nhị Nhân Duyên chứ. Đằng này phải chờ cho Đức Phật, Đức Phật mới xác định Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, còn trước đó thì chưa có.

(15:10) Như vậy là Đức Phật chỉ là một cái người khiêm tốn, nói trước ta quá khứ thì có những Phật, bảy Đức Phật, nhưng sự thật theo Thầy nói, nếu mà có bảy Đức Phật thì có đạo Phật ra trước khi Đức Phật Thích Ca.

Nhưng đằng này, chúng ta biết rõ ràng là chỉ có Đức Phật Thích Ca là một Đấng Giáo Chủ, người sáng lập ra đạo Phật, thì như vậy rõ ràng là cái đích của đạo Phật đã nhắm vào cái gì?

Những cái câu chuyện đơn sơ mà thực tế cụ thể thì chúng ta nhắm vào đó, còn những cái huyền thoại thì sai chúng ta nên bỏ.

Thì Đức Phật đi ra bốn cửa thành thấy bốn cái khổ, và giải quyết bốn cái khổ đó là sanh, lão, bệnh, tử. Cho nên sau khi mà chứng đạo được, tức là tu thành đạo được rồi thì Đức Phật như thế nào? Đức Phật nói lên câu nói:

“Thiên thượng thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhất thiết thế gian

Sanh, lão, bệnh, tử”

Trên trời, dưới trời chỉ duy nhất Ta là người vượt qua sanh, lão, bệnh, tử.

Đó không phải là Đức Phật đã xác định rằng ở trên trời, dưới trời, là tất cả khắp không gian vũ trụ này, chỉ có mình Ta là người đã vượt qua điều đó thôi, thì tức là đã xác định được cái mục đích của đạo Phật là phải làm chủ bốn cái khổ này. Mà trong lịch sử của Đức Phật đi ra bốn cửa thành thấy bốn cái khổ này rất rõ ràng.

Vì vậy bây giờ chúng ta là đệ tử của Người, thì chúng ta cũng phải nhắm cái mục đích làm sao thoát ra bốn cái khổ này, mà bốn cái khổ này nó ở chỗ nào?

(16:40) Thầy xin nhấn mạnh bốn chỗ này nó ở chỗ nào, có phải ở bốn cái chỗ trụ xứ của chúng ta không? Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta không?

Nếu thân này không chết thì chúng ta tu nó làm gì! Bởi vì thân của chúng ta đang tu, lấy nó mà tu đây, là tại vì nó đang bị chết nè, nó đang bị khổ ở trong cuộc sống gọi là sanh nè, nó đang bị già, mà già là khổ.

Cho nên vì vậy mà Đức Phật, cái mục đích của đạo Phật, cái pháp môn của đạo Phật, là nhắm vào ngay chỗ đó để mà tu tập, để cho thoát ra khỏi đau khổ. Vì vậy bây giờ chúng ta cũng ngay ở trên thân, thọ, tâm, pháp này mà tu tập để chúng ta thoát ra đau khổ.

Cho nên cái lời Đức Phật đã nói, cái kệ Đức Phật đã nói lên cái ý nghĩa của đạo Phật, cái mục đích của đạo Phật, mà hôm nay Chánh Đức hỏi Thầy thì nó quá rõ ràng, không còn gì nữa.

Nhưng mà tại sao chúng ta không nhắm vào cái chỗ mà chúng ta tu. Cho nên Tứ Niệm Xứ đặt chúng ta rất trọn, bốn chỗ để chúng ta thực hiện được cái chỗ làm chủ sanh, lão, bệnh, tử.

Thế mà chúng ta hiểu như vậy rồi, bây giờ chúng ta mới biết ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp này gọi là Tứ Niệm Xứ. Nếu mà một danh từ nói là Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta nói thân, thọ, tâm, pháp là Tứ Niệm Xứ. Phải không?

Cho nên nếu mà bây giờ chúng ta đang tu ở trên cái Tứ Niệm Xứ, bây giờ tu ở trên thân quán thân nè, mà về cái nhân tướng của nó thì chúng ta biết rằng đó là tu Định Vô Lậu. Mà nếu mà tu về hành tướng ngoại thì chúng ta biết rằng Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, vì có cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó nó mới khắc phục được cái tham ưu, nó mới đoạn dứt các ác pháp.

Rồi bây giờ chúng ta biết, trên thân quán thân tu về hành tướng nội nè, thì chúng ta biết nó là Định Niệm Hơi Thở. Thay vì đó là một cái tên, thí dụ như “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”, đó là một cái tên để chỉ cho chúng ta biết rằng đó là cái Định (Niệm) Hơi Thở.

Mà như vậy chúng ta ở trên đó mà chúng ta tu tập thì để làm gì? Để làm cho cái thân của chúng ta nó không có còn bị bốn cái trường hợp đau khổ nữa, sanh, lão, bệnh, tử, phải không?

Cho nên ở ngay đó mà chúng ta tu tập để làm chủ, mà làm chủ rồi thì chúng ta đã xong, đâu có gì đâu. Đó, tức là giải thoát được, nó không còn khổ nữa.

(18:40) Hồi sáng này Thầy dự định Thầy sẽ trả lời cái câu hỏi của cô Diệu Quang. Có một số câu hỏi, nhưng mà Thầy ngồi trên xe, cái xe run quá Thầy không có viết được. Cho nên ở đây có một số câu hỏi cũng rất là thực tế và cụ thể cho cái bước đường tu tập của các con, nhưng mà trả lời, thay vì buổi sáng nay Thầy không có công việc thì chắc chắn Thầy sẽ trả lời hết cái này.

3- NƯƠNG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ NHẬP CÁC ĐỊNH VÔ SẮC

(19:01)“Kính bạch Thầy, phá âm thanh như thế nào? Ở trạng thái nào mới phá được âm thanh, nhập được định gì mới phá được âm thanh?

Kính bạch Thầy, nhập định nào âm thanh vắng lặng? Phá âm thanh bằng cách nào? Muốn nhập bốn loại Định Vô Sắc tu tập như thế nào?”

Nghĩa là cái Định Vô Sắc là từ Không Vô Biên Xứ đến Thức Vô Biên Xứ đó.

“Ở trạng thái nào mà tịnh chỉ được các hành?”

Nghĩa là ở cái trạng thái nào mà chúng ta mới ra lệnh mà tịnh chỉ được cái hành?

“Ở trạng thái nhập Tứ thiền có thể nhập Không Vô Biên Xứ được không?

Bất Động Tâm là định gì?

Định Bất Động Thân là định gì?

Định Diệt Thọ Tưởng Định, cách thức tu tập như thế nào?

Thưa Thầy có phải nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ, cho đến Thức Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ?

Ở trong trạng thái nào mới nhập được Tứ Thiền?

Các loại thiền định của đạo Phật, thiền định nào quan trọng nhất?”

Đó là những cái câu hỏi mà Thầy thấy, hỏi như vậy quá thực tế và cụ thể để cho chúng ta biết được các loại thiền định để mà tập luyện.

Nhưng Thầy thấy rằng giờ phút chúng ta cũng không có nhiều, và Thầy cũng chưa trả lời ghi ra thành văn, cho nên Thầy cũng không trả lời, để rồi Thầy sẽ ghi thành văn rồi Thầy sẽ trả lời sau.

(21:00) Đó là những cái câu hỏi mà các con và các thầy hỏi Thầy rất nhiều. Chánh Đức hỏi Thầy thì Thầy trả lời xong cái câu hỏi của Chánh Đức, nhưng sáng nay công việc Thầy cũng ghi chưa hết. Nhưng rồi Thầy cũng sẽ ghi lại những cái này cho nó kỹ lưỡng, để rồi chúng ta sẽ có cái tài liệu, sau này nó sẽ không bị mất.

Và cô Diệu Hảo hỏi Thầy, thì ngày mốt Thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hảo những cái câu hỏi trên cái sự tu tập của cô, gặp những cái khó như là gặp những cái âm thanh đó, thì cũng chung ở những cái câu hỏi của cô Út.

Cho nên để đây Thầy sẽ trả lời sau, còn bây giờ thì chúng ta tiếp tục chúng ta học, vì thời gian chúng ta cũng không có nhiều. Mà cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta mới học hết về, nhờ cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta nhập được Tứ Thiền, còn bây giờ chúng ta cũng nương vào cái Định Niệm Hơi Thở để mà chúng ta bắt đầu nhập bốn Thiền Vô Sắc.

Vậy thì chúng ta sẽ nghe lời Đức Phật dạy đây:

Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng hư không là vô biên, chứng đạt và an trú Không Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải kéo tác ý”.

Đó là cái lời Đức Phật dạy, như vậy thì chúng ta thấy qua những cái danh từ mà dạy trong này, đây là cái câu mà Đức Phật dạy này, ở đây Đức Phật nói: “nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng” nghĩa là cái tâm mình muốn rằng mình sẽ nhập vào cái định Không Vô Biên Xứ đó, cái lòng mình muốn mình muốn nhập chớ? Còn mình không muốn thì mình làm sao mà nhập!

Vậy thì vượt qua, tức là mình phải vượt qua sắc tưởng, “vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn chấm dứt đối ngại tưởng.” Nghĩa là phải vượt qua cái sắc tưởng, rồi chấm dứt cái đối ngại tưởng.

“Không tác ý cái tưởng sai biệt, nghĩ rằng hư không là vô biên,” thì bắt đầu bây giờ mới “chứng đạt và trú vào Không Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải khéo tác ý”.

Thì bắt đầu bây giờ, rõ ràng là Đức Phật cũng nhắc chúng ta là phải dùng cái Định Niệm Hơi Thở để mà tu tập cái Không Vô Biên Xứ này.

4- VÀO ĐỊNH TƯỞNG NHỜ ỨC CHẾ Ý THỨC

(23:31) Vậy thì muốn nhập được cái định Không Vô Biên Xứ này, thì chúng ta thấy nó có hai cái lối đi, có hai cái lối tu tập.

Một cái lối thứ nhất, như Đức Phật đã xác định ở trong bài kinh trong bộ Tương Ưng, trong cái bộ Trung Bộ, Thầy nhớ là tập một thì phải. Thì Đức Phật đã có xác định, mà Thầy đã có ghi ra cho các con ở trong cái phần vấn đạo rồi, thì cái tâm, cái ý mà thanh tịnh, mà nó không có liên hệ với cái Ngũ Căn nữa đó, thì lúc bấy giờ nó sẽ nhập vào cái định Không Vô Biên Xứ Định.

Thì đó là một cái ngả, cái ngả rõ ràng là cái chỗ mà Thiền Tông nó đi vào, thì chúng ta thấy “chẳng niệm thiện niệm ác”. Nó bây giờ cái chẳng niệm thiện niệm ác thì bây giờ nó đang ở trong cái ý thức không niệm thiện niệm ác, chớ đâu phải là cái tâm thức của nó đâu, mà nó ở trong cái tưởng “không”.

(24:29) Bởi vì cái ý thức bây giờ nó đang biết nè, biết mà không niệm thiện niệm ác, nó đang biết rõ ràng, không có niệm thiện niệm ác. Mà cái trạng thái không niệm thiện niệm ác đó là trạng thái, cái trạng thái mà hồi nãy Thầy nói đó, không lạc mà không khổ.

Nó đâu có khổ lạc, bởi vì nó đâu có thiện, mà nó cũng đâu có ác. Thiện là vui mà ác là khổ, mà giờ nó không thiện không ác, thì nó đâu có vui đâu, có buồn đâu, có khổ đâu? Cho nên cái trạng thái của “chẳng niệm thiện niệm ác” thì nó không có khổ, không vui có buồn gì hết. Có phải không? Mà cái trạng thái đó gọi là ý thức thanh tịnh.

Bây giờ cái này chúng ta đang biết ở ý thức, chớ đâu phải chúng ta đang biết ở trong giấc mộng chúng ta sao mà gọi là tưởng? Cho nên cái biết này đang hiện ở ý thức chớ làm gì, chúng ta đang rõ ràng là còn cái niệm thiện niệm ác đây, mà bây giờ nó không niệm thiện niệm ác, thì tức là nó đang ở ý thức chớ làm sao mà nó có ngưng được cái chỗ nào đâu mà gọi nó là tâm thức của chúng ta được, đó chúng ta thấy rõ không?

Như vậy là khi mà chúng ta ở cái chỗ mà chẳng có niệm thiện niệm ác này, thì cái trạng thái nó không khổ không lạc rồi. Do đó thì Đức Phật xác định nó không liên hệ với ngũ căn, ngũ căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nó không có liên hệ.

Như vậy nó không liên hệ với mắt thì nó thấy sắc nó có phân biệt không? Nó đâu có phân biệt, bởi vì bây giờ nó không có liên hệ với con mắt, cái ý thanh tịnh đó nó không có liên hệ với con mắt. Bây giờ nó thấy cái đồng hồ này, nó đâu có cần phân biệt nó màu trắng hay màu xanh, màu đỏ, phải không?

Cho nên bây giờ nó không, nó không liên hệ với cái lỗ tai, cái nhĩ căn là cái lỗ tai nè, mà nó không có liên hệ với lỗ tai, thì nó nghe con chó sủa, con chim gáy, nó có phân biệt là tiếng chó sủa (hay) chim gáy không?

Cho nên trong Thiền Tông gọi là vô phân biệt, nhưng có nghe âm thanh chớ không phải không nghe, nhưng mà không phân biệt nữa. Đó là trong cái bài kinh Đức Phật nói nó không liên hệ với ngũ căn thì nó sẽ rơi vào, nó sẽ nhập vào cái trạng thái Không Vô Biên Xứ.(26:31) Đó là một cái ngả mà Thiền Tông nó sẽ bị rơi vào những cái trạng thái tưởng.

Như vậy là đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ thiền rồi mới nhập tới Không Vô Biên Xứ rồi Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ rồi mới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đâu? Sai! Họ không hiểu đâu. Cái chỗ mà chúng ta nhập, từ cái chỗ ý thức thanh tịnh mà đi vào.

Cho nên ở đây chúng ta sẽ thấy rõ ràng là khi một cái người mà đi cái ngõ này, thì họ sẽ đi vào cái chỗ ức chế cái tâm của chúng ta là không niệm thiện niệm ác, nó đưa chúng ta đi vào các loại định tưởng. Như vậy là Thiền Đông Độ sẽ đưa con người tu vào các loại định tưởng, từ Không Vô Biên Xứ cho đến Vô Sở Hữu Xứ tưởng, chưa phải là nó nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Nếu một vị thiền sư nào nhập được Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi từ đó nương vào cái hơi thở, hay hoặc là giữ cái trạng thái đó có thể kéo dài để nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Cho nên có nhiều vị thiền sư bỏ nhục thân là do cái Diệt Tưởng Định chớ không phải, nhập Diệt Thọ Tưởng Định chớ không phải họ đi qua cái ngả Tứ Thiền, vì vậy mà họ không làm chủ sự sống chết của họ.

Bởi vì những cái định tưởng này không có cái định nào mà làm chủ được sanh tử, làm chủ được cái thân của họ hết. Nó là Định Vô Sắc, tức là định thuộc về tâm chớ không phải định thuộc về thân.

Mà nó có đi ngang qua cái thân nó tu đâu, nó đâu có đi ngang qua cái ý thức. Ngay từ vô nó bắt đầu nó ngưng cái ý thức nó, tức là nó ngưng thiện ngưng ác, mà nó giữ cái ý thanh tịnh của nó thôi, rồi từ đó nó đi vào trong cái Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ.

Thì chúng ta thấy rất rõ là con đường đi của Đông Độ. Vì vậy mà mà mỗi vị thiền sư Đông Độ đều rớt vào các loại định tưởng này mà họ không biết, họ đã nhập vào những cái loại định tưởng này.

5- VÀO ĐỊNH TƯỞNG NHỜ NHẬP NHỊ THIỀN

(28:16) Đó, còn riêng có một nẻo nữa. Không phải chúng ta phải nhập tới Tứ Thiền mà chúng ta đi vào cái Không Vô Biên Xứ mà chúng ta, ở đây chúng ta sẽ nhập vào cái định Nhị Thiền thì chúng ta sẽ đi vào Không Vô Biên Xứ.

Nhị Thiền là diệt Tầm Tứ, diệt Tầm Tứ thì coi như là vọng tưởng không có, tác ý không có rồi. Thì cũng từ cái chỗ đó, nhưng mà diệt Tầm Tứ thì trái lại nó đã ly dục, ly ác pháp của Sơ Thiền rồi, cho nên nó mới tịnh chỉ Tầm Tứ, là do cái tâm mà ly dục ly ác pháp nó tịnh chỉ Tầm Tứ chớ không phải ức chế Tầm Tứ.

Còn thiền Đông Độ nó do ức chế Tầm Tứ mà đi vào cái Hư Không Vô Biên Xứ. Còn ở đây chúng ta từ chỗ Nhị Thiền chúng ta sẽ nhập vào cái Không Vô Biên Xứ rất dễ.

Bởi vì lúc bây giờ ý thức của chúng ta nó không có Tầm Tứ, nó còn đang ở trong cái ý thức thanh tịnh, một trạng thái do định sanh hỷ lạc, tức là cái trạng thái của hết Tầm Tứ rồi.

Do đó bây giờ chúng ta đi vào trong cái trạng thái của Hư Không Vô Biên Xứ, thì nó tương đương với bên kia là ý thức chẳng niệm thiện niệm ác, ý thức thanh tịnh, cho nên nó đi vào trong cái trạng thái của định tưởng.

Còn vì vậy mà cái người tu, mà nhập vào cái Sơ Thiền này, như các vị thiền sư Nam Tông như thiền sư Ajahn Chah cũng vậy. Thì ông, lẽ ra ông phải nhập Tam Thiền, đằng này ông mới nhập Nhị Thiền thôi, mới diệt Tầm Tứ, do đó ông không biết cách tu Tam Thiền, Tứ Thiền cho nên bắt đầu ông lạc vào cái chỗ này.

Ông lạc vào chỗ này, thì ông rơi vào Không Vô Biên Xứ. Ông rơi vào Không Vô Biên Xứ, thì thay vì ông vượt qua Không Vô Biên Xứ ông nhập Thức Vô Biên Xứ, thì ông sẽ thấy cái tâm ổng phủ trùm vạn hữu như thiền sư.

Đằng này thì ông chưa có thấy cái tâm phủ trùm như vạn hữu thiền sư, thì ở cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì ông lại rơi vào cái pháp tưởng. (30:09) Từng đó ông thấy những cái điều này là ông đã chứng đạo, từ đó ông đưa ra ông quán Tứ Niệm Xứ. Ông trở thành quán Tứ Niệm Xứ thì ông đã mất rồi, ông đâu có vô định được nữa.

Cho nên từ đó thì nó có những trạng thái, là sau này thiền sư Miến Điện mới đẻ ra một cái pháp môn gọi là thiền Minh Sát Tuệ. Do cái định Diệt Tầm Tứ này, từ cái Nhị Thiền này nó hết vọng tưởng rồi, thì bắt đầu ông mới quán sát trở ra thì đó gọi là Minh Sát.

Minh Sát tức là ông dùng cái pháp quán của Tứ Niệm Xứ để mà khắc phục tham ưu của mình, ông tưởng như đó là giải thoát. Nhưng bây giờ các ông này hoàn toàn là không có làm chủ được, không tịnh chỉ hơi thở, không làm chủ được cái sự sống chết. Coi như Tam Thiền thì ông không có qua được, không nhập được, Tứ Thiền không có nhập được.

Mà từ cái Nhị Thiền đó thì ông đi qua các cái loại định tưởng rồi. Thì bây giờ Nam Tông nó cũng rơi vào các cái trạng thái của định tưởng, mà Thiền Tông thì cũng rơi vào các trạng thái định tưởng.

Cho nên hầu hết là các ông đều bị rớt vào ở trong cái pháp tưởng này rồi, thì Thiền Tông với Nam Tông bây giờ dường như là những cái ý của họ, các con đọc cái cuốn “Mặt Hồ Tĩnh Lặng” của Thiền sư Ajahn Chah các con sẽ thấy rõ ràng là, cái ảnh hưởng từ cái tu tập đó nó làm cho cái tư tưởng của ổng rất giống thiền sư Đông Độ, cho nên những cái công án, những cái lời nói của thiền sư Đông Độ thì ông vẫn thấy chấp nhận hẳn hòi.

Bởi vì đó là ông lạc vào pháp tưởng rồi. Mà trong khi nhập Tam Thiền là phải xả cái tưởng đó ra, thì ông lại không xả cái pháp tưởng, cho nên do đó ông dính mắc đó rồi.

Bây giờ tới khi mà chết thì kể như thiền sư Ajahn Chah mà Thầy được biết, là ông chết rất khổ sở và rất là đau đớn, sự hoành hành của cơ thể ông rất là lớn.

Đó, cho nên từ cái chỗ đó chúng ta biết Nam Tông vẫn là tu tập sai rồi, không có còn đúng con đường của đạo Phật nữa.

Bây giờ nói về Không Vô Biên Xứ, thì chúng ta bắt đầu từ Nhị Thiền thì chúng ta nhập Không Vô Biên Xứ, rồi Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ, rồi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, chứ không phải Tam Thiền, Tứ Thiền, mà nhập được cái loại tưởng rồi.

Bởi vì tới Tam Thiền là khác rồi, Tam Thiền nó đã diệt hết cái tưởng rồi. Nghĩa là cái dục tưởng nó không còn có nữa, nó ly rồi, diệt thì nó không có đúng, nó mới ly, gọi là ly hỷ. Ly hỷ tức là ly cái dục, ly cái dục của cái tưởng chớ không phải là diệt nó.

Diệt nó là Diệt Thọ Tưởng Định mới diệt thọ, diệt cái tưởng đó được. (32:23) Còn cái định của Tam Thiền nó mới ly được cái tưởng mà thôi, nó mới lìa ra cái tưởng. Cho nên gọi là “ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền” đó, cái danh từ của Phật gọi Tam Thiền là như vậy.

Cho nên ở đây chúng ta thấy, khi mà có hai cái ngả, một cái ngả đi vào từ cái chỗ ức chế tâm, một cái ngả do xả tâm ly dục ly ác pháp, để khi mà nhập Nhị Thiền, do tịnh chỉ Tầm Tứ để mà đi qua cái lộ trình của bốn cái loại Thiền Vô Sắc này, từ Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Thì từ cái ngả Nhị Thiền, nó sẽ bị rớt vào ở trong các cái loại tưởng này.

Bởi vì lúc bây giờ tưởng thức chúng ta chưa đóng, chưa có khép, mà ý thức chúng ta mới khép mà thôi, cho nên chúng ta sẽ rơi vào những cái loại này.

Đó là chúng ta thấy cái con đường tu tập như vậy, thì muốn tu tập từ cái Nhị Thiền này mà muốn nhập vào cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì chúng ta cũng phải nương vào cái hơi thở mà tác ý ra.

Nghĩa là chúng ta phải ra khỏi cái Nhị Thiền chớ không phải ở trong cái trạng thái Nhị Thiền để rồi từ đó nó rớt trong đó, cho nên vì vậy nó không có cái đường đi.

Cho nên có nhiều thiền sư tu thiền mà không nhập được Diệt Thọ Tưởng Định, mà chỉ có một phần ít nào đó thôi, nó đi đúng được cho nên nó nhập các cái loại định tưởng này, cho đến khi Diệt Thọ Tưởng Định.

Cho nên chúng ta thấy hầu hết là các thiền sư Đông Độ người nào mà nhập đến Diệt Thọ Tưởng Định đều là để lại nhục thân. Việt Nam chúng ta cũng có người để lại nhục thân, nhưng nó không phải là con đường của đạo Phật, vì nó không phải là cái cứu cánh nhằm vào cái mục đích sanh, lão, bệnh, tử của chúng ta giải quyết.

6- ĐỊNH VÔ SẮC LÀ BÓNG DÁNG CỦA TƯỞNG THỨC

(34:01) Cho nên Chánh Đức hỏi Thầy cái mục đích của đạo Phật, cái chủ đích của đạo Phật là như thế nào, nhắm vào chỗ nào để mà giải quyết.

Còn cái này nhắm vào ở chỗ nào mà giải quyết đây? Nó đi vào một cái định, cái định người ta cứ nghĩ tưởng rằng bốn cái loại Định Vô Sắc này là nó cao hơn cái loại Định Hữu Sắc.

Thật sự chúng ta đang ở trong cái Hữu Sắc, làm chủ cái Hữu Sắc, chớ không phải đi tìm một cái bóng dáng của một cái tưởng tượng, thì nhất định là chúng ta không làm sao mà làm chủ được cái sắc thân của chúng ta được.

Cho nên cái định nào mà cái định làm chủ được sắc thân, thì chúng ta sẽ thấy rõ là chúng ta đã học rồi: nhập Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, thì ngay đó là chúng ta muốn sống, muốn chết do cái thân này chúng ta điều khiển, nó chết sống như thế nào, dễ dàng quá.

Vì bây giờ chúng ta muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta, thì cái hơi thở mà còn thở thì làm sao mà chết được? Mà hơi thở chấm dứt mà chúng ta ra lệnh nó chấm dứt được, thì chúng ta bỏ thân này quá dễ rồi. Mà bây giờ chúng ta phục hồi được cái sự sống này, thì chúng ta làm chủ được cái cuộc sống của chúng ta rồi, tức là chúng ta đã nắm được cái quyền làm chủ sống chết của chúng ta.

Mà nếu mà nắm được cái quyền làm chủ sống chết của chúng ta thì chúng ta phải làm chủ được nhân quả, cho nên do đó chúng ta phải chấm dứt sanh tử luân hồi.

Nhưng nhập Tứ Thiền chưa đủ, vì vậy mà chúng ta còn phải tới Tam Minh để đoạn dứt cái nguyên nhân mà nó tiếp tục tái sanh luân hồi, đó là cái gốc lậu hoặc.

Còn ở đây thì chúng ta thấy rằng bốn cái thiền mà chúng ta học rồi, rõ ràng là bốn cái thiền đó đưa chúng ta đi đến chỗ làm chủ.

Như bây giờ làm chủ cái tâm, thì cái thiền định đầu tiên là Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp. Rõ ràng là cuộc sống mà chúng ta ly dục ly ác pháp được, ai chửi chúng ta (không) giận, tham, sân, si chúng ta hết rồi, nó ly ra rồi, đâu còn ác pháp trong đó nữa, cho nên vì vậy mà chúng ta sống tỉnh bơ, ai làm gì làm chúng ta không ham muốn.

Bây giờ ai đem vàng bạc chồng đống chúng ta cũng không ham, bởi vì tâm ly dục rồi, nó đâu còn ham vật chất nữa đâu. Cái gì nó cũng không ham nữa hết, nó xả bỏ, nó mong có tới ngày để mà nó bỏ cái thân này nữa chớ nó còn không ham thích sống trong cuộc đời này nữa. Vì mang cái thân này là thân nghiệp, thân nhân quả, thân đau khổ chớ đâu phải thân hạnh phúc đâu!

Cho nên do vì vậy mà chúng ta thấy, nội cái Sơ Thiền là chúng ta đã giải quyết được cái tâm. Còn Nhị Thiền và Tam Thiền, Tứ Thiền, cho đến ba cái thiền này là mục đích nhắm vào để làm chủ cái thân của chúng ta.

(36:12) Còn bốn cái loại Định Vô Sắc này, nó có làm chủ cái gì? Nó chỉ là một cái hình dáng của một cái tưởng thức của chúng ta mà thôi, cái bóng dáng của nó mà thôi, cho nên nó thực hiện cho chúng ta thấy được cái trạng thái an lạc của cái trạng thái của nó mà thôi.

Cho nên một cái người mà hết Tầm Tứ rồi, thì ngay đó nó có định sanh hỷ lạc. Định sanh hỷ lạc đó là nó ở trong ý thức thanh tịnh chớ đâu phải, mà ý thức thanh tịnh, thì trong khi mà ở trong ý thức thanh tịnh đó, mà chúng ta dùng cái tưởng, tưởng là Không Vô Biên Xứ thì tức là dùng cái tưởng, thì tưởng bắt đầu hoạt động.

Bởi vì cái ý thức thanh tịnh thì nó sẽ dễ dàng mà cái tưởng thức nó sẽ hoạt động. Và khi mà cái ý thức thanh tịnh đó nó ngưng đi thì cái tưởng thức nó sẽ hoạt động vào, vì vậy mà nó cảm giác thấy như là hư không là vô biên.

7- CÓ TÂM THANH TỊNH LÀ NHẬP CÁC ĐỊNH DỄ DÀNG

(37:07) Bây giờ tiếp tục chúng ta tu cái định kế nữa cũng là một cái định tưởng, đó là cái định Thức Vô Biên Xứ:

Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, vượt qua Không Vô Biên Xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng thức là vô biên, tôi có thể chứng đạt và an trú Thức Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”

Thật sự ra cái chỗ này, thì các Thầy nếu mà chưa có biết cái pháp hành, thì chắc chắn là các thầy sẽ không có vào được cái Thức Vô Biên Xứ đâu.

Cũng như bây giờ chúng ta diệt Tầm Tứ rồi, rồi bây giờ chúng ta nhập Nhị Thiền rồi, bây giờ chúng ta muốn nhập Không Vô Biên Xứ, mà chúng ta muốn mình vượt qua cái trạng thái của cái tâm của mình đang ở Nhị Thiền này để cho mình nhập cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì bằng cách nào đây?

Cho nên bây giờ mình phải ra hơi thở, cho nên ở đây Phật nói “thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý” phải nương vào cái hơi thở mà khéo tác ý. Khéo tác ý cái gì đây?

Cái ước muốn của mình, ước muốn cái gì đây? Mình ước muốn vượt qua cái định của Nhị Thiền để nhập vào cái Hư Không Vô Biên Xứ này, cho nên ước muốn của mình phải muốn nhập vào cái Không Vô Biên Xứ.

(38:17) Cho nên mình mong rằng, mình ước rằng, thì cái đó là cái câu pháp hướng để mình đặt ra. Bây giờ hít vô nè, tôi nương vào hơi thở nè: “hít vô tôi muốn tâm tôi nhập vào Không Vô Biên Xứ, tâm tôi như là hư không!”

Đó mình ra cái lệnh như vậy, mình nói như vậy, mình hướng như vậy, tức là mình nương vào hơi thở.

Thở ra tôi biết tâm tôi phải như hư không”, phải không? Thì mình hít vô mình cũng nói vậy, thở ra mình nói vậy tức là nương vào cái hơi thở, nương vào cái định niệm, “thời định niệm khéo tác ý”, mình khéo tác ý, mình hướng tâm mình nhắc.

Thì như vây một lúc sau thì cái định Nhị Thiền này nó sẽ mất đi. Bởi vì mình trú ở trong cái đó, mình trú ở trong cái chỗ hướng tâm này, cái hơi thở này thì nó sẽ xả đi cái định Nhị Thiền, cái trạng thái của Nhị Thiền.

Do đó khi đó cái tưởng của mình nó sẽ thực hiện đúng như cái pháp hướng của mình ra lệnh, cho nên tâm mình bây giờ nó trở thành Hư Không Vô Biên Xứ.

Rồi Thức Vô Biên Xứ, cũng vậy, bây giờ mình muốn nhập cái Thức Vô Biên Xứ này thì mình phải vượt qua cái Không Vô Biên Xứ, do đó khi mình được ở trong cái Không Vô Biên Xứ rồi thì bắt đầu mình mới ước muốn, mình hoàn toàn mình phải nhằm vô cái Thức Vô Biên Xứ.

Bởi vì cái Không Vô Biên Xứ này hoàn toàn nó không ngơ rồi, vậy thì bây giờ cái thức mình ở đâu? Do đó mình ước muốn rằng, bây giờ mình mới hướng tâm mình nhắc: “Thức Vô Biên Xứ phải hiện tiền ra rõ!” Phải không? Thì: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”

“Thức Vô Biên Xứ phải hiện tiền cho rõ, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Mình nương vào hơi thở để cho mình tỉnh thức, mình nhắc cái câu pháp hướng của mình, làm cho cái tâm của mình nó phải trở thành cái vô biên vô cùng, tức là cái thức nó trải cùng vô biên.

Tùy theo cái pháp hướng này mà mình nhắc đi nhắc lại, ở trên cái lúc mà mình ở trong cái trạng thái của Không Vô Biên Xứ, thì mình nhắc cái Thức Vô Biên Xứ này nó sẽ thực hiện cho cái tâm phủ trùm vạn hữu của mình rất dễ dàng, hơn là Thiền Tông ngồi kéo dài để mong cho nó phủ trùm vạn hữu.

(40:20) Chúng ta có đường cách, có lối tu tức là có pháp hướng kèm theo để nhắc tâm mình tỉnh thức và ước muốn ở trong cái điều đó. Do mình ước muốn tức là cái pháp hướng nó thực hiện cái ước muốn của mình, bằng cách mình nhắc đi nhắc lại cái ước muốn đó ở trong một cái câu gọi là pháp hướng.

Bây giờ mình đã nhập vào Thức Vô Biên Xứ rồi thì mình muốn nhập vào cái Không Vô Biên (Vô Sở Hữu) Xứ thì mình cũng nhắc cái tâm của mình, nương vào hơi thở mình nhắc cái tâm của mình, để cho cái tâm của mình nhập Vô Sở Hữu Xứ, thì như vậy là mình dùng cái pháp hướng mà mình đi vào trong cái Vô Sở Hữu Xứ Định.

Thì các con thấy, ngoài cái pháp hướng mình còn cái gì để cho mình biết để mình vô, hay hoặc là mình tưởng, mình ngồi mình nghĩ tưởng?

Mình đâu có ngồi nghĩ tưởng, mà mình nghĩ rằng cái Vô Sở Hữu Xứ này, nó sẽ có một cái cảnh giới vô sở hữu xứ này, cái trạng thái vô sở hữu xứ này, cho nên vì vậy mà cái tâm mình ước muốn để vào đó, thì mình nhắc cái tâm mình phải vào ở chỗ đó, cho nên nó thực hiện bằng cái pháp hướng của mình.

Mà khi mà cái con đường mà chúng ta, từ cái Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp thì chúng ta đã có một cái tâm thanh tịnh, vì vậy mà cái tâm thanh tịnh của chúng ta muốn cái chỗ nào, nó sẽ gần như là nó thực hiện ngay chỗ đó được.

Vì vậy mà con đường mà từ cái chỗ Nhị Thiền này mà đi vào bốn cái thiền định, từ Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ này thì chúng ra sẽ thấy rất dễ dàng. Chúng ta chỉ hướng tâm là cái định nào, cái Định Vô Sắc nào thì nó cũng thực hiện đúng theo cái định nấy, chứ nó không phải như Thiền Tông.

Do Thiền Tông, mà nó chỉ may mắn cho họ là cái vị thiền sư đó tu, nó vào Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ, rồi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, thì đó là cái vị đó may mắn trong cái duyên của đời trước của các ngài, cho nên các ngài đi vào đúng.

Còn không thì cái số nhiều vị thiền sư mà họ chỉ đến cái Thức Vô Biên Xứ, cái bắt đầu họ dính đó rồi họ không đi nữa được, cho nên đến chết họ không để lại nhục thân được. Còn mấy ông mà đi qua được bốn cái Định Vô Sắc này cho đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì họ để lại nhục thân được.

(42:19)Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy Tỳ Kheo ước muốn rằng vượt qua Vô Sở Hữu Xứ bằng một cách hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, thời Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra này cần phải khéo tác ý”.

Đó thì quý thầy thấy rõ ràng mà, luôn luôn lúc nào mà chúng ta cũng muốn được cái ước muốn một cái gì đó, thì hoàn toàn chúng ta phải làm trạch pháp một cái câu pháp hướng, để rồi từ đó chúng ta nương vào hơi thở mà nhắc tâm của mình.

Cho nên từ cái chỗ Nhị Thiền này mà đi vào cái chỗ các cái loại định tưởng, thì cũng nương vào cái hơi thở rồi khéo tác ý.

8- ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ TRỢ DUYÊN CHO CÁC PHÁP THIỀN ĐỊNH

(42:57) Bây giờ từ cái Nhị Thiền này mà đi vào cái chỗ Tam Thiền, Tứ Thiền thì cũng phải nương vào cái hơi thở để mà khéo tác ý, để mà ly hỷ trú xả, để mà nhập Tam Thiền, để mà tịnh chỉ các hành, tịnh chỉ hơi thở để nhập Tứ Thiền. Thì đó là chúng ta có cái pháp để mà chúng ta dẫn cái tâm mình đi vào ở chỗ các cái định mà chúng ta muốn.

Bởi vì mình ước muốn cái đó mà, mình ước muốn cái hơi thở mình ngưng, thì mình phải dẫn cái tâm của mình đi vào cái chỗ nó ngưng chớ. Do đó mình phải có pháp hướng: ”Hơi thở phải tịnh chỉ!”. Do đó mình nhắc một lần chưa tịnh chỉ, hai lần ba lần, năm lần, mười lần nó tịnh chỉ.

Đó là cái pháp hướng của chúng ta. Nhưng mà mình phải ở trên cái Định Niệm Hơi Thở mà khéo tác ý. Ngoài cái hơi thở mà tác ý thì coi chừng tác ý sai đường, không có đúng. Cho nên nương vào hơi thở mà làm cái việc tu tập này thì nó không sai con đường.

Cho nên Thầy mới nói rằng Định Niệm Hơi Thở là một cái trợ pháp, là một cái trợ duyên cho tất cả các pháp để mà chúng ta tu. Chúng ta muốn nhập cái thiền nào thì nhờ cái hơi thở đó mà chúng ta nhập vào cái thiền đó.

Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước muốn rằng vượt qua Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ một cách hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Diệt Thọ Tưởng Định, thời Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải khéo tác ý”

Do đó đến cái Diệt Thọ Tưởng Định mà chúng ta cũng cần phải dùng hơi thở.

Còn bên Thiền Tông, mới đầu thì nó không có pháp ức chế tâm được thì nó bắt đầu nó phải sổ tức: hít vô thở ra đếm một, hai, ba, bốn. Còn bên đây Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đâu có sổ tức. Sổ tức là các pháp của Đại Thừa, các pháp của Tổ đặt ra chớ còn bên Nguyên Thủy thì Định Niệm Hơi Thở không có sổ tức, nghĩa là không có pháp sổ tức, mà không có pháp tùy tức nữa.

Mà cái Định Niệm Hơi Thở là nhắc cái hơi thở mà thôi, tác ý nhắc hơi thở tức là dùng pháp hướng mà nhắc hơi thở “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”

Đó là cái nhắc như vậy, mà nếu mình kết hợp với cái tâm ước muốn gì, thì mình kết hợp thêm vào trong cái nhắc đó, thì mình sẽ đạt được cái ước muốn đó. Đó là mình tu theo cái pháp của Phật, là dạy mình có pháp hướng tâm để nhắc tâm mình đi vào.

(44:49) Đó thì đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta cũng có cái đường lối chúng ta vào, còn bên Thiền Tông chúng ta thấy không có đường lối. Cho nên tới đây nhiều thiền sư không biết cách nào mà chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định để lại cái nhục thân cho đời sau, chưa biết cách, không biết cách tu.

Còn bây giờ đó, thì ở bên Nguyên Thủy chúng ta biết cách rất rõ ràng. Muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta có đường đi, mà muốn nhập Tứ Thiền chúng ta cũng có biết cách tu nữa.

Còn hầu hết là một cái số người mà nói về thiền định này, thì hầu hết là họ triển khai không được cho nên họ không biết cách thức nào mà nhập Tứ Thiền, nhập Tam Thiền sao, họ chỉ nói những cái danh từ suông suông, thì họ chẳng biết cái gì hết. Tức là họ không có nắm được cái chỗ hành của các pháp này.

Diệt Thọ Tưởng Định cũng vậy, họ cũng chẳng biết cách hành cho nên họ không có làm sao được.

Trong khi tu tập Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra như vậy, này các thầy Tỳ Kheo, trong khi làm cho sung mãn như vậy, vị ấy cảm giác lạc thọ. Vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ không có hoan duyệt thọ ấy.

Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết rõ thọ là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ, không có hoan duyệt thọ ấy.

Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ, không có hoan duyệt thọ ấy.”

Đó là cái câu Đức Phật nói. Khi mà chúng ta dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà tu, để mà câu hữu, tức là kết hợp với các pháp khác, như bây giờ Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, hay Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Diệt Thọ Tưởng Định, thì chúng ta sẽ đạt được những cái đó.

9- BẤT THỌ LẠC BẤT THỌ KHỔ CŨNG LÀ VÔ THƯỜNG

(46:20) Mà đạt được những cái đó thì lúc bây giờ chúng ta sẽ không còn chấp những cái thọ, không còn chấp những cái mà làm cho chúng ta phải khổ sở với nó nữa. Cho nên đối với cái thọ, đối với chúng ta, chúng ta biết nó rõ là vô thường, biết nó rõ là các pháp không có đem đến cho chúng ta những cái hoan lạc, những cái sung sướng.

Cho nên vì vậy mà thọ lạc làm chúng ta thích thú đó, cho nên các vị ấy không có còn thích thú ở trong cái thọ lạc, mà cũng không sợ hãi trước cái thọ khổ. Cho nên trước cái cảm giác bất thọ khổ, bất thọ lạc thì vị ấy cũng biết nó là vô thường.

(46:43) Đây là, hồi nãy Thầy nói cái (bất) thọ lạc bất thọ khổ, hồi nãy Thầy nói vô thường, thì câu này Thầy xác định Đức Phật đã dạy ở trong kinh này, ở trong cái bộ Tương Ưng, thì các thầy cũng thấy rõ.

Đây, “nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ” tức là cái trạng thái không khổ không lạc đó, tức là trạng thái không buồn không vui đó, “vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường”, cái thọ ấy nó vô thường.

Thầy nói rồi các thầy không tin chớ trong kinh Phật nói, không lẽ các thầy không tin Phật? Đó. Đức Phật mới nói cái thọ ấy, thọ ấy là cái thọ bất lạc bất thọ khổ này nè, nó là vô thường, mà nó vô thường tức là nó đâu có phải là một cái chơn pháp đâu? Đó là một cái Phật giả, không thật.

“Cho nên vị ấy biết rõ không chấp trước thọ ấy”. Biết rõ nó là vô thường cho nên không chấp trước chứ gì, cho nên vị ấy biết rõ nó thì không có vui mừng với nó.

Còn mình mới nghe cái thọ bất lạc bất thọ khổ chẳng vui chẳng buồn, thì tưởng nó là Phật Tánh của mình rồi cho nên mình vui quá, “đây là Phật rồi!” Cho nên vì vậy đó là cái sự mình hoan duyệt với nó rồi, còn bây giờ ở đây chỗ này Phật nói không có hoan duyệt với nó mà.

Thầy xin đọc lại để nhắc cho quý Thầy thấy, bởi vì ở đây là cái sự lầm lạc rất lớn của mọi con người đang đi theo con đường Thiền Tông, tưởng nó là một cái giải thoát của mình, mà đây là bài kinh của Phật xác định rất rõ để chúng ta biết:

“Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường.” Phải biết nó là vô thường rõ ràng mà. Cho nên thọ khổ cũng vô thường mà thọ lạc cũng vô thường, chớ cái thọ này nó đâu phải là không vô thường?

Bởi vì “lạc thọ, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy”, nghĩa là biết rõ nó vô thường cho nên không chấp trước nó nữa rồi, vị ấy biết rõ cho nên không có vui mừng với nó rồi.

Còn cái này mình chấp nó là Phật Tánh cho nên mình phải vui mừng, mình tưởng là mình là Phật rồi. Cho nên đó là cái vui mừng tầm bậy của chúng ta

“Nếu vị ấy cảm giác thọ lạc, thọ ấy được cảm…​”

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy