00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 55 - XẢ CÁC LOẠI TƯỞNG - PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

Thời lượng: [01:33:26]

1- ĐỂ PHÁT TRIỂN TUỆ LỰC CẦN PHẢI CÓ ĐỊNH LỰC

(00:00) Khi mà chúng ta muốn có một cái trí tuệ mà ở trong kinh sách Phật thường gọi là cái đại minh lực. Đại oai lực, rồi đại thần lực và cái đại minh lực. 

Nhưng nếu mà muốn cho có cái đại minh lực thì chúng ta phải có cái đại thần lực, mà đại thần lực tức là cái sức thiền định, phải thân định ở trên tâm và tâm định ở trên thân thì lúc bấy giờ mới có cái đại minh lực. Đại minh lực tức là tuệ lực chớ không phải gì khác hơn hết.

Vì vậy, thí dụ hồi ở trong cái đoạn băng cũ Thầy có nói là khi mình muốn viết một cái bài để mình quan sát cái bài đó nó có cái pháp hành như thế nào, thì lúc bấy giờ chúng ta phải giữ cái thân và tâm của chúng ta ở trên một cái yên lặng của một cái định, mà trong cái định đó chúng ta có cái quyết định rằng chúng ta sẽ ở trong cái định đó chúng ta tìm cái trí tuệ, cái đại minh lực, thì lúc bấy giờ cái trí tuệ chúng ta nó phát triển ra. 

Nó biết rằng cái pháp đó phải sử dụng cái hành như thế nào, áp dụng vào cái đời sống như thế nào để mà chúng ta thực hiện được, tuỳ theo cái pháp đó mà chúng ta sống cho đúng được cái pháp đó để được cái giải thoát, làm chủ được sanh tử luân hồi.

Thì cái vấn đề đó là vấn đề của cái người mà có thiền định, còn cái người mà chưa có thiền định thì chúng ta dù có muốn phóng cái tri kiến giải thoát đó chúng ta phóng cũng không được, mà phóng ra cái đại minh lực đó cũng không được.

Chỉ có những người mà người ta đã có một cái sức thiền định, nghĩa là Tứ Như Ý Túc đó, mà trong cái phần Tứ Như Ý Túc thì Định Như Ý Túc, nghĩa là người ta muốn định như thế nào là người ta định liền. 

Còn mình mà muốn ngồi định, mình ngồi thiền mà nhập định thì nó không phải đơn giản đâu, bởi vì nó chưa có Như Ý Túc. Còn cái người mà đã có được Như Ý Túc tức là có cái sức định mà muốn lúc nào cũng được, nghĩa là muốn trong cái thời gian ngắn hay hoặc là dài tuỳ theo cái người đó.

Cho nên, thí dụ cái người đó mà người ta đủ cái sức Định Như Ý Túc rồi thì người ta bắt cái thân và cái tâm nó phải định trên nhau, rồi từng đó người ta mới dùng cái tuệ lực, cái đại minh lực, thì cái đại minh lực nó sẽ phát hiện ra, tức là cái tuệ lực nó phát hiện ra. 

Mà nó phát hiện ra thì nó nhìn qua cái giáo pháp của Phật, nó thấy rõ được cái pháp hành rất là rõ ràng và cụ thể, từ đó nó sắp xếp lại cái thứ tự phải tu cái nào trước, phải tu những cái nào sau.

Cũng như từ lâu đến giờ người ta chưa có dạy bốn cái chỗ niệm Phật mà hôm nay Thầy dạy cho bốn cái chỗ niệm Phật này, thì tức là Thầy phải trải qua một cái đại thần lực, tức là phải ở trong một cái sức yên lặng của thân và tâm của mình, rồi từng đó cái minh lực của mình nó phát triển ra. Nó mới thấy như vậy Phật dạy có bốn cái chỗ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, như vậy gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. 

Cái danh từ Tứ Bất Hoại Tịnh từ lâu thì người ta chỉ hiểu qua một cái danh từ chứ người ta chưa hiểu qua cái pháp hành. Hôm nay thì chúng ta đã học tới cái giai đoạn là chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật.

Do vì vậy mà Thầy mới nói rằng, khi một cái người mà có thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta mới thực hiện Tứ Như Ý Túc được. Mà khi thực hiện Tứ Như Ý Túc thì chúng ta phát triển được cái tuệ lực của chúng ta.

Mà phát triển được cái tuệ lực của chúng ta thì những cái pháp hành nào ở trong cái giáo lý của đạo Phật chúng ta đều thông suốt hết, không có cái pháp hành nào mà chúng ta không thông suốt. 

Mặc dù ở trong kinh của Phật chỉ đơn giản nói một vài chữ, nhưng chúng ta đã hiểu được cái pháp hành đó nó sẽ ở cái mức độ nào và phải tu tập và quán xét như thế nào để nó thực hiện qua cái pháp hành.

2- PHÁP HƯỚNG TÂM XẢ CÁC LOẠI TƯỞNG

(03:44) Ở đây thì một lúc nữa Thầy sẽ trở lại cái pháp hành thứ 11 tức là pháp tham hận, còn bây giờ thì Thầy sẽ trả lời cho quý thầy qua cái chỗ thưa hỏi của thầy Thiện Thuận:

“Kính bạch Thầy! Xin Thầy hoan hỷ hướng dẫn dạy cho chúng con vài câu trạch pháp để hướng tâm xả các loại tưởng?”

Ở đây thì Thầy đã từng dạy qua cái bài “Tẩu hoả nhập ma”. Vừa rồi Thầy có phân tích cho quý thầy thấy, nó phải có mười sáu cái loại tưởng chớ không phải là sáu loại tưởng, nhưng hôm nay trên bước đường mà chúng ta tu tập thường thường là chúng ta gặp sáu cái loại tưởng.

Vì vậy khi mà, cái người tu nhập được Nhị Thiền diệt Tầm Tứ rồi, mà tiến bước ở trên con đường này để nhập tới Tam Thiền, cái quãng đường này để mà nhập Tam Thiền thì sáu cái loại tưởng này thường hay xuất hiện. Do sáu cái loại tưởng này xuất hiện làm cho cái người tu khó mà nhập được Tam Thiền, thường là rơi vào trong các cái loại tưởng này.

Vì vậy mà, thầy Thiện Thuận xin Thầy cho một cái câu pháp hướng để loại trừ, xả các cái loại tưởng đó. Do Thầy thấy cái câu hỏi thích nghi, hợp thời, giúp cho những người tu thiền sau này, vì vậy mà Thầy ghi lại cho những cái pháp hướng này.

1) XẢ SẮC TƯỞNG

(05:22) 1. Sắc tưởng

Sắc tưởng thì như là hào quang, hình ảnh Phật và các hình ảnh Tổ, cũng như là các cảnh giới núi non, rừng rú hay hoặc là hang động, chúng ta ở đây chúng ta ngồi thiền mà chúng ta thấy hiện ra những cảnh giới đó.

Hoặc là thấy cảnh cõi trời Đâu Suất, hoặc là thấy cảnh Cực Lạc, hoặc là thấy Đức Phật Di Đà, hoặc là thấy hào quang ánh sáng, hoặc thấy hoa sen... tất cả những cái sắc tướng đó đó, trong khi chúng ta ngồi đây mà chúng ta thấy được những cái hình ảnh đó thì đó gọi là sắc tưởng.

“Sắc tưởng là hình ảnh của ảo giác thể hiện ra, không phải là Chánh Pháp, phải đi đi, đừng ở trong ta, đừng ngự trị trong khi ta đang luyện tập tu thiền!”

Đó là cái câu pháp hướng thứ nhất để chúng ta đuổi cái sắc tưởng ra khỏi cái nơi mà chúng ta tu tập. Nhưng khi mà chúng ta đuổi nó đi như vậy đó thì chúng ta phải hướng tâm:

“Sáu cái thức phải bám chặt vào tụ điểm, ôm chặt hơi thở, không được tách lìa ra, không được theo sắc tướng đó!”

Đó thì mình phải hướng tâm nhắc nó. Mặc dù là nhắc sắc tưởng phải đuổi đi, mà cũng phải nhắc tâm mình, sáu thức phải bám chặt tụ điểm, ôm chặt chứ không khéo sáu thức của mình nó sẽ duyên theo cái sắc tưởng mà nó cho đó là đúng rồi chừng đó chúng ta sẽ lạc vào tà thiền chớ không có chánh đạo được.

Cũng vì thế mà hầu hết số người mà tu thiền định gặp những cái nơi này, gặp cái sắc tưởng này họ cho đó là cảnh giới mà họ đã đạt được, rồi họ sẽ rơi vào cái cảnh giới ma chớ không phải là nhập được Tam Thiền.

2) XẢ THINH TƯỞNG

(07:18) Về cái phần thứ hai gọi là:

  1. Thinh tưởng là âm thanh do ảo giác sanh ra, không phải là chánh pháp mà là tà pháp. Ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy.

Đây là câu ám thị đây:

“Thanh tưởng là một loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra, nó là loại ma khiến ta mất Chánh Định, hãy đi đi! Tâm không được chú ý đến nó, hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở!”

Đó là cái câu ám thị để chúng ta nhắc để mà chúng ta bám cho chặt cái hơi thở, để mà lìa xa cái âm thanh đó. 

Hầu hết là có một số quý sư như nhà sư Achah Chah đã nghe âm thanh nổ ở trong đầu của mình và nghe những cái trạng thái thay đổi ở trong thân tâm của mình rút vào và nhả ra, đó là những cái trạng thái thuộc về thinh tưởng, cũng như là những cái trạng thái đó gọi là xúc tưởng.

Mà ngài tưởng đó là cái chỗ nhập định của ngài, cho nên cuối cùng thì thay vì ngài tu theo Bốn Thiền của Phật thì ngài phải nhập Tam Thiền, Tứ Thiền, đằng này ngài tới đó ngài tưởng rằng ngài đã thành tựu được đạo cho nên ngài mới đem ra ngài quán đi, ngài dùng cái quán đi và ngài dạy người ta ở trên cái cuốn sách mà gọi là “Mặt hồ tĩnh lặng” đó, thì ngài dạy người ta tu thiền để tự nhiên mà vào.

Trong khi Phật dạy chúng ta phải thiện xảo mà nhập định, mà thiện xảo an trú trong định, thiện xảo sống trong định, rồi thiện xảo xuất định chứ không phải để tự nhiên mà vào.

Cho nên, qua những cái bài ngài dạy ở trong cái cuốn sách của ngài và cái hồi ký tu hành của ngài thì đương nhiên là ngài chỉ mới có ở trong cái chỗ diệt Tầm Tứ, chưa được đi qua cái lộ trình của Tam Thiền, mà ngài đã cho rằng mình đã nhập được thiền định.

(09:12) Cho nên, đó là cái sai của người sau, không thấy được cái lộ trình của Bốn Thiền nó rõ ràng và cụ thể, cho nên cứ tưởng rằng mình đã đạt được.

Vì vậy có một nhà sư ở bên Miến Điện, ngài tu nương vào cái hơi thở, thấy cái bụng mình phình lên xẹp xuống rồi cứ theo đó mà nhắc phình lên xẹp xuống, thế rồi sau thời gian nhiếp tâm ức chế vọng tưởng bằng cách dùng cái hơi thở như vậy rồi ngài sanh ra một cái pháp gọi là “Minh Sát Tuệ”, để rồi từ đó hướng dẫn người sau này cũng chẳng ai biết thiền định của Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.

Bởi vì ngay từ lúc đầu mà chúng ta tu hành để ly dục ly ác pháp thì chúng ta đã dùng những cái pháp quán, chúng ta đã suy tư, thấu triệt để dùng những cái tri kiến và đến cái tri kiến giải thoát để phá vỡ Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, đập xuống tất cả để cho lậu hoặc không còn nữa, do thế chúng ta mới ly dục, ly ác pháp mà chúng ta mới nhập được Sơ Thiền.

Chớ không phải đợi khi mà có định rồi thì bắt đầu từ cái chỗ mà hết Tầm Tứ rồi thì mới dùng cái pháp quán, điều đó là cái sai của đạo Phật.

Ngay từ lúc đầu chúng ta đã thân cận bậc Thánh, thân cận các pháp Thánh, thân cận các bậc chân nhân, thân cận các pháp chân nhân, do đó chúng ta có một cái tri kiến, chúng ta hiểu biết cái pháp của chân nhân, cái pháp Thánh như thế nào.

Từng đó chúng ta mới đem những cái pháp này ra mà chúng ta quán, trạch về cái Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình, thân Ngũ Uẩn của mình. Tất cả các pháp ở trong thế gian này vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào, từ đó chúng ta phát triển thêm cái tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường, vô ngã của nó, cái lý mà khổ của nó rất là sự thật, không còn sai nữa. 

Do đó mà chúng ta mới phá vỡ cái lậu hoặc của tâm của mình, từng đó chúng ta mới thấy rằng cái con đường mà quán xét - không phải đợi chúng ta diệt Tầm Tứ, ức chế tâm mình hết vọng tưởng rồi mới là quán xét, không phải điều đó đâu.

Cho nên, một nhà thiền học ở Trung Hoa, ngài Thiên Thai, ngài mới đẻ ra cái pháp môn “Lục Diệu Pháp Môn”, ngài mới nghĩ rằng sổ, tuỳ, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Nghĩa là ngài phải sổ tức để mà ức chế cái tâm của ngài, rồi bắt đầu ngài nương theo hơi thở để mà chỉ Tầm và Tứ, do đó ngài được chỉ, từ cái chỗ chỉ đó ngài mới quán ra, do đó ngài cũng đi sai.

Vì do cái sự ức chế tâm mà quán ra thì chúng ta sẽ trở thành - cái ức chế tâm đó nó trở thành cái pháp tưởng và cái pháp tưởng quán ra tưởng là mình đã xong. 

Không ngờ ngay từ lúc đầu cái vị tu sĩ của đạo Phật, Đức Phật đã bảo đi ra cái đồng mả mà xem cái thây ma sình hôi thối rồi mới trở về đặt cái niệm thây ma đó trước mặt, rồi tưởng ra, quán cái thây ma đó để mà lật bề trái của cái thân của chúng ta, cái thân và cái tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy. 

Như vậy làm cho chúng ta mới xa lìa cái ngã, làm chúng ta mới không còn chấp cái thân này là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho lậu hoặc chúng ta mới quét sạch.

(12:25) Chớ đâu phải Phật dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng rồi, chỉ rồi bắt đầu mới quán, thì như vậy các ngài mới đẻ ra cái thiền Minh Sát Tuệ này thì đúng, nhưng mà bây giờ đẻ ra như vậy là chúng ta đã thấy lệch lạc cái con đường của Phật pháp rồi. 

Và thiền sư của Trung Hoa, ngài Thiên Thai cũng đã đi làm lệch lạc mất cái con đường của đạo Phật rồi, không đúng.

Ngay từ lúc đầu Thầy dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm để mà quán, tu từ cái tỉnh thức để cho quý vị đặt cái niệm nó mới sáng suốt ra, nó làm cho quý vị phá đi từng cái mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý vị, từ đó quý vị mới có ly dục, ly ác pháp, cho nên tâm quý vị mới được thanh thản, mới được vô sự, tiến tới thì quý vị mới tịnh chỉ Tầm Tứ, mới nhập Nhị Thiền.

Đây chưa có gì thì các vị cứ lo tịnh chỉ Tầm Tứ để nhập Nhị Thiền, mà trong khi Sơ Thiền thì ê chề. Nhìn cuộc sống của quý vị thì chạy theo dục lạc, ăn uống một ngày hai ba bữa, ngủ nghỉ thì không đúng giờ giấc. 

Còn ham ăn, ham ngủ, còn ham chùa to, tháp lớn thì thử hỏi quý vị làm sao mà ly dục ly ác pháp được? Mà gọi là ức chế tâm mình để rồi minh sát ra để làm cho sự giải thoát, thì như vậy là đi ngược lại con đường của đạo Phật mất rồi, đâu có đúng cái hành của đạo Phật.

Cho nên, nhìn chung Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải thoát thật sự, là tại vì sống không đúng cách giới hạnh của Phật, giới đức của Phật, cho nên cái người tu nó đã lệch mất, vì vậy mà con đường giải thoát nó cũng bị chôn vùi.

Do cái sự thinh tưởng này mà người ta tưởng rằng mình đã chứng đạo. Do ngồi thiền nghe âm thanh, nghe trong đầu có tiếng nổ, nghe cả vũ trụ này như tan tành, tất cả những cái sự thay đổi trong thân của chúng ta như vừa rồi thầy Thiện Thuận có nói rằng nó sôi lụp bụp ở trong thân, nó sôi lụp bụp như vậy, tất cả những cái điều này hoàn toàn thuộc về thinh tưởng.

Khi mà chúng ta nghe có những cái tiếng động mà ở trong thân của chúng ta xảy ra điều này thế kia thì chúng ta biết nó là thinh tưởng.

(14:32) Khi ngồi thiền nhiếp tâm không còn vọng tưởng mà lại nghe cái tiếng động ve ve trong tai chúng ta, hoặc nghe tiếng Đức Phật Quan Thế Âm dạy pháp chúng ta phải tu như thế này, phải phản văn tự tánh như thế kia, thì cái này toàn là cái loại ma, không phải thật là Quan Âm hay là tổ hay là ai dạy chúng ta hết. Đó toàn là thinh tưởng, do cái thinh tưởng của chúng ta mà phát ra âm thanh đó mà thôi, chúng ta hãy dẹp đi.

Có nhiều người họ lại còn dùng cái pháp tưởng, họ ngồi im lặng rồi họ đặt một cái câu kinh nào đó mà họ không hiểu, họ mới tự hỏi: “Vậy cái câu kinh này nghĩa như thế nào?” 

Rồi họ ngồi im lặng đó, bắt đầu từ ở trong cái pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu được cái lý của cái câu này, hay hoặc là một công án câu đó, rồi do đó họ nói rằng họ đã ngộ và có cái trí tuệ. Đây là cái trí tuệ ma, cái trí tuệ của pháp tưởng, chớ không phải là của cái người mà có trí tuệ thật của đạo Phật.

Đó thì gặp cái trường hợp thinh tưởng thì quý thầy hãy dùng cái pháp hướng này mà đuổi nó đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó mà hưởng cái âm thanh đó thì nó sai. Đừng có cho âm thanh đó là đúng, đó là cái loại ma mà chúng ta cần phải vượt qua.

Vì vậy mà Phật gọi là ly hỷ mà trú xả. Bây giờ chúng ta trú xả là trú ở đâu? Tức là chúng ta phải trú ở cái hơi thở của chúng ta để mà bám chặt đó, để mà vượt qua tất cả những cái trạng thái xảy ra của sáu cái loại tưởng này.

Nó làm cho mỗi trạng thái đến làm chúng ta có cái tâm vui mừng ở trong đó, có những sự vui mừng đó, cho nên Phật gọi là ly hỷ - ly cái trạng thái mừng đó, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó. Chớ không phải là ly cái mừng mà ly cái trạng thái tưởng đó, cái trạng thái làm cho chúng ta có cái niềm vui mừng ở trong đó. 

Cho nên, Đức Phật gọi là ly hỷ mà nhập Tam Thiền. Đó, ly hết tất cả trạng thái này thì chúng ta đã nhập Tam Thiền, còn nếu mà ly chưa hết thì chưa có nhập Tam Thiền. Cho đến khi mà chúng ta ly đến mức cuối cùng mà không còn chiêm bao nữa, thì như vậy đó là chúng ta mới trọn vẹn mà nhập Tam Thiền. 

Còn một người tu sĩ mà còn chiêm bao thì đừng có mong rớ tới Tam Thiền, chưa biết cái trạng thái… (Mất tiếng)

3) XẢ HƯƠNG TƯỞNG

(16:46) Bây giờ chúng ta tiếp tục tới cái hương tưởng.

  1. Hương tưởng là một loại mùi thơm của tưởng uẩn sanh ra, nó không phải là chân pháp, toàn là tà pháp. Người tu sĩ cần phải đề cao cảnh giác và dùng pháp hướng để mà tiêu diệt nó, để mà dứt trừ nó.

Một cái người ngồi thiền, ở xung quanh chúng ta không có cái mùi thơm, không có một cái bông hoa nào hết, bỗng dưng nghe cái mùi thơm phảng phất, rồi chúng ta nói: Như vậy chắc có lẽ là có chư thiên rồi, có Phật xuống chứng rồi, cho nên mình ngồi thiền không có vọng tưởng đây chắc là có trời Phật, có chư thiên xuống chứng minh rồi đó, cho nên cái mùi thơm này là mùi thơm của chư thiên đây.

Do cái chỗ đó là cái chỗ bị ma gạt chúng ta rồi. Cho nên, nghe cái mùi thơm mà ở đây không có hoa, không có bông, không có nước hoa, không có gì hết mà lại có mùi thơm này là chúng ta biết đó là hương tưởng.

Cho nên, chúng ta cảnh giác, từ đó chúng ta bám chặt cái tụ điểm hơn và nương vào cái hơi thở mạnh hơn để không cho cái tâm của chúng ta duyên qua cái mùi thơm đó. 

Vì cái mùi hương đó nó sẽ tác động làm cho tâm chúng ta duyên theo nó, làm cho chúng ta mất định đi, do vì vậy mà nó dẫn chúng ta đi vào một cái định của tưởng. Nó không còn là ở trong cái định chơn thật, cái định mà chúng ta đang tu tập.

Đây là cái câu trạch pháp đây:

“Hương tưởng là mùi thơm của ảo tưởng sanh ra khiến tâm ta mất Chánh Định. Hương tưởng hãy đi đi! Tâm không được chú ý theo nó, hãy bám chặt vào tụ điểm và hơi thở, nhất là tỷ thức phải nằm yên lặng…

Tỷ thức là cái lỗi mũi của chúng ta đó.

…phải nằm yên lặng, không có được nghe cái mùi hương đó nữa!”

Đó chúng ta phải hướng tâm mà nhắc nó và đồng thời cũng kêu gọi cái tỷ thức của chúng ta phải nằm cho yên ở trên cái tụ điểm. 

Đồng thời khi mà chúng ta hướng tâm như vậy mà không nghe cái mùi hương nữa thì tức là chúng ta đã chiến thắng được cái loại ma đó rồi. Đó, thì như vậy là chúng ta đã thành tựu được, đuổi được cái loại ma này. Còn nếu không thì chúng ta sẽ bị nó dẫn chúng ta đi, nó xỏ mũi chúng ta nó dẫn đi.

4) XẢ VỊ TƯỞNG

(18:58) 4. Vị tưởng là do một vị ngon ngọt xuất hiện nơi vị căn của chúng ta. Đây là một loại ảo giác tà pháp, không phải chánh pháp, ta hãy xa lìa, không nên lưu ý nó.

Có nhiều người nói tui ngồi thiền, bắt đầu sao tui ra nước miếng mà tui nuốt vào nghe nó ngọt, mà nó ngon như là cam lồ vậy, có lẽ là hôm nay tu nó sanh ra cam lồ rồi, nuốt ba cái thứ này vô chắc có lẽ là trường thọ, cho nên ráng mà nuốt nước miếng. Nuốt riết cho nên cái bụng chang bang ra, mà cuối cùng thì nó chẳng phải là cam lồ gì hết mà ba cái vị tưởng nó xuất hiện.

Cho nên, cái vị này ngồi riết, ngồi riết rồi nuốt ba cái nước miếng dơ bẩn đó đầy bụng của mình, tưởng là ngon, nhưng mà cuối cùng thì bị cái ma vị tưởng này nó đã gạt lớp.

Cho nên, cuối thì cũng có nhiều người về đây nói với Thầy, sau cái thời gian mà con ngồi con tụng kinh Pháp Hoa, sao lại có lúc nước miếng ở trong con, con nuốt sao nghe nó ngọt quá chừng, như vậy là trong kinh Pháp Hoa nói là cam lồ đã xuất hiện rồi. 

Người mà tụng kinh Pháp Hoa đến cái mức mà cái nước miếng ngọt, đó là cái người đó sắp sửa được sanh về cái cõi trời hay hoặc là cái cõi Phật nào đó chớ không phải là còn thường nữa. Đó là những cái vị mà người ta đã tụng kinh Pháp Hoa mà người ta đã có những cái kết quả đó.

Còn gặp Thầy, cái loại này là cái loại ma, nó gạt người ta chứ chưa có thật sự là được sanh lên cõi nào hết. Cho nên, cuối cùng thì những cái vị này khi mà bỏ thân họ, Thầy thấy dường như là họ cũng quá đau khổ, không có cái sự giải thoát nào, cũng không có sự làm chủ nào cho cái sự tưởng tượng của họ như vậy.

Cho nên, ở đây chúng ta phải dùng cái câu pháp hướng này để mà trị cái vị tưởng:

“Vị tưởng là một ảo giác sanh ra ngon ngọt nơi lưỡi khiến cho chúng ta thích thú, ưa mến, khiến cho ta mất thiền định, vì thế vị tưởng hãy đi đi! Tâm ta không được lưu ý đến nó nữa, hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở, không được lơ lỏng theo vị tưởng!”

Đó là chúng ta phải ra lệnh và cấm sáu thức của chúng ta phải bám cho chặt, không có được rời, không có được theo cái chỗ đó nữa. Mặc dù bây giờ nước miếng chúng ta đang tiết ra cái mùi ngon ngọt như thế nào, chúng ta cũng chẳng lưu ý đến nó nữa. 

Đó là cái phần mà chúng ta diệt cái vị tưởng, cái phần thứ tư.

5) XẢ XÚC TƯỞNG

(21:29) 5. Xúc tưởng…

Là phần thứ năm.

…là một cảm giác khinh an, hỷ lạc, khiến ta thích thú, ưa mến và khiến ta mất định. Xúc tưởng là một loại tà pháp gây mê thích, say đắm cho người tọa thiền.

Cho nên, cái người mà gặp cái trạng thái hỷ lạc hay khinh an thì họ thường là nhúc nhích thân, họ động hay hoặc là họ ngước ngước lên vầy, hay hoặc là họ cúi cúi xuống vầy. Mỗi lần mà có cái hành động ngước lên hay cúi xuống như vậy đó, họ nghe cái trạng thái nó làm cho thích thú họ.

Tức là một cái người tu thiền mà gọi là ly dục sanh hỷ lạc thì không có nghĩa là có một cái trạng thái nào thích thú nào ở trong đó hết thì mới gọi là ly dục. Còn cái này nó làm cho chúng ta thích thú, làm chúng ta thấy nó sảng khoái, êm ả, làm chúng ta rất là ham thích.

Mỗi lần ngồi thiền mà có những cái trạng thái đó thì chúng ta nói: “Khoái thiệt, ngồi thiền như vầy là thích thiệt!” Vậy thôi đi ra tiệm kia ăn hủ tiếu đi cho nó còn thích hơn, còn sướng hơn là ngồi thiền. Ngồi thiền chi cho đau chân mà đi tìm cái chuyện cực khổ như vậy?

Cho nên, ở đây Thầy nói, thật sự ở thế gian người ta cũng có những cái dục lạc như vậy, còn bây giờ đi ngồi thiền cũng đi tìm cái đó thì cái người này thiệt ra chưa có biết cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp để mà chúng ta có một cái trạng thái do ly dục sanh cái hỷ lạc.

Cái hỷ lạc của những bậc Thánh, của những bậc chân nhân thì nó đâu phải là cái hỷ lạc của cái phàm phu tục tử như vậy! Ngồi đó mà gục gù, gục gù cũng như con cu gáy để thưởng thức những cái an lạc đó thì có thấm nhò gì cái chuyện mà ở đời người ta chạy theo cái dục lạc thế gian đâu?

(23:05) Người ta uống cái ly rượu người ta cũng gật gù, người ta hút cái điếu thuốc người ta cũng gật gù, người ta kéo một cái điếu thuốc phiện người ta cũng gật gù, người ta cũng sảng khoái người ta, mình ngồi thiền cũng gật gù, gật gù thì thử hỏi có phải giống như vậy không?

Cho nên, có một nhà sư viết ở trong cái bài báo: Làm cái người ngồi thiền cũng như là một cái người mà hút thuốc phiện, nó cũng là sảng khoải như vậy hết, thiền nó cũng thích thú như vậy.

Thiệt ra đó là cái thứ thiền dục lạc, cái thiền tà, chớ đâu phải là cái thiền của Phật. Thiền của Phật thì phải ly tất cả những cái trạng thái làm chúng ta thích thú đó chớ! 

Thế mà vị thiền sư đó cũng gọi là thiền, thì thiệt ra cả thế giới đăng cái bài báo đó mà Việt Nam chúng ta cũng trích dịch ra mà đăng ở trong cái báo Giác Ngộ, Thầy đọc Thầy thấy mắc tức cười. Cái chuyện mấy ông thiệt là chưa biết thiền định, cho nên ông nào đạp cứt thì ông nấy cũng đạp theo, thúi cả đám hết mà không thấy thúi.

Đó là cái sai, mà cái sai của người này dẫn dắt tới người kia cũng là cái sai. Tưởng đâu là ngồi thiền cũng như hút á phiện vậy đó, khoái như vậy đó, lâng lâng cũng như đi vào cõi tiên như vậy đó, thì cái đó là cái tầm bậy. 

Ở đây là bị cái xúc tưởng hỷ lạc sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó, cho nên tưởng đâu là đúng, ai ngờ đâu chỉ ức chế tâm không vọng tưởng rồi bắt đầu từ đó nó sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó, chạy theo những cái tâm ham muốn phàm phu tục tử chứ đâu phải là thiền của những bậc Thánh.

Cho nên, ở đây chúng ta nên làm cái câu pháp hướng này để mà chúng ta đuổi cái xúc tưởng này ra khỏi cái tâm chúng ta để chúng ta tiến tới con đường nhập Tam Thiền:

“Xúc tưởng là một loại hỷ lạc ma, ta hãy đuổi nó đi ra khỏi tâm ta. Xúc tưởng hãy đi đi, ta không chấp nhận ngươi! Ta phải bám chặt tụ điểm và hơi thở, đoạn dứt chúng tức khắc, không được theo trạng thái này nữa!”

Đó thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng đó và nhắc cái tâm chúng ta. 

Thỉnh thoảng chúng ta còn nghe cái cảm giác hỷ lạc, cái thân chúng ta còn hơi rung động theo cái kiểu gật gù cũng như người hút á phiện, cũng như cái thằng uống rượu mà nó gật gù gật gù cái kiểu nó thích thú đó, thì chúng ta cũng nên chấm dứt cái đó đi. Còn không thì đứng dậy mà đi kinh hành, chứ đừng có ở đó mà thưởng thức theo cái kiểu thế gian đó.

6) XẢ PHÁP TƯỞNG

(25:26) 6. Pháp tưởng

Đây là cái pháp mà hầu hết là thiên hạ vỗ ngực xưng tên tưởng mình là tiểu ngộ, đại ngộ đây, đó là cái pháp tưởng đây.

Pháp tưởng là một loại tà pháp do tưởng giải tạo ra, người ngu si mê muội cho đó là trí tuệ phát triển nên ngộ lần lần những câu kinh tưởng, những câu công án của thiền Đông Độ, họ cho sự hiểu biết đó là tiểu ngộ, khi nào họ ngộ hết những công án là họ cho đó là triệt ngộ. Không ngờ họ đã bị pháp tưởng lường gạt, biến họ thành ma hý luận trong đạo Phật…

Bởi vì những cái này đều là họ dùng những công án họ hỏi tới hỏi lui, họ hét họ la như Lâm Tế chẳng hạn, họ bị cái ma hý luận của họ rồi. 

Bởi vậy Phật nói đó là cái thứ hý luận, nói cái này nói cái kia làm như là trời là Phật vậy đó, làm cho coi như người ta không hiểu biết cái ý mình muốn gì hết. Chứ sự thật ra cái điều đó là cái điều hý luận ở trong đạo Phật, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết. 

Cái điều đó là cái điều giả dối gạt người chớ không phải thật là cái chỗ Phật pháp. Cái chỗ Phật pháp phải đơn giản, cụ thể, thực tế để áp dụng vào là có cái sự giải thoát nơi thân tâm của người ta. 

Chớ đâu phải hý luận trên trời mây xanh đó, để la, để hét, để đập, để bằng những cái lời ngắn mà nói lên những cái ý gì sâu xa ở trong đó, gọi là Phật, gọi là pháp, gọi là Thánh gì ở trong đó. Đó là những cái lý luận của những kẻ hý luận chơi, chớ không phải là cái chỗ giải thoát.

…thuyết giảng mơ hồ, đời sống thì phá Phạm hạnh, phạm giới luật.

(27:10) Họ thì họ nói triệt ngộ, họ nói công án này công án kia, họ thầy trò đối đáp nhau coi như là không có cần mà phải dùng cái trí suy nghĩ. Người này nói người kia đáp, kẻ hỏi Đông người đáp Tây, kẻ hỏi Bắc người đáp Nam, nó không ăn nhập vào đích, thế mà họ cười họ nói đó là ngộ đạo. Bảo họ xách cái thùng thì họ xách cái rổ, gọi là vô phân biệt. 

Tất cả những cái này, nhìn vào cái đời sống của họ thì họ hý luận cái kiểu làm cái trò cười cho thiên hạ như vậy, thế mà cái Phạm hạnh của họ thì phạm giới luật, ngày thì ăn phi thời, tối thì ngủ ngáy khò khò chẳng có lo gì là giải thoát, sống thì ở trên nhung lụa, sang cả như những nhà giàu có. 

Nhìn cái cuộc sống của họ qua cái hý luận của họ thì chúng ta đã biết họ là thuộc cái loại có giải thoát hay là không giải thoát. Ăn, uống, ngủ nghỉ, danh lợi, sắc, họ không có bỏ một cái thứ nào hết trong năm thứ dục lạc của thế gian.

Pháp tưởng là thứ pháp tà ác, độc hại đã lường gạt người mà còn lường gạt chính bản thân của người ngộ pháp tưởng.

Nghĩa là chính cái người ngộ pháp tưởng, tưởng mình là Thánh rồi, tưởng mình là Phật rồi, tưởng mình là thấy Phật Tánh được rồi, tức là kiến tánh thành Phật được rồi, nhưng mà cuối cùng thì thật sự ra họ chẳng có làm chủ được cái sống chết của họ chút nào được hết.

Cho nên, đến giờ phút ra đi thì ngài Thường Chiếu ngài cũng đã nói: “Ta chết như người thường chớ không có thể nào mà như người khác được!” Ngài Pháp Loa khi sắp sửa chết ngài rên hừ hừ, ngài Huyền Quang mới hỏi: “Sao Hòa thượng lại rên vậy?” Thì ngài biết nói làm sao cho đỡ mắc cỡ đây? Nói: “Gió thổi qua khe trúc!” 

Gió thổi qua khe trúc là tại gió thổi qua cái bụi trúc, hai cây trúc nó nghiến nhau nó kêu chớ còn ổng đâu có đau! Không đau mà rên à? Không có thọ, không tưởng mà rên được sao? Cái điều đó là cái điều che mặt người ta, lấy vải thưa che mắt Thánh, chứ nếu mà không thọ thì ai làm sao rên, còn ông có thọ ông mới rên chớ! 

Còn gió thổi qua cái bụi trúc làm sao có thọ ở trong đó, mà hai cây trúc nó cọ nó kêu két két, thì ông cũng nói ông rên cũng giống như là hai cây trúc kêu như vậy, thì đó là ông che mặt người ta chớ, đâu có thực.

Cho nên, làm chủ được thì nói làm chủ, mà không làm chủ được thì nói không làm chủ, đừng có gạt người sau để bịt con mắt người ngu, chớ còn người trí thì không thể nào mà gạt được. Đó là những hình ảnh mà các tổ sư gọi là ngộ, mà cuối cùng trong cuộc đời của họ rất là đau khổ.

“Pháp tưởng là một tà pháp…

Ở đây là câu trạch pháp đây:

“Pháp tưởng là một tà pháp, không phải trí tuệ chơn thật của người tu sĩ chân chánh. Nó là một loại ma hý luận, tranh chấp, hơn thua cao thấp. Phải xa lìa nó, không chấp nhận nó! Pháp tưởng hãy đi đi, ta không tin ngươi là trí tuệ của đạo Phật, ngươi hãy đi đi!”

(30:18) Đó là chúng ta hãy đuổi nó đi, nó không phải là trí tuệ của đạo Phật đâu.

Cho nên, cái người mà đã ngộ cái lý thiền, đã thấy Phật Tánh, luôn luôn họ gặp với nhau họ rống cái họng họ lên, họ nổi cái gân cổ họ lên, họ cãi với nhau, họ tranh hơn tranh thua với nhau, không có chịu thua ai hết. 

Thậm chí như thấy cái người mà giữ giới luật họ nói là cố chấp, họ còn chê bai người ta nữa. Nhưng mà họ có sống được không? Họ chưa ăn một bữa được, họ thấy người ta ăn một bữa họ nói cái đó là chấp giới. 

Rồi có nghe người ta nói cái người đó nhập được định, làm chủ được cái sống chết, nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ được hơi thở, thì họ bảo rằng sở đắc, người ta tu hành vô sở đắc, còn cái thứ tu mà sở đắc đó ra cái gì!

Đó là những cái mà người ta khi bỉ, khi một kẻ người ta làm được những cái chuyện mà mình chưa làm được thì mình lại khi bỉ.

Cũng như ngài Hoàng Bá đi với một vị tu sĩ, khi cái vị tu sĩ đó đi ở trên mặt nước đi qua sông, khi qua sông rồi thì cái vị đó mới quay lại kêu Hoàng Bá: “Anh hãy đi qua bên đây với tôi!” Thì ông này đâu có dám lội xuống, lội xuống uống nước chết sao, cho nên nói: “Tui biết anh mà đi trển tui chặt chân anh rồi!” 

Thì cái ông này quay lại, ổng cười mũi mà ổng khen một cách rất là mỉa mai: “Thiệt anh là pháp khí Đại Thừa, chớ Tiểu Thừa thì chắc chắn là tụi tui phải đi ở trên nước được, còn anh là pháp khí Đại Thừa không dám thọt chân xuống, sợ thọt chân xuống uống nước!”

Đó rõ ràng mà! Cái câu chuyện này thật sự chớ đâu phải không. Ổng đâu dám thọt chân xuống, sợ nó lút xuống dưới uống nước chết đi, cho nên mới nói: “Tui biết anh bước vậy tui chặt chân anh hồi nãy rồi.” Ông này mới nói: “Thiệt anh là pháp khí Đại Thừa, chớ còn người thường thì không có dám vậy đâu!”  

Đúng vậy! Thật sự ra mình tu chẳng ra gì hết, nói cái họng của mình thật là pháp khí Đại Thừa đó! Khí đó thiệt là khí ở trên mây xanh chớ không phải khí ở dưới đất.

Đó là hôm nay Thầy nói như vậy để chúng ta biết rằng những cái pháp tưởng nó nguy hiểm lắm, mà cái người nào mà lọt ở trong cái vòng này, rống cái họng mà tranh với nhau dữ lắm chớ không phải thường đâu.

Còn chúng ta là những người tu theo Phật phải tránh những cái hý luận này, ai có nói hơn nói thua gì, thôi chắp tay: “Tui thua chớ tui không có hơn đâu, tui ráng mà tui giải thoát cho tâm tui đây còn không được!”

Cho nên, có lần Thầy về Thường Chiếu, các thầy bảo Thầy thị hiện thần thông, Thầy nói: “Tui tu hơi thở chưa xong, ở đó thần thông gì? Hơi thở tui nhiếp còn chưa hết, ở đó mà thần thông cái khỉ gì mà thần thông! Bởi vì tui thua mấy ông hết rồi, tui chỉ có nương hơi thở thôi, còn mấy ông thì lý luận quá trời rồi!” Thành ra do đó Thầy chịu thua quý thầy hết, vì vậy mà không có hý luận với ai hết.

Đó là một cái con đường tu tập, do vì vậy mà quý thầy phải sáng suốt để lìa xa 6 cái loại tưởng này. Sau khi mà dạy đến tất cả những cái loại tưởng khác Thầy sẽ nhắc nhở, vì thời gian chúng ta không còn có nhiều, cho nên chúng ta phải ráng cố gắng để học cho nó hết cái giới hành.

Cái giới hành là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Và còn từ cái một pháp cho đến mười pháp, từ mười pháp cho đến trăm pháp mà Phật đã dạy chúng ta phải tu tập, phải trau dồi, phải dứt bỏ, phải tác chứng những cái pháp đó. Nó quá nhiều pháp. 

Cho nên, đến đây mà chúng ta lấy thân mà niệm pháp, tức là lấy thân mà sống tùy nương theo pháp để sống đúng, nó không phải đơn giản đâu.

3- PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT - PHẦN 2

11) PHÁP THAM HẬN NIỆM PHẬT

(33:46) Bắt đầu bây giờ chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật đây.

Cái pháp niệm Phật thứ 11 là:

  1. Pháp tham hận

Hận là lòng căm giận, oán hờn sâu sắc đối với kẻ đã làm hại mình. Hận là giận hoài không nguôi, ôm ấp trong người, thấy người hại mình sanh ra căm tức và oán ghét, thấy không muốn nói chuyện, không muốn gần họ. Hận là một pháp rất ác khiến cho người ôm hận phải triền miên...

Phải tùy miên đó, tùy miên là nó liên tục ở trong lòng của mình luôn luôn, nó không có lúc nào có một khoảnh khắc nào chúng ta an vui được, mà tìm mọi cách để mà hại cái người đó cho được, giết người đó cho được, mới rửa hận được, mới thấy được an vui, chớ còn không thì nó tùy miên ở trong đó, nó kéo dài dài cái hận hoài ở trong lòng,

…đau khổ mãi mãi trong tâm, không nhớ thì thôi mà nhớ đến thì căm tức vô cùng, lăm lăm chờ ngày nào đó mà rửa hận.

Nghĩa là hận nước thù nhà. Hận nước là bây giờ thí dụ đất nước của mình bị ngoại xâm nó cướp đi, nó đè đầu kẹp cổ từng người dân của mình đi, cho nên đó là mình hận nước. Còn thù nhà là giặc nó vô nó bắt gia đình, vợ con mình hay hoặc là cha mẹ mình, nó đem nó bắn nó giết đi, đó là thù nhà. Do thù nhà này tui mới đi đánh giặc, tui mới đuổi giặc ra khỏi nước. 

Thì từ chỗ cái duyên đó mà có thể chữ “thù” này là nó nằm ở chỗ cái cá nhân của mình với một người nào đó làm hại mình, cho nên từ đó cái tâm của mình luôn luôn nó ôm ấp cái sự trả thù, cái sự hận thù, cái sự căm tức không bao giờ rời. 

(35:33) Cho nên, cái pháp này mà nó đến với chúng ta nó làm khổ chúng ta vô cùng lận, nó không có bao giờ rời chúng ta khỏi nửa bước nữa.

Khi pháp hận này đến với tâm ta, ta phải lấy pháp này niệm Phật. Pháp này gặp Phật thì tan vỡ ngay liền, vì tâm Phật không bao giờ có hận thù ai, hiểu biết như vậy, tâm ta không còn hận ai hết và xả sạch.

Đó là chúng ta bắt cái pháp hận trong tâm của mình đó mà bắt nó niệm Phật. Thì chúng ta đã biết là ông Phật không bao giờ hận thù, thậm chí như Đề Bà Đạt Đa đã nhiều lần tìm cách hại Phật, nhưng mà Phật cũng không hận thù ông ta chút nào hết.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Hận thù là một pháp cực ác, khiến tâm ta luôn luôn bất an và căm ghét. Ta phải từ giã, viễn li, dứt bỏ, không được mang nó ở trong lòng, trong tâm ta. Lòng hận phải đi đi, phải xa lìa nơi tâm ta vĩnh viễn!”

Đó là chúng ta pháp hướng, rồi dùng cái lực của tinh thần để đuổi nó đi, để từ cái chỗ mà chúng ta có những cái hận ở trong lòng của chúng ta thì chúng ta đuổi nó ra khỏi cái lòng của chúng ta, chớ không có để cho nó ở trong lòng của chúng ta.

12) PHÁP THAM THÙ NIỆM PHẬT

(37:02) 12. Pháp tham thù

Đây là pháp thù.

Thù là một lòng căm ghét sâu sắc đối với kẻ đã từng gây hại lớn cho mình, kèm theo ý muốn nung nấu bắt kẻ đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Bởi vậy pháp thù đến với tâm ta khiến cho ta ăn ngủ không ngon, ngày đêm trằn trọc, thân tâm chẳng an, tâm hồn dàu dàu buồn bã. 

Khi gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật. Pháp này đến với Phật, tâm Phật bất động không căm ghét, thù oán ai cả.

Vì các pháp đến mà niệm Phật thì pháp nào nó cũng trở thành pháp lành. Cho nên, chúng ta biết lấy pháp mà niệm Phật làm cho tâm của chúng ta theo đó mà nương thì tâm chúng ta rất an.

Vì trước khi lấy các pháp mà niệm Phật thì chúng ta đã có lấy tâm niệm Phật rồi, cho nên chúng ta biết cái tâm của chúng ta sẽ an ổn trước các pháp khi nó đã đến với chúng ta.

Vì thế lấy pháp này mà niệm Phật thì tâm ta cũng không căm ghét ai, thù oán ai. Ta sống thanh thản nhẹ nhàng, an vui, lúc nào cũng với lòng từ ban rải khắp cùng mọi loài, mọi chúng sanh, mọi muôn phương, không thù, không hận, không oán, không ghét. Đó mới gọi là người tu sĩ theo đạo từ bi.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thù là một pháp cực ác khiến cho tâm ta bất an, khổ sở vô cùng, lúc nào cũng tìm cách trả thù, đầu óc tối tăm, không còn sáng suốt phân biệt đâu thiện đâu ác, đâu chơn đâu giả, do thế tâm càng khổ sở hơn. Thù là một pháp ác, hãy đi đi! Ra khỏi nơi tâm ta! Đi đi, không được ở nơi đây nữa!”

Đó là cái pháp hướng, trước chúng ta hướng để nhắc cho chúng ta rõ cái lý của nó, sau đó chúng ta đuổi nó, không được cho nó ngự trị ở trong tâm mình, để mãi mãi ôm ấp sự đau khổ cho mình.

13) PHÁP THƯƠNG NIỆM PHẬT - PHẦN 1

(39:10) Đó là hận thù, rồi bây giờ tới cái pháp thương. Cái pháp thương này còn khổ nữa. Pháp hận thù coi vậy chớ không khổ đâu, pháp thương này rải rải chớ nó làm cho chúng ta khổ rất nhiều.

Pháp thương là một pháp cực ác khiến cho người ta thương nhớ, khóc than, có thể đi đến chỗ chết. Như một người mẹ mất con, người mẹ khóc suốt ngày này, sang ngày khác, không còn muốn ăn uống gì hết. Người con mất cha mẹ cũng vậy, cũng khóc từ ngày này sang ngày khác.

Pháp thương đến với loài người, không kẻ nào không khổ sở. Pháp thương còn độc hại hơn là pháp sân, pháp hận, pháp thù. Pháp này đến với loài người từ già chí trẻ ai ai cũng bị nó lôi xuống địa ngục sầu khổ. Khi chúng ta cách xa những người thân thì pháp thương khởi dậy làm cho tâm ta bất an ngay trong tâm hồn.

Pháp thương rất độc ác, nó độc hơn tất cả các pháp khác, nó diệt trừ tâm hồn con người nhanh hơn tất cả các pháp khác.

Khi gặp pháp này bắt nó niệm Phật ngay. Vì Đức Phật ngày xưa xa vua cha, vợ con và những người thân của mình, sáu năm trời khổ hạnh trong rừng già, Ngài chẳng hề thương nhớ đến gia đình của mình, Ngài chẳng hề để tâm đến gia đình của mình, Ngài chẳng bao giờ nhớ đến cha già, vợ yếu, con thơ nay đã ra sao.

Cho đến khi chứng đạo quả viên thành, đầu tiên Ngài cũng lo nghĩ đến chúng sanh, không biết có đủ duyên theo pháp của mình mà tu hành không. Rồi Ngài tìm người trao pháp, Ngài nhớ đến hai vị thầy của mình, nhưng hai vị này vừa qua phần. 

Rồi Ngài nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đó là năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Nai. Ngài nghĩ xong liền đến đó độ năm người này, sau đó Ngài tiếp độ những người khác mà chẳng hề nói Ngài trở về thăm vua cha và vợ con.

Cho đến khi vua cha được tin Ngài thành Chánh Giác, đang độ người tu hành thì Vua cho nhiều đoàn sứ giả đến thỉnh Ngài về. Ngài cũng chẳng về và độ tất cả các đoàn sứ giả tu hành. 

Mãi sau cùng, đức Vua mới phái một đoàn nữa đến và căn dặn đoàn sứ giả đến rồi phải trở về báo lại cho nhà Vua biết. Đoàn sứ giả cuối cùng đến thỉnh Phật, Ngài mới hứa khả trở về thăm và chờ đủ duyên tu hành của triều đình, lúc bấy giờ Ngài mới trở về.

(42:15) Do thế chúng ta mới thấy được lòng thương nhớ nhỏ mọn, ích kỷ người thân ruột thịt của Đức Phật không còn nữa. 

Lòng thương ấy bây giờ bao la rộng lớn, không phải còn thương vợ, thương con, thương cha, thương mẹ, thương anh em ruột thịt, mà thương tất cả, không phân biệt sang hèn, nghèo đói, không phân biệt giai cấp nào hết, bình đẳng mà thương tất cả mọi người.

Đó thì quý thầy thấy rõ, như ông Phật khi mà chứng đạo, thay vì chúng ta chứng đạo xong thì lo nghĩ về thăm nhà của mình như thế nào, cũng như một người học trò mà đậu xong rồi thì mình về mình thăm gia đình của mình chớ gì? Mình thăm nhà, thăm cha, thăm mẹ, thăm vợ con mình chớ gì?

Đằng này không. Ông Phật ổng tu xong rồi, chứng đạo rồi thì tìm người để mà dạy người ta, chớ còn không có nghĩ mà về thăm vợ, thăm con. Ông này chắc bộ ổng không có tình cảm gì hết. Ông này chắc ổng tu riết rồi cái tình cảm ổng tiêu hết rồi.

Nhưng sự thật ra, từ khi bắt đầu đi cho đến khi mà thành đạo thì chúng ta cũng chẳng thấy trong kinh nào mà Đức Phật nhớ lại vợ con hoặc cha mẹ mình hết. 

Trong khi khổ hạnh gần chết, thay vì những cái phút mà gần chết thì người ta lại nhớ đến gia đình dữ lắm, nhưng lúc mà Đức Phật ăn khổ hạnh đến cái mức độ mà ngồi không nổi nữa, lúc bấy giờ mệt nhọc đến cái mức độ vậy đó, mà Ngài cũng vẫn không thấy nghe nói Ngài nhớ lại cha mẹ hay hoặc này kia. 

Nhớ lại hồi đó nếu mình mà vầy thì mẹ mình, hay là vợ con, hay là cha mẹ, hay là những người phải bồng ẵm, phải lo cơm lo nước này kia, những cái kỷ niệm đó chắc chắn là nó phải trở về với ông ta. Nhưng mà trái lại, ông nằm đó mà ổng không nhớ ai hết. 

Có lẽ là lúc bấy giờ ông như gộc cây rồi chớ đâu còn gì nữa. Nhưng mà sự thật đó là cái hình ảnh giải thoát hoàn toàn. Nếu mà còn một chút xíu nào mà dính mắc tình cảm của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân thì chắc chắn là chúng ta khó mà có thể giải thoát được.

Chúng ta phải hiểu những cái ý nghĩa của những cái bài kinh mà nói đến cái đời sống của Đức Phật, tức là nói đến cái đời sống của chúng ta sau này sẽ tu tập, phải dứt trừ tận gốc như vậy.

Cho nên, Đức Phật nói: “Sanh đã tận thì Phạm hạnh mới xong”. Sanh đã tận là tức là những cái gì mà chúng ta từng nương tựa, cha mẹ, anh em, vợ con, của cải, tài sản nó đã tận, tức là đoạn tận hết rồi, thì cái Phạm hạnh của người tu nó mới xong. Đó là những câu nói mà Phật thường nhắc nhở trong kinh.

4- GƯƠNG NGÀI A NA LUẬT BUÔNG XẢ CÁC PHÁP THẾ GIAN 

(44:42) Bây giờ quý thầy nghe lại cái ông A Na Luật. Ông này là một cái tay cũng dữ tợn lắm chớ không phải thường. Ổng cũng bỏ cha bỏ mẹ mà cũng không cần thương nhớ nữa hết.

Đây là những cái gương hạnh mà chúng ta nghe qua cái bài kệ của ông chúng ta thấy được cái sự tu tập. Mà ngay từ cái chỗ dứt cái lòng thương yêu này, cái pháp thương yêu này bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải bắt nó niệm như thế nào đúng, nếu không theo những cái gương hạnh này thì chúng ta khó mà dứt được cái lòng thương yêu của chúng ta lắm.

Hãy nghe ông A Na Luật thuật lại cái đời tu của mình:

Bỏ cha mẹ, lìa bà con

Bỏ anh em, chị em

Bỏ năm dục lạc trưởng dưỡng

A Na Luật tu thiền.

Bây giờ đó, ổng theo Phật rồi đó, thì ổng dứt bỏ cha mẹ, bà con, bỏ hết, anh em ruột thịt gì bỏ hết. Mà năm cái thứ dục lạc, ông A Na Luật này ngày xưa ổng cũng dục lạc dữ lắm chớ không phải là cái tay thường đâu, mà bây giờ ổng dẹp hết năm thứ dục lạc này, thì “A Na Luật tu thiền”.

Ông thì ổng thích sống ca nhạc, đờn ca xướng hát, cho nên ổng thường thường liên hệ với các người ca nhạc:

Sống liên hệ với ca nhạc

Với tiếng đàn, tiếng nhạc

Trước ta ưa thích nó

Trong giới hạng của ma.

Nghĩa là từ tiếng nhạc tiếng ca đó bây giờ ổng nghĩ ra nó là cái thế giới của ma, chớ không phải là của những người tu nữa.

Do sống vậy không được

Cảnh giới đạo thanh tịnh

(46:19) Vì cuộc sống mà hay ca hát hay này kia, đó là cái thế giới của ma, không thể nào là cảnh giới của đạo thanh tịnh được.

Ta vượt qua tất cả

Ưa thích lời Phật dạy

Vượt khỏi mọi bộc lưu

A Na Luật tu thiền.

Đó thì ở đây ,ổng phải vượt qua, vượt qua tức là dứt bỏ đó. Dứt bỏ tất cả, chỉ có lấy cái lời của Phật dạy.

Cũng như bây giờ, quý thầy đã quy y Tam Bảo rồi, thì ba ngôi Tam Bảo này là Phật, Pháp, Tăng rồi, thì chúng ta phải tuần tự chúng ta phải dứt tất cả hết, phải vượt qua tất cả hết những cái gì mà trói buộc. Từ cái tình cảm thương yêu của anh em, cha mẹ, dòng họ, cho đến tài sản, của cải, sự nghiệp đều là phải vượt qua cho khỏi hết, dứt hết, hoàn toàn là dứt hết, thì như vậy mới gọi là “A Na Luật tu thiền”.

Sắc, thinh, hương, vị, xúc

Hấp dẫn, rất ưa thích

Ta vượt qua tất cả

A Na Luật tu thiền.

Bây giờ, chúng ta nghe nói mình tu thiền mà mình cũng vẫn chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thì thử hỏi mình còn cái gì gọi là tu thiền? Cho nên, biết nó hấp dẫn, biết nó lôi cuốn, cũng như giờ ăn, chưa tới giờ ăn mà mình đói bụng rồi, mình thích ăn chè, bây giờ cũng còn thích, thì như vậy là vượt qua chưa? Chưa có vượt qua. 

Cho nên, ở đây nếu mình là người tu thiền thì mình phải vượt qua ba cái sở thích này đi, ba cái ham thích này đi, mình vượt qua thì mới gọi là “A Na Luật tu thiền”.

Đi khất thực trở về

Độc cư, vị ẩn sĩ

Tìm vải từ đống rác

A Na Luật đạt được

Không còn các lậu hoặc.

Đó thì các thầy thấy, bây giờ chúng ta chưa có cái vị nào tìm cái giẻ rách ở đống rác mà làm cái y mà đắp đâu. Ông đâu phải cái người nghèo, thế mà khi đi rồi đó, khi mà đi tu rồi thì ông dứt bỏ hết, đi tìm cái vải ở đống rác lên rồi đắp lại, vá, kết lại làm cái áo, cái y của mình mặc mà thôi. Cho nên, ở cái bài kệ này:

Đi khất thực trở về

Độc cư, vị ẩn sĩ

(48:32) Coi như Ngài sống một mình, không có nói chuyện với ai hết. Ẩn sĩ là một cái người mà ẩn bóng, không có để cho ai thấy, trừ ra tới cái giờ đi xin mà thôi. 

Rồi bây giờ Ngài làm sao? Ngài đi tìm những cái vải từ cái đống rác mà người ta quăng, người ta bỏ đó, Ngài về Ngài mới kết lại làm cái y của mình để mặc, chứ không còn... Do đó, cái lậu hoặc nó mới sạch, còn nếu mà mình còn cái vải tốt, còn cái y như Thầy đây, chưa chắc đã là bỏ đâu. 

Cho nên, còn thấy mình mặc cái áo này móc khái vầy là không tốt rồi, để tìm cái áo khác cho nó đẹp hơn, thì đó lậu hoặc mình còn đó chớ chưa hết. Còn ở đây thì ổng đã đạt được, cho nên các cái lậu hoặc ổng nó mới sạch đó, nó mới hết. 

Đó thì qua cái bài kệ mà chúng ta thấy từng cái hành động nhỏ để nói cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết, tức là nói chúng ta có ly dục, ly ác pháp được hay không.

Ẩn sĩ thâu, lượm lấy

Giặt, nhuộm và đắp mặc

Các vải từ đống rác

Sáng suốt, A Na Luật

Không còn các lậu hoặc.

Cũng từ lượm những cái đồ bỏ đó để trở thành những cái vật dụng hằng ngày của mình, cho nên cái lậu hoặc của mình hết, vậy cho nên mình mới thấy rằng mình là một bậc ẩn sĩ, một cái người mới đúng là cái người tu. 

Còn chúng ta còn ở trong cái sự tu tập mà cung kính, có cái sự cúng dường, có cái sự này sự kia thì như vậy là cái lậu hoặc chúng ta chưa sạch đâu, chưa hết đâu.

Cho nên, qua những cái gương hạnh này, sau khi mà lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng thì Thầy nêu lên các hành động, các cái gương hạnh của các bậc Thánh Tăng trong cái thời Đức Phật, chúng ta theo đó mà chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng, chúng ta cũng sẽ sống những cái gương hạnh đó.

Cũng như bây giờ, qua cái bài này là chúng ta xa lìa cái lòng thương, mà bỏ cái lòng thương, rồi bỏ tất cả những cái thương của, thương cải, thương này kia qua hành động của ông A Na Luật này để mà chúng ta dẹp cái lòng thương của chúng ta.

Bởi vì bây giờ, mình còn mến một cái vật gì, tức là còn thương cái vật đó chớ không phải… Mà cái lòng thương nó rất là vi tế, chớ không phải là mình nhớ cha nhớ mẹ mình là thương đâu. 

Mình còn nhớ những cái vật kỉ niệm, hồi đó đó ai tặng mình, một con bồ nào đó tặng mình, bây giờ mình còn cất giữ đó thì coi chừng, cái chuyện đó là mình còn thương chớ chưa phải mình dứt thương đâu.

Rồi tất cả những cái chuyện mà nhỏ nhỏ, chớ mà nó còn ghi lại ở trong đầu của chúng ta những kỉ niệm mà chúng ta không có quăng ném nó đi thì tức là chúng ta chưa hết lậu hoặc đâu. 

Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải nương theo các gương hạnh của các bậc Thánh Tăng này để mà chúng ta xa lìa cái lòng thương của chúng ta, thương vật, thương người, thương tất cả những cái gì mà ở trong cuộc đời chúng ta đã xảy ra. 

(51:02) Đó bây giờ thì ông đi lượm cái đồ bỏ để mà làm lại cuộc sống của mình.

Nhiều dục, không biết đủ

Ưa giao du, tháo động

Những pháp này có mặt

Thuộc tà ác, uế nhiễm.

Nghĩa là nếu mà chúng ta chưa có biết đủ, còn cái này cái kia thì đó còn nhiều dục chứ chưa phải là... Còn bây giờ, chúng ta đi lượm từng cái vải rách, từng cái vải xấu xa mà làm cái áo chúng ta mặc hằng ngày thì chúng ta chẳng còn gì nữa hết, thì lậu hoặc chúng ta sẽ không còn. Còn bây giờ, chúng ta còn cái tốt, còn cái này kia, coi chừng lậu hoặc chúng ta chưa hết đâu.

Cho nên, chúng ta phải sống hợp, sống đúng cái đời sống Phạm hạnh thì chúng ta mới quét sạch được cái lậu hoặc. Còn nếu mà chúng ta sống không đúng Phạm hạnh, còn áo quần se sua đẹp xấu thì coi chừng lậu hoặc chúng ta còn tràn đầy trong đó, khó mà đi đến ly dục, ly ác pháp mà giải thoát được.

Cho nên, ở đây còn nhiều dục thì chưa biết đủ, thì do vì vậy mà tâm của chúng ta ưa giao du, tháo động. 

Ưa giao du là lại người này nói chuyện, người kia nói chuyện, tìm bạn tìm bè, tìm này kia đồ, thích lại chỗ này chỗ kia là những người mà chưa chịu sống độc cư đó, ưa tìm bạn, rồi tìm nơi này nơi kia để ngao du sơn thuỷ đồ đó, thì tất cả những cái này là không bao giờ cái người đó đi đến con đường giải thoát được.

Những pháp này có mặt

Những cái pháp này mà có mặt thì thực là “tà ác, uế nhiễm”. Nó là những cái tà pháp, nó thuộc về những cái tà pháp ác. Nó làm cho tâm chúng ta dễ uế nhiễm.

Thí dụ như bữa nay, chúng ta nói chuyện với nhau thì ngày mai chúng ta thích cũng nói chuyện nữa, rồi ngày mốt cũng thích nói chuyện nữa, không bao giờ mà cái thích nói chuyện đó dứt được đâu. 

Chỉ bữa nay, chúng ta dứt được thì ngày mai chúng ta dứt được. Ngày nay, chúng ta không giao du thì ngày mai chúng ta không giao du. Bữa nay giao du được thì ngày mai tiếp tục giao du nữa và cứ như vậy tiếp diễn mãi thì đến khi chết chúng ta cũng hai bàn tay trắng bị các pháp tà này nó đã uế nhiễm tâm của chúng ta.

Chánh niệm và ít dục

Biết đủ, không não loạn

Thích viễn ly, hân hoan

Thường tinh cần, tinh tấn.

Đó thì ở đây chúng ta luôn luôn phải ở trong cái niệm chân chánh là cái niệm mình luôn luôn lúc nào mình cũng thấy vừa đủ và thấy an vui cho tâm hồn của mình, không có cái niệm nào mà làm cho mình đau khổ, thương nhớ, hoặc là giận hờn, hay hoặc là ham thích nữa. Luôn luôn mình thấy trước mọi hoàn cảnh, trước cuộc sống của mình, mình thấy nó đủ rồi, không có thấy thiếu cái gì hết.

Mặc dù là nhìn vào thì mình đang không có cơm ăn, nhưng mà mình biết đây cũng đủ rồi. Mình biết đây là cái nhân quả, đủ của mình rồi, thì không có cần phải thấy nó thiếu, nó đói nữa. Do vì vậy đó mà mình rất là an ổn tâm của chúng ta.

Mình thích sống cái đời sống viễn ly, nghĩa là lìa xa bạn bè, lìa xa những vật dụng, lìa xa tất cả những cái điều trói buộc, lìa xa tất cả những người thân yêu của mình, đó là mình thích cái đời sống viễn ly.

Bởi vì mình không thích cái đời sống viễn ly thì nó sẽ đưa mình đến những cái trói buộc này đến trói buộc khác. Nó làm cho chúng ta khó mà giải thoát được. Nó làm chúng ta não loạn ở trong đầu óc của chúng ta và làm chúng ta không biết đủ.

(54:14) Cho nên, khi mà chúng ta thích viễn ly thì chúng ta phải siêng năng, tinh tấn. Thường chúng ta phải sống cái hạnh viễn ly. Viễn ly tức là xa lìa hết những cái vật chất trên thế gian này, xa lìa tất cả những cái tình cảm, xa lìa tất cả những cái pháp ác, tránh hết, tránh hết, chỉ cần sống cô đơn một mình trong một khu yên tĩnh rừng hoang vắng.

Như ông Mục Kiền Liên chẳng hạn. Mặc dù, ông với ông Xá Lợi Phất là đôi bạn rất thân tình, nhưng khi hiểu được Phật pháp thì ông lìa cái người bạn thân của ông, chớ không còn có tối ngày cặp với nhau như đôi uyên ương mà chuyện này hết rồi tới chuyện kia đâu. 

Hai ông này thật sự là đôi uyên ương, đi đâu là có cặp nhau đó, nhưng mà đến khi ngộ pháp rồi thì ông này đi vào cái khu rừng hoang vắng ở riêng một mình mà thực hiện thiền định. Cho nên, chỉ có ông Phật đến với ông Mục Kiền Liên mà thôi, chớ không bao giờ ông Xá Lợi Phất có cái tâm mà bén mảng đến khu rừng đó bao giờ. 

Cho đến khi ông Mục Kiền Liên đã thực hiện có cái đệ nhất thần thông rồi thì ông mới về hầu Phật, để giúp Phật chấn chỉnh Tăng đoàn, để giúp Phật hướng dẫn cái giáo đoàn trên bước đường du tăng khất sĩ.

Những pháp này có mặt

Thuần thiện Bồ Đề Phần

Vị ấy không lậu hoặc

Bậc đại sư nói vậy.

Nghĩa là những cái pháp viễn ly mà nó có mặt thì nó là đem chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn. Bồ Đề là giải thoát đó, nó thuần thiện, nó giúp chúng ta. Còn cái pháp viễn ly mà không có đó thì nó là những cái pháp uế nhiễm. Nó làm chúng ta đắm nhiễm ở trong cái tà pháp. 

Cho nên, ở đây cái pháp viễn ly là cái pháp rất cần thiết cho chúng ta. Một cái người nào muốn đi vào cái con đường của đạo Phật mà thiếu sự viễn ly này thì chắc chắn là chúng ta không bao giờ có thể giải thoát được con đường này hết.

Cho nên, chúng ta phải viễn ly, viễn ly những sự giàu sang, đẹp đẽ, viễn ly những tình cảm, viễn ly những chùa to tháp lớn, viễn ly Phật tử. Vì những Phật tử họ cũng trói buộc chúng ta dữ lắm chớ đừng nói là Phật tử để chúng ta độ họ. Coi chừng độ họ không độ chớ họ độ mình đó. 

Họ độ tiền độ độ bạc, độ riết rồi cái lôi mình sắm xe Cúp, xe Honda chạy tùm lum hết đó. Đó là họ độ ăn, độ uống, độ đủ thứ hết, những cái thứ gì mà trên thế gian này có họ cũng độ cho mình hết. Riết rồi ông thầy cái bụng chang bang như cái trống, chớ cũng chẳng ra gì hết.

Cho nên, ở đây Thầy nói thật sự, chúng ta cần phải tránh xa Phật tử. Vì tại sao vậy? Sợ Phật tử nó độ mình chớ mình không có độ Phật tử đâu. Nếu mình độ Phật tử thì hằng ngày nó sẽ ăn ngày một bữa với mình. Còn cái này nó ăn ba bữa, nó độ riết mình cũng ăn ba bữa với nó chớ chưa chắc đã ăn một bữa được. 

Cho nên, cần phải tránh những người Phật tử. Mình hơi nhức đầu một cái là nó xách bao nhiêu thứ thuốc biểu uống cái này uống cái kia, uống riết phạm thuốc mình cũng chết luôn chớ đừng có nói chuyện mà không chết. Cho nên, Phật tử nó độ mình riết chắc chắn là tiêu mình luôn.  

(57:09) Nhớ kĩ như vậy là quý thầy coi chừng cảnh giác với người Phật tử lắm. Họ thương mình chớ không phải ghét, mà họ thương cái kiểu dục lạc thế gian chớ không phải họ thương mình để mà giúp cho mình giải thoát đâu.

Còn ngày xưa Đức Phật, các thầy biết rằng người ta chỉ đi xin thôi, người ta cho được cái gì ăn cái nấy chớ không có Phật tử mà cung cấp, mà hộ trì một cách như bây giờ đâu.

Mà cái sự từ chối của Đức Phật cũng rất khéo léo, khi mà cúng dường sai là Đức Phật không có chấp nhận. Còn bây giờ các thầy thấy, họ cúng dường sai chúng ta cũng ngửa tay lấy. Họ để năm trăm, một ngàn hay một triệu bạc xin cúng dường thầy cái mình thò tay lấy liền. 

Còn hồi đó ông Phật có sao? Bỏ trong bát ổng một đồng ổng cũng ném ra ngoài nữa: “Thôi, mấy bà đừng có bỏ cái kiểu này, không có được! Xách về đi! Cho tui đồ ăn thì cho chớ đừng có cho tiền như thế này thì không được”. Đó là những cái hạnh của một người tu.

Còn mình bây giờ mình khắc phục mình không có nổi cho nên mình xa xa họ ra đi, chớ không họ làm biếng lắm. Họ đi mua bánh mì họ bỏ vô cho mình thì nó cực, nó nặng, còn bỏ trong túi chừng vài ba tờ giấy năm chục ngàn thì dễ lắm. 

Ném vô trong cái bình bát ông thầy năm chục ngàn là thấy ổng mua một đống bánh mì rồi chớ gì, còn mình mà ôm một đống bánh mì bỏ vô thì thấy quá cực, để cho ổng đi mua ổng ăn cho đã cái miệng ổng. Thì rõ ràng là Phật tử nó lôi mình đi theo cái cuộc đời của nó chớ không phải là để cho mình giải thoát.

Tùy theo ta nghĩ gì

Ngài thuyết rõ tất cả

Phật không ưa hý luận

Ngài dạy không hý luận.

Nghĩa là cái pháp mà của Phật dạy thì tùy theo cái nghĩ, tùy theo cái chỗ tu hành của mình mà Phật dạy rất rõ. Ngài không có ưa cái lối mà luận cái này luận cái kia, mà chỉ dạy cho chúng ta tu hành. 

Cũng như ở đây Thầy dạy cho quý thầy tu chớ không có nói cái lý luận, cái cao xa, cái lời nói thuyết giảng cho hay, mà nói cái lời nói rất thực. 

Cũng như, nghe cái lời giảng của Thầy là thực chớ không phải là cái lời nói nó cao siêu, nó có những cái từ làm cho chúng ta thấy nó hay ho bằng cách là như thế này, bằng cách như thế khác. Đó là những cái lời hý luận.

Còn cái lời mà dạy người ta để người ta thực hiện ở trong cái cuộc sống người ta, để người ta được giải thoát, người ta được cứu người ta ra khỏi sự đau khổ, thì Thầy cũng bắt chước ông Phật, cũng làm đúng như vậy, không có dạy cái hý luận mà dạy cái lời chân thật để đi vào cái sự hành cho được giải thoát.

Ngộ pháp ta hoan hỷ

Trú trong giới pháp Ngài

Ba minh chứng đạt được

Lời Phật dạy làm xong.

Nghĩa là ngộ cái pháp mà của Phật dạy rồi thì lòng ta rất là sung sướng. Cũng như Thầy dạy cho các thầy phải hành cái pháp như thế này thế khác.

Thí dụ như bây giờ, tu Tứ Vô Lượng Tâm thì tu tâm từ mình như thế nào, rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức như thế nào, rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong những oai nghi như thế nào? Dạy tất cả những cái này mà quý thầy nỗ lực được thì sau này quý thầy sẽ chứng được Tam Minh. 

Cho nên, trú trong giáo pháp, những cái lời mà Thầy dạy đó mà quý thầy trú vào đó mà quý thầy hằng ngày thực hiện, thì Ba Minh chứng đạt không có… Không bao giờ mà quý thầy không chứng đạt được Ba Minh.

Suốt năm mươi lăm năm

Ta không bao giờ nằm

(01:00:32) Cái ông này tới năm mươi năm mà không bao giờ ổng nằm, không biết là ổng ngồi hay là ổng làm sao Thầy cũng chả biết.

Trong hai mươi lăm năm

Đoạn dứt được ngủ nghỉ.

Nghĩa là hai mươi lăm năm thì ông mới là tu tập dứt cái ngủ nghỉ, nghĩa là ông nằm ông đặt niệm được tỉnh thức như Phật. Đó thì cái ông này ổng có trình bày lại cái chỗ này, hai mươi lăm năm ông tu tập ông mới dứt được cái ngủ nghỉ. Nghĩa là ông nằm lại, cái thân thì ngủ mà cái tâm nó tỉnh thức ở trong cái niệm chớ không có còn ngủ nữa, mà hai mươi lăm năm tu tập. 

Mà suốt năm mươi lăm năm ổng không có bao giờ ổng nằm, mà có hai mươi lăm năm thì ổng mới dứt được cái ngủ nghỉ. Có lẽ là ông này chuyên môn là ngủ ngồi rồi. Ông Phật thì không có dạy ngủ ngồi mà ổng chuyên môn ngủ ngồi.

Không thở vô thở ra

Chỗ như vậy trú tâm

Chỗ này là ổng nói chỗ mà không có thở vô thở ra là cái chỗ ổng trú tâm. Như vậy là luôn lúc nào, chắc có lẽ là suốt cái thời gian năm mươi năm này không có nằm, là ổng đã nhập cái định Tứ Thiền, là chỗ cái hơi thở mà không có thở vô thở ra tức là hơi thở ngưng nghỉ, mà hơi thở ngưng nghỉ tức là nhập Tứ Thiền.

Cho nên, ở đây ông nói Tứ Thiền, kiểu ông nói như vậy thì nếu một cái người mà không có biết thì chắc chắn là chưa biết ông này nhập Tứ Thiền. Mà ông suốt tối là bao giờ ổng cũng nhập vô Tứ Thiền, ổng nằm cái chỗ mà ông không có, ông trú cái chỗ mà ổng không có thở vô thở ra. 

Rõ ràng là cái trạng thái Tứ Thiền là chỗ không thở vô thở ra rồi. Như vậy là luôn luôn lúc nào năm mươi lăm năm này hoàn toàn là đêm nào ổng cũng nhập vô đó hết. Sáng ra thì ổng đi chơi bình thường như người ta đi khất thực đồ như vậy, mà tối về ai ngủ thì ngủ ổng chẳng ngủ gì hết, ổng nhập vô Tứ Thiền, ổng ngồi chong ngóc đó suốt đêm. Rõ ràng như vậy. 

Mà ổng nhắc lại, có hai mươi lăm năm, ổng phá được cái ngủ nghỉ của ổng, tức là ổng không có chiêm baotừ suốt năm mươi lăm năm nay ổng không bao giờ ổng nằm nữa, là lúc nào cho tới khi mà ổng chết là luôn lúc nào ổng cũng nhập Tứ Thiền. 

Qua cái gương hạnh của ông này, khi mà ổng nhập được, ổng phá được cái ngủ nghỉ tức là phá chiêm bao ổng rồi, bắt đầu từ đó ổng đi vào Tứ Thiền, ở cái chỗ mà hơi thở không có thở vô thở ra nữa, thì ổng luôn luôn ổng nhập vào Tứ Thiền. 

Và như vậy là suốt năm mươi lăm năm ông luôn luôn là lúc nào ổng cũng nhập vào Tứ Thiền. Tối là ai ngồi tu gì tu chớ ông nhập vô Tứ Thiền, ổng ngồi trong góc đó thôi, cho nên ổng không có nằm.

Không tham dục, tịch tịnh

Chỗ ấy mắt Niết Bàn.

Nghĩa là bây giờ cái tâm của ổng, ông nhập Tứ Thiền như vậy, rõ ràng là suốt đêm ổng ngồi ông nhập Tứ Thiền như vậy, hoàn toàn chỗ mà hơi thở không có thở vô thở ra và ông quán xét cái tâm của ông thì tham dục nó không còn có nữa, nó rất là tịch tịnh. 

(01:03:29) Chỗ ấy là mắt Niết Bàn - chỗ đó là cái chỗ Niết Bàn rồi. Cho nên, ông thấy rất rõ ràng. Đối với cái định thì ông đã nhập Tứ Thiền mà suốt năm mươi lăm năm, nghĩa là ông không có nằm mà ông cứ ngồi nhập định Tứ Thiền như vậy.

Cái chỗ tâm của ông thì ông thấy tham dục nó không còn nữa. Cái lòng ham muốn nó đã sạch rồi, nó không còn có nữa, cho nên nó tịch tịnh, thì ông biết đó là cái chỗ Niết Bàn của ông rồi, cái chỗ mà ông trở về rồi, cái chỗ đó là không có bao giờ tái sanh luân hồi nữa được. 

Qua cái bài kệ này, chúng ta thấy rất là rõ ràng và cụ thể.

Với tâm không dao động

Sống cảm thọ cuối cùng

Như ngọn lửa diệt tắt

Tâm Ta được giải thoát.

Nghĩa là bây giờ đối với ông thì ông thấy rõ ràng, với cái tâm của ông không có bao giờ mà dao động với một cái đối tượng, cái pháp nào cả hết. Thậm chí như cái cảm thọ cuối cùng mà đến với ông thì cái tâm cũng chẳng dao động nữa, cho nên nó trở thành mát lạnh.

Như ngọn lửa diệt tắt rồi - như cái ngọn lửa đã tắt rồi, không có còn nữa. Cho nên: “Tâm ta được giải thoát” - ông thấy hoàn toàn là ông đã được giải thoát hoàn toàn, không còn có một cái chút gì mà không giải thoát nữa.

“Nay chứng những pháp này

Là những pháp cuối cùng

Những cảm giác cuối cùng

Của bậc Đại Mâu Ni

Sẽ không còn pháp khác

Bậc Chánh Giác nói vậy”.

Nghĩa là cái chỗ mà ông đã thấy, đã đạt được, đã cảm giác được như vậy đó, thì Đức Phật đã nói đây là cái pháp cuối cùng, không còn cái pháp nào khác hơn cái chỗ pháp này nữa.

Đó là cái chỗ mà của ông A Na Luật, sau những cái bài kệ mà ông đã nói lên cái chỗ tu hành của ổng mà Thầy thấy tuyệt vời.

Nghĩa là ông chẳng có bận tâm gì đối với chúng hết, cho nên vì vậy ban ngày đi khất thực đồ, lượm giẻ rách đống rác mặc chơi vậy thôi, chớ chẳng có cần ham muốn gì nữa hết. Tối thì nhập Tứ Thiền, ngồi cái chỗ mà không hơi thở ra hơi thở vô chơi vậy. Cho nên, Thầy nói khỏe quá khỏe. 

(01:05:25) Còn Thầy ở đây thì đâu có dám chơi kiểu đó, chơi kiểu đó thì ở ngoài các thất của mấy con nói chuyện rầm rầm làm sao đâu biết đâu, phải không? Đâu có yên ổn được. Rồi có người nào mà tu bậy tu bạ rồi điên khùng rồi làm sao? Cho nên, không có dám. Còn ông này ổng đâu có chúng, có ông Phật kia mà, mọi Tỳ Kheo thì có ông này ổng lo chớ mình cứ ở trong Tứ Thiền này cho ngon thôi, không có còn lo.

Thầy mà được có quý thầy nào mà tu khá được mà lo cho chúng được, Thầy cũng nhập cái định như ông này chơi, cứ tối mình nhập Tứ Thiền, vô đó mình nằm đó mình ngủ khỏe thôi, an ổn nhất, sướng thôi. 

Mà thân không đau, không bệnh. Bởi vì cái Tứ Thiền nó lạ lùng lắm, nó phục hồi cái cơ thể của mình dữ lắm. Cái thân của mình mà giữ cái sức tỉnh thức của mình để cho nó phục hồi lại, nhưng nó vẫn suy yếu, suy yếu. Còn ở trong đó, cái chỗ mà nó không thiện không ác, chỗ nó không nhân quả rồi, nó giữ cái thân của mình không có hoại diệt một cách rất là đau khổ qua cái nghiệp thọ mà vô thường nó thay đổi.

Nó thay đổi tức là nó cằn cỗi lần lần, nó làm cho chúng ta có những cái trạng thái của bệnh sau này. Còn trái lại mà khi nhập Tứ Thiền thì cái tế bào trong thân của mình nó không có cằn cỗi được. 

Bởi vì ban ngày thì nó có sự thay đổi đó, bởi vì mình còn hoạt động là có sự thay đổi. Nhưng ban đêm vào Tứ Thiền nó không hoạt động nữa, cho nên vì vậy mà nó không thay đổi nữa. 

Cho nên, coi như là một ngày một đêm thì ban ngày nó hoạt động có một chút thôi, mà hoạt động với cái tâm nó không có lo lắng, không có bị phiền não gì hết, thì nó cũng không có rối loạn cơ thể nhiều. Mà ban đêm lại bắt đầu nó nghỉ, nó không hoạt động nữa, thì do cái định Tứ Thiền là nó không có hoạt động.

Cho nên, cái cơ thể của ông này, Thầy nói thật sự nó khỏe, không bao giờ mà nói ông A Na Luật mà có bệnh đâu. Đến cái ngày mà ông chết rồi, khỏe re chớ không có khổ đau đâu. Đó là cái hạnh phúc nhất của cái người mà tu thiền định theo đạo Phật.

5- PHÁP HÀNH PHÁP NIỆM PHẬT - PHẦN 3

13) PHÁP THƯƠNG NIỆM PHẬT - PHẦN 2

(01:07:07) Bây giờ, chúng ta tiếp tục.

Muốn chuyển biến cái lòng thương nhỏ hẹp này ta hãy trạch pháp dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Pháp thương là một pháp rất khổ cho loài người. Vậy ta phải chuyển biến pháp thương này rộng lớn như tâm từ bi của Tứ Vô Lượng Tâm.

Lòng thương yêu nhỏ hẹp…”

Cái pháp trạch đây.

Lòng thương yêu nhỏ hẹp khiến ta nhiều đau khổ, vậy từ đây ta phải thương yêu tất cả chúng sanh như cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt của ta, như chồng vợ, con cái và con cháu. 

Ta đối với những người thân cũng như những người không thân bình đẳng như nhau, không được xem người này hơn người kia, không được xem người kia kém người nọ, phải luôn luôn xót thương chúng sanh như con ta vậy!”

Nghĩa là cái tâm nó phải thương yêu bình đẳng thì chúng ta không còn khổ nữa, mà thương yêu trong cái nhỏ mọn thì chúng ta sẽ có sự đau khổ.

Đó là cái pháp thương mà bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải thực hiện đúng như cái tâm Phật. Đồng thời chúng ta hiểu biết nó qua những cái bài kệ của ông A Na Luật, ổng nói lên cái sự dứt bỏ của ông, để đoạn dứt cái lòng thương yêu, cho nên chúng ta cũng bắt chước qua những cái điều này.

Vì ban đêm mà chúng ta nằm mà chúng ta ngủ, khi tỉnh thức thì chúng ta - nếu một cái người mà đã đạt được định thì người ta nằm người ta tỉnh thức, người ta đặt niệm trước mặt.

Còn cái người mà người ta có định như ông A Na Luật thì ổng không có chơi kiểu đó nữa. Ổng vô Tứ Thiền ổng nằm trong đó thì chẳng có ai mà vô quấy rầy ổng nữa hết cho nên ổng chẳng thương nhớ ai nữa hết. Cuối cùng thì cái pháp thương nó không có xen vô đó được, cho nên ổng giải thoát hoàn toàn.

Vì vậy mà, chúng ta cố gắng nỗ lực nhập cho được Tứ Thiền, làm như kiểu ông này thì cái pháp thương, pháp ghét, pháp hờn, pháp giận gì nó cũng không vô đó được hết, cho nên khỏi cần bắt nó niệm Phật mà chúng ta cũng giải thoát.

14) PHÁP GHÉT NIỆM PHẬT

(01:09:12) Bây giờ tới pháp ghét, thương rồi tới ghét.

  1. Pháp ghét là pháp đối đãi với pháp thương. Thương thì cũng khổ mà ghét thì cũng khổ. Do thế, pháp ghét là pháp làm khổ người, làm khổ mình. 

Người tu sĩ đạo Phật khi gặp pháp này, bắt nó niệm Phật liền. Pháp thương thì biến nó thành từ bi, mà pháp ghét thì bắt nó niệm Phật, biến nó thành pháp hỷ và pháp xả.

Quý thầy thấy rõ chưa? Nếu mà cái pháp thương thì chúng ta bắt nó trở thành cái tâm từ bi, nó thương rộng lớn ra, nó không có thương hẹp nữa. Còn gặp cái pháp ghét thì bắt nó niệm Phật, thì biến cái pháp ghét nó ra cái pháp hỷ và pháp xả. Bởi vì ghét thì chỉ có nước hỷ với xả nó mới hết, chớ còn ghét mà không hỷ không xả thì nó không hết.

Do đó chúng ta dùng Tứ Vô Lượng Tâm, cái thương thì chúng ta lấy hai cái pháp từ với bi, mà chúng ta chuyển hóa, còn ghét thì chúng ta lấy hai pháp cuối là hỷ và xả mà chuyển hóa nó.

Do thế không còn ghét nữa, mà lại hoan hỷ với người mình ghét và xả hết tất cả những hành động độc ác của kẻ mà mình ghét. Vì xả hết thì không còn ghét họ nữa, do thế tâm ta được giải thoát, không thương, cũng không ghét.

Muốn được vậy ta phải dùng pháp hướng, trạch pháp câu này Như Lý Tác Ý:

“Pháp ghét là một pháp cực ác khiến cho tâm ta đau khổ và người khác đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác.”

Cái ghét nó làm cho cái nhân quả nó di truyền từ cái kiếp này sang kiếp khác, mà cái ghét nó không có dứt hết, nó cứ liên tục đời này đến đời khác. Mà ngay bây giờ mà chúng ta không dứt thì nó sẽ nối tiếp trong cái nhân quả, nó đi mãi mãi. 

Bởi vì sau này, Thầy dạy về nhân quả Thầy sẽ nói về cái pháp thương và pháp ghét nó sẽ đi trên cái lộ trình mà nó không có chịu dứt.

Nếu mà cứ tiếp tục mãi cái thương thì nó tạo ra cái nhân quả, trong cái nhân quả nó có cái ác và cái thiện và cái thương, cái ghét nó cứ nối tiếp nhau và đời này nó tiếp tới cái đời khác chớ nó không bao giờ mà nó dứt ngang. Mà ngay từ bây giờ, chúng ta biết dứt được cái thương thì ngay đó nó sẽ dứt, nó không còn nối tiếp nhau nữa, nó không còn nợ nần nhau nữa. 

Cũng như cái pháp ghét vậy, nó cũng như vậy. Cho nên, nó liên tục ở  trong cái nhân quả để mà vay trả trả vay mãi trong cái đời này đến đời khác, kiếp này đến kiếp khác.

Khi mà giảng về cái nhân quả Thầy sẽ giảng lại cái pháp thương, pháp ghét này nhiều. Còn ở đây chúng ta bắt nó niệm Phật, tức là Tứ Bất Hoại Tịnh. Pháp niệm Phật thì chúng ta biến cho nó trở thành tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, để nó trở thành những cái pháp cứu kính nơi tâm hồn của chúng ta.

Đó, như vậy là chúng ta phải biết cách bắt nó niệm Phật để nó chuyển biến, nó trở thành các pháp tốt, không phải là còn các pháp xấu nữa.

“Pháp ghét phải đi đi! Tâm ta luôn luôn phải đề cao cảnh giác, không được ghét ai hết, dù kẻ đó có giết chết ta, ta cũng không được ghét!”

6- KẾT LUẬN THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP NIỆM PHẬT

(01:12:24) Đến đây là chấm dứt Thân, Thọ, Tâm và Pháp niệm Phật.

Nghĩa là chúng ta đã học được một cái bài đầu là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật. Cho nên, cái bài thứ 14 là cái pháp ghét này để biến cho nó trở thành cái pháp hỷ và pháp xả, thì đó là bắt cái Pháp nó niệm Phật. Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật đến đây là chấm dứt rồi.

Chấm dứt rồi thì chúng ta phải biết rằng còn biết bao nhiêu pháp để niệm Phật chớ không phải chỉ có mười bốn cái pháp mà Thầy kê ra. Thầy kê ra mười bốn cái pháp là tượng trưng cho vạn pháp ở trong thế gian này khi đến với tâm ta dù là pháp thiện dù là pháp ác thì chúng ta cũng vẫn bắt nó niệm Phật, chớ không phải chỉ có mười bốn pháp này không.

Do vì vậy mà, chúng ta phải hiểu chớ không phải là, tượng trưng - nếu mà Thầy kê ra hàng trăm hàng vạn pháp, thì chỉ còn có cái nước mà… không bao giờ mà cùng tận này thì chúng ta ngồi nghe nó cũng thành nhảm đi. Cho nên, chúng ta tượng trưng cho một số pháp. 

Rồi từng đó các pháp mà đến với chúng ta là lôi đầu nó vô niệm Phật liền, không có được để nó ở ngoài, để chuyển biến nó trở thành những cái pháp thiện. Những cái pháp làm cho con đường tu hành của chúng ta được giải thoát mà không có bị sự cản trở và cách biệt, làm cho con đường chúng ta tu tập chướng ngại, bất toại nguyện. Chúng ta sẽ khó khăn ở trên bước đường tu tập.

Do đến đây, thì quý thầy lấy mười bốn cái pháp này là tượng trưng mà thôi. Cũng như tất cả những cái Thân, Thọ, Tâm của chúng ta niệm Phật, cũng tượng trưng cho một số để mà lấy đó mà niệm Phật, chớ không phải bấy nhiêu đó là đủ. 

Cho nên, tùy trường hợp xảy đến là chúng ta phải thấy ngay liền, sáng suốt phải nhận ngay liền, biết đó là Pháp, biết đó là Tâm, biết đó là Thọ, biết đó là Thân thì chúng ta bắt nó ngay liền, niệm Phật liền, để được sự giải thoát cứu cánh nơi thân tâm của chúng ta.

7- NIỆM PHÁP LÀ SỐNG NƯƠNG THEO LỜI PHẬT DẠY

 (01:14:29) Bây giờ chúng ta tiếp tục và trau dồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta để mà niệm Pháp. 

Bây giờ niệm Phật rồi, mình lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật rồi, thì bây giờ phải lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, rồi sau này chúng ta mới lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Tăng, rồi sau này chúng ta lại lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Giới.

Bắt đầu bây giờ chúng ta mới qua được một cái giai đoạn thứ nhất. Còn cái giai đoạn thứ hai là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp.

Vậy Pháp là gì?

Hồi nãy pháp ở đây mà chúng ta lấy các pháp là các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh, các cái sự kiện xảy ra, đó là pháp. Còn Pháp ở đây là Tam Quy của chúng ta là Phật, Pháp, Tăng, vậy thì cái Pháp để mà chúng ta ở đây niệm thì nó là cái pháp gì? Cái pháp gì đây?

Pháp là những lời Phật đã dạy.

Đó là cái lời của Phật dạy cho nên gọi là Pháp, cái giới luật của Phật đã dạy đó gọi là Pháp. Cho nên:

Pháp là những lời Phật đã dạy cho chúng ta tu tập, làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi. 

Vậy tất cả Pháp đó là gì? Đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là ba mươi bảy pháp môn tu tập, đưa con người từ phàm phu đến bậc Thánh, chấm dứt đau khổ, sanh tử và luân hồi. 

Ba mươi bảy Phẩm này, ba mươi bảy pháp này còn gọi là ba mươi bảy giới hành. Vì có giới hành ta tu tập mới không phạm giới, nếu không có ba mươi bảy giới hành này thì người tu sĩ đạo Phật hoàn toàn sẽ không giữ giới luật của Phật được.

(01:16:33) Nghĩa là không có ba mươi bảy phẩm trợ đạo này mà làm cái giới hành thì cái người tu sĩ của đạo Phật mà kê ra một cái số giới luật như vậy đó, tức là từ 250 giới cho đến 348 giới, thì chắc chắn là không có một tu sĩ nào mà không phạm giới. 

Nếu không có ba mươi bảy pháp hành này, giới hành này thì chắc chắn là người nào cũng phạm giới hết, không có người nào là không phạm giới.

Và giới luật của Phật chỉ là một giáo điều như các tôn giáo khác.

Bởi vì nếu mà không có ba mươi bảy phẩm trợ đạo này làm cái giới hành thì cái giới luật của Phật nó sẽ trở thành cái giáo điều như các tôn giáo khác. 

Bởi vì cái giáo điều của các tôn giáo khác nó không có cái giới hành, cho nên, nó đưa ra một cái kỷ luật, nó buộc người ta phải giữ gìn như vậy, để đạt, để sống được như vậy là mới có sự cứu cánh, mới có cái sự cảm hóa được các vị trời, mà có thể họ, đến cái ngày mình chết họ sẽ rước mình về cái cõi trời. 

Do những giáo điều đó là khép chặt cái người vào trong cái khuôn khổ đó thì mới được ông trời hoặc là được những đấng vạn năng mới cứu mình ra, đưa mình lên cái cõi hạnh phúc hơn là cõi thế gian này. Đó là những cái giáo điều là như vậy.

Còn ở đây thì Phật không có như vậy, không có phải là ai cứu mình mà chỉ có ba mươi bảy cái giới hành này nó sẽ làm chúng ta sống đúng cái Phạm hạnh, không phạm một cái giới nào mà Phật đã nêu lên mà chúng ta đã thấy. Đó thì nó có khác hơn người ta. 

Mà nếu không có ba mươi bảy cái giới hành này thì cái giới luật của Phật nó sẽ trở thành cái pháp luật của một quốc gia. Nó sẽ biến cái giới luật đó của đạo Phật trở thành một cái bản hiến chương của một nước, chớ không phải còn là cái pháp môn, giới luật để mà chúng ta thực hiện cái đời sống Phạm hạnh giải thoát.

(01:18:33) Cho nên, cái giới luật của Phật mà nếu không có ba mươi bảy cái giới hành này thì nó trở thành khô khan, cằn cỗi và chúng ta không bao giờ có thể đi vào con đường của đạo Phật mà tu được.

Do thế mà ngày nay, Phật giáo đã suy vi tận cùng. Phật giáo chỉ còn là hình thức và danh từ Phật giáo suông, còn nhìn vào thực sự bên trong thì nó nát bét, nó suy đồi tận gốc, người tu sĩ thì không còn biết lối tu hành để đến cứu cánh giải thoát. Thực là đáng đau buồn cho Phật giáo trong thời điểm này.

Rồi đây tiếp tục kế tiếp bao nhiêu thế hệ sai lầm khác, cứ người trước đi sai thì người sau cũng nhẩm theo sai, càng đi thì càng lại xuống dốc, không bao giờ đi lên được.

Nghĩa là chúng ta đã thấy từ khi mà các bậc Thánh Tăng trong thời của Đức Phật, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt thì các Ngài đã thị tịch mất đi rồi, thì cái giới hạnh nó không còn cái người mà nêu lên được, thì sau này các vị tổ, các vị mà tu học theo đạo Phật thì họ lần lượt họ phá giới. Họ sống không có đúng cái giới hạnh của Phật nữa.

Cho nên, họ chế ra những cái loại giới mà làm cho lệch lạc, mất cái lối của đạo Phật đi. Rồi họ viết ra những kinh sách làm cho lệch, rồi cứ từ cái thế hệ này cho đến thế hệ kia, cứ thấy kinh sách đó, cho đó rằng của Phật, rồi họ cứ tu tập ở theo đó.

Nhưng cuối cùng thì nhìn vào tu sĩ hiện giờ mà chúng ta thấy trước mặt chúng ta đều là sống ở trong dục lạc của thế gian. Sống ở trong một cái nơi sống của họ toàn là cái đời thì chẳng ra đời mà đạo thì chẳng ra đạo, nó không ra cái gì hết.

(01:20:31) Cho nên, nhìn thấy như vậy là chúng ta biết rằng cái giới luật của họ bị phạm, vì họ chưa có biết cái pháp hành để cho họ thực hiện cái giới luật. Do đó, họ đi dần cái chỗ sai lệch này đến cái chỗ sai lệch khác. Từ cái chỗ họ đi, thì họ kéo theo một số người đi với họ, cho nên cái sai này đến cái sai khác, mãi mãi mà không cùng tận. 

Rồi đây thế hệ này cho đến thế hệ sau, mà nếu còn người theo đạo Phật thì vẫn còn sai như vậy mãi, chớ không bao giờ hết.

Vì thế ngoài ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Đức Phật còn dạy… 

Chúng ta ngoài ba mươi bảy phẩm trợ đạo này mà Đức Phật còn dạy chúng ta thêm nhiều pháp chớ không phải là có ba mươi bảy phẩm trợ đạo này không.

Chúng ta thấy từ một pháp cho đến mười pháp, Thầy đã giảng cho quý thầy nghe rồi mà, từ một pháp cho đến mười pháp phải như thế nào? Rồi cần phải tu tập, cần phải trau dồi, cần phải tác chứng, cần phải biến tri, cần phải thắng pháp như thế nào? Mỗi pháp đều là phải làm như thế nào? 

Rồi từ mười pháp cho đến trăm pháp Thầy chưa giảng. Thầy mới giảng cho quý thầy từ một đến mười phải không, rồi từ ba cho đến mười, rồi từ hai cho đến mười thì quý thầy mới có học tới đó. 

Thầy chưa giảng từ bốn cho đến mười, từ bốn pháp cho đến mười Thầy chưa giảng. Rồi từ mười cho đến trăm pháp Thầy cũng chưa giảng. Rất là nhiều pháp.

Ở đây muốn nói rằng, lấy thân của chúng ta mà niệm Pháp, tức là tùy nơi cái pháp đó, thì chúng ta phải biết các pháp cho nó rõ ràng rồi chúng ta mới theo cái pháp đó mà cái thân nó sống theo cái pháp đó, đừng có làm trái lại cái pháp mà Phật đã dạy, thì tức là chúng ta sẽ có sự giải thoát thật sự ở trong thân tâm của chúng ta.

(01:22:18) Đó thì, ngoài ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Đức Phật còn dạy từ một pháp đến mười pháp cần phải tu tập, cần phải trau dồi, từ mười pháp đến trăm pháp cần phải tu tập, cần phải trau dồi và năm loại thiền định:

Đó thì, quý thầy thấy không, nội những cái pháp đó nó như vậy rồi đó mà Đức Phật còn dạy cho chúng ta năm loại thiền định nữa, chớ đâu có phải nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo đó, từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đó là xong đâu, đâu phải. Còn năm cái loại thiền định nữa. 

Vậy thì năm loại thiền định như thế nào? Bởi vì Thầy tổng kê ra đây cho các thầy thấy cái số pháp của Phật dạy chúng ta rất nhiều chớ không phải ít. Cho nên, đến chúng ta lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà niệm Pháp, phải hiểu các pháp nào mà Phật dạy. 

Cho nên, đây là các pháp Phật đây:

  1. Định Niệm Hơi Thở
  2. Định Vô Lậu
  3. Định Chói Sáng 
  4. Định Chánh Niệm Tỉnh Thức

Tức là tỉnh giác đó.

  1. Định Hiện Tại An Lạc Trú.

Đó là năm cái loại định. Rồi Đức Phật còn dạy gì nữa? 

Dạy ta phòng hộ sáu căn.

Mà Phật còn gọi là Thánh phòng hộ sáu căn đó. 

Dạy ta cách thức ăn, ngủ, nghỉ.

Nghĩa là Đức Phật dạy mình ăn uống như thế nào nè, rồi ngủ nghỉ như thế nào nè, đầu hôm ngủ làm sao, khuya thức nửa đêm như thế nào, rồi khuya phải dậy làm sao, Đức Phật dạy rất kỹ, đó là những pháp. 

Rồi dạy thân ta hành niệm.

Gọi là Thân Hành Niệm đó, đọc lại cái bài Thân Hành Niệm chúng ta thấy Phật dạy rất kỹ từ ở trong cái hành động của cái thân của chúng ta như thế nào để mà tu. 

Đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải hiểu. Như vậy là Thầy kê ra ở đây, rồi sau này mà dạy về ba mươi bảy phẩm trợ đạo này tức là ba mươi bảy cái pháp hành này, cái giới hành này, thì tức là tới cái chỗ nào đó Thầy sẽ dạy cái chỗ đó rất kỹ ra để cho quý thầy thấy rằng khi chúng ta hành ra thì phải cái thân hành ở chỗ nào, cái đặc tướng của thân hành, rồi cái ý hành, cái khẩu hành, rồi cái khẩu hành nội, cái khẩu hành ngoại, rồi cái thân hành nội, thân hành ngoại của mình. Cho nên, dạy ta rất kỹ là Thân Hành Niệm.

Rồi còn dạy ta đặt niệm trước mặt.

(01:24:21) Cách thức đặt niệm như thế nào? 

Rồi còn dạy ta dùng tưởng quán bất tịnh.

Dùng cái pháp tưởng để mà quán. Tất cả những cái này Phật dạy rất đầy đủ ở trong kinh, không có chỗ nào thiếu.

Rồi còn dạy ta tịnh chỉ các hành ở trong thân.

Tịnh chỉ các hành ở trong thân để chúng ta thực hiện được Bốn Thiền và cái Diệt Thọ Tưởng Định. Nhập Sơ Thiền thì phải tịnh chỉ cái gì, Nhị Thiền tịnh chỉ cái gì, Tam Thiền tịnh chỉ cái gì, Tứ Thiền tịnh chỉ cái gì, Phật dạy rất kỹ, đó là những cái pháp.

Rồi dạy ta pháp hướng.

Để tu tập theo như cái lý mà tác ý ra, hướng như thế nào để dẫn tâm chúng ta vào đúng cái vị trí của cái pháp đó để mà chúng ta đạt được cái kết quả như cái ý muốn của mình. Đó là dạy chúng ta những cái pháp hướng.

Dạy ta dẫn tâm đến chỗ Tam Minh.

Còn cái pháp hướng dạy chúng ta như thế nào để mà chúng ta tác ý ra cho đúng, rồi dạy chúng ta dẫn tâm đến Tam Minh như thế nào, thì trong khi dạy về Tam Minh Thầy mới dạy về cách thức dẫn tâm, chớ không phải là ở trong định đó rồi chúng ta… 

Cái trạng thái của định đó nó như thế nào? Biết nó như thế nào đâu mà gọi là dẫn tâm? Cho nên, do vì vậy mà phải có cái sự hướng dẫn cụ thể để cho chúng ta biết được, lúc bấy giờ chúng ta dẫn tâm đến Tam Minh như thế nào.

Rồi dạy ta dùng hơi thở tịnh chỉ ý hành nhập Diệt Thọ Tưởng Định. 

Đức Phật lại còn dạy mình dùng cái hơi thở, thay vì bây giờ nhập Tứ Thiền hơi thở ngưng rồi, vậy mà ông còn bảo mình phải lấy cái hơi thở để rồi mình sẽ tịnh chỉ thọ và tưởng, tức là ý hành, để mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Rồi dạy ta thiện xảo nhập định Vô Tướng. 

Dạy cách thức chúng ta phải thiện xảo nhập vào cái Định Vô Tướng nữa. Thì những cái này làm sao là không phải là cái Pháp? Cho nên, nêu ra tất cả những cái pháp này để chúng ta biết, sau này mà Thầy dạy cho các thầy biết cách thức mà chúng ta tu tập để mà chúng ta nhập vào các cái định Vô Tướng.

Dùng danh từ thiện xảo. 

(01:26:17) Thiện xảo như thế nào? Có ai mà giải thích ra được! Chỉ có những người người ta có hành trì người ta mới biết được cái thiện xảo đó.

Dạy ta bất động trước các pháp, trước sức chịu đựng của toàn thân trong cái thọ.

Nghĩa là cái thọ chúng ta đến đỗi như thế nào đó, mà nó đau khổ đến như thế nào đó, mà cái sức chịu đựng của thân chúng ta đến cái mức cuối cùng của nó, để rồi dạy cho chúng ta phải giữ cái tâm bất động như thế nào, để rồi cái thọ nó không làm cho chúng ta đau khổ mà nó trở thành cái sự mát lạnh ở trong thân tâm của chúng ta.

Đó là Thầy nói là những cái bí quyết, là những cái hành pháp, những cái giới hành mà chúng ta không thể nào mà bỏ qua những cái điều này được, mà cần phải có cái sự hiểu biết rất rõ, biết hành rất cụ thể thì chúng ta mới thấy được cái sự làm chủ của đạo Phật cụ thể và rõ ràng.

Ở trên đây, Thầy kể sơ lược các pháp mà Phật đã dạy để cho chúng ta thấu rõ, khi rõ thấu các pháp rồi thì dạy ta phải dùng pháp mà sống, mà trú, mà trau dồi hay là dứt bỏ. Phải làm đúng y như pháp, phải sống đúng y như pháp, phải trau dồi đúng y như pháp, phải tu tập y như pháp.

Đó là tất cả những cái mà các pháp nó đã nêu lên rồi, thì bắt đầu cái pháp nào bảo chúng ta vứt bỏ thì chúng ta vứt bỏ, cái pháp nào bảo chúng ta sống đúng thì chúng ta phải sống đúng, các pháp nào bảo chúng ta trau dồi thì chúng ta trau dồi, mà các pháp nào bảo chúng ta tu tập thì chúng ta tu tập.

Chớ không được pháp này tu lộn xộn qua pháp khác, không được! Pháp nào phải làm theo đúng các pháp đó thì như vậy là chúng ta sẽ có sự giải thoát, chớ không phải chung chung đâu.

Những điều làm đúng như vậy Phật gọi là tùy pháp…

Tức là những cái điều mà chúng ta làm, sống đúng như các pháp mà Phật đã dạy ra đó, thì Đức Phật gọi tắt nó là tùy pháp.

…hay là nương pháp. 

Nghĩa là mình theo cái pháp đó gọi là tùy, mình sống đúng cái pháp đó gọi là tùy, mình nương mình dựa vào cái pháp đó để cho mình không có làm sai nó gọi là tùy pháp.

Khi hiểu biết như vậy đó là ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh.

Ta tu cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh đầu tiên, lấy các cái pháp đó mà chúng ta bắt nó niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

(01:28:44) Bây giờ đến giai đoạn lấy Thân niệm Pháp. 

Lấy cái thân của chúng ta niệm Pháp. Bây giờ chúng ta đã hiểu các pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta phải lấy cái thân của mình mà niệm pháp.

Vậy Thân niệm Pháp như thế nào?

Nghĩa là Pháp dạy về thân hành như thế nào thì ta phải tu tập đúng như thế nấy, thì gọi là lấy thân mà niệm Pháp, hay còn gọi là lấy thân mà tùy Pháp, cũng còn có nghĩa là lấy thân mà nương tựa Pháp.

Đó thì chúng ta phải hiểu, khi mà chúng ta lấy cái thân mà chúng ta niệm Pháp thì chúng ta phải hiểu nó là lấy thân tùy với cái Pháp, mà lấy thân sống với cái Pháp, nương tựa vào cái Pháp đó. Đó là chúng ta đã lấy cái thân mình niệm Pháp đó.

Như vậy là chúng ta mới thấy cái chỗ giải thoát, lấy cái thân của chúng ta mà niệm Pháp thì cái thân nó sống đúng y như Pháp, nó không có trật. Mà không có trật thì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn, đến thì ngay có liền.

Ví dụ Phật bảo xả đời sống thế gian vui ít, khổ nhiều, không phóng khoáng như hư không và bị biết bao nhiêu dây thương, ghét trói buộc. Còn đời sống xuất thế gian thì phóng khoáng như hư không, không bị trói buộc, đời sống thiểu dục tri túc, giải thoát Niết Bàn hoàn toàn.

Đức Phật nói bây giờ là Phật dạy phải buông xả, buông xả thì các pháp đó mình buông xả như thế nào? Thì Phật phân biệt cho chúng ta thấy cái đời sống thế gian thì nó trói buộc, nó nhiều sự khổ đau, còn cái đời sống xuất thế gian thì nó phóng khoáng như hư không, nó không còn bị trói buộc. Chỉ có sống tri túc thiểu dục là chúng ta đã thấy được Niết bàn ngay liền.

Đó cái lời nói như vậy, mà bây giờ chúng ta bỏ được gia đình, vợ con, bỏ được của cải, tài sản lớn tài sản nhỏ, bỏ hết, chúng ta đi vào một cái lối gọi là đời sống xuất thế gian, thì như vậy đó gọi là xả.

Cái pháp bảo xả mà chúng ta không chịu xả mà chúng ta cứ sống với vợ, với con, với cha, với mẹ, với anh em, thì ông Phật bảo xả mà mình không xả thì thôi cái chuyện đó rồi rồi, bây giờ có muốn tu Phật thì chẳng qua là cứ lạy Phật cho sói cái đầu đó thôi, rụng hết tóc chớ còn chẳng có rụng cái tâm chút nào đâu. 

(01:30:58) Cho nên, tóc thì rụng hết, lạy tối ngày thì nó rụng đó, nó bạc đầu đó, nhưng mà cái tâm giải thoát thì nó không có bạc đâu, mà nó không có rụng đâu, nó vẫn còn đó.

Mà nếu Phật bảo, Phật dạy cái pháp là phải xả, thì bây giờ chúng ta xả là chúng ta bỏ nó ra đi, chúng ta đừng có chấp nó nữa, đừng có dính nó nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta trở về một cái đời sống xuất thế. Mà đời sống xuất thế thì phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không còn cái gì mà trói buộc chúng ta nữa.

Do đó thì phải biết, không có nghĩa là bây giờ chúng ta nghe nói vậy rồi về nạt nộ vợ con: “Mày là tội báo, nhà này là oan gia nè. Tụi bây là báo tao nè, cho nên tao bị sanh tử luân hồi hoài hoài!” Chửi vợ chửi con cho đã, kiểu đó không phải đâu.

Ông Phật nói mình sắp xếp như thế nào để cho cái cuộc sống của mình, bởi vì cái nhân quả của mình mà mình về đó mình chửi vợ chửi con: “Tại tụi bây mà báo tao trôi lăn trong sanh tử!” Đâu phải vậy. 

Nếu mà hồi đó mình không có tâm ham muốn thì làm sao mình cưới vợ, rồi làm sao đẻ con? Mình không có tâm ham muốn làm giàu làm có làm sao bây giờ có nhà có cửa, mà bây giờ nói nó là tội báo, oan gia? Tại mình hết chớ sao lại đổ thừa người ta? Cho nên, cái đó cũng là cái sai.

Cho nên, ở đây về mình phải suy nghĩ nhân quả nghiệp báo phải trả, phải làm sao mà giải quyết cái đời sống của mình cho ổn thỏa, cho nó yên ổn, rồi vợ con nó cũng được an vui và đồng thời cũng hướng dẫn cho nó hướng về cái đạo pháp để cho nó được thoát ra khỏi cái thân phận làm con người nhiều đau khổ, nhiều trói buộc, mỗi lần một chút chút, cả vợ con đều hướng về đạo Phật giải thoát toàn bộ. 

Trong lúc đó mình là bổn phận cái người cha ở trong gia đình thì làm sao cho vợ con, con cái của mình đều là hướng đến Phật pháp. Đừng có để cho nó trôi lăn ở trong những cái dục lạc của thế gian mà nó sanh ra cái đau khổ vô cùng, vô tận.

Đó gọi là mình giải quyết cho gia đình của mình, chớ không phải về đó mình điểm mặt vợ, điểm mặt con, mình nói là tội báo oan gia đó thì cái điều đó Phật không có dạy đâu, mà chính chúng ta phải về độ hết cả gia đình của mình đi theo con đường tu hành. 

Rồi mình ráng mình nỗ lực để cho mình tu tập, mình làm gương tốt, mình làm cái gương hạnh tốt để mình độ cho vợ, cho con, cho tất cả mọi người và những bà con thân thuộc anh em của mình đều hướng về Phật pháp tu giải thoát.

Muốn được như vậy thì theo Thầy nghĩ rằng chúng ta phải sáng suốt và cẩn thận. Đó là chúng ta tùy theo cái pháp buông xả mà Phật đã dạy cho nên chúng ta còn một cái đời sống xuất gia mà thôi./.

 

HẾT BĂNG

 


Trích dẫn - Ghi chú - Copy