SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - CÁCH TRẠNG THÁI THIỀN ĐỊNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 2000
Thời lượng: [1:32:58]
Tên cũ: 2000-Sư Phước Nhẫn Vấn đạo - 2
(00:00) Trưởng lão: Bởi vậy mới thấy được cái phương pháp của Phật nó từ cái thấp cho đến cái cao chứ, mới đầu thì nó tự kỷ ám thị hết, thật sự ra mình tác ý: “Cái tâm như cục đất ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si là khổ, mai mốt không có giận nữa nha”, đó là mình ám thị cái tâm của mình, để khi nó có xảy ra cái chuyện gì đó, thì ngay đó nó tác ý ra nó làm cho tâm mình nó giảm đi cái phiền não, không còn đau khổ nữa, đó là cái ám thị nó có kết quả hẳn hòi.
Như cái thân mình đau này: “Cái thọ là vô thường này, cái tay đau phải đi đi không có được ở đây”. Thì mình tác ý như vậy thì nó vẫn đẩy lui được cái thọ đó, nó vẫn hết đó nhưng mà đó mới tự kỷ ám thị thôi. Nhưng mà Trạch Pháp Giác Chi nó xuất hiện rồi, cái thọ này nó vừa ra lệnh một cái là không thấy còn nhức, còn cái kia nó còn nhức, kéo dài một thời gian năm, mười phút rồi nó hết. Còn cái Trạch Pháp Giác Chi mà nó xuất hiện đó, tức là cái lệnh đó, lệnh bảo đứng, đi, ngồi nó làm đó, bảo hết là hết liền tức khắc.
(0:56) Cái thọ không có làm chủ được nó đâu nó làm chủ, nó hoàn toàn cái lệnh nó mạnh lắm, nó màu nhiệm đến cái sức màu nhiệm mình không ngờ được. Đó là cái chỗ mà tu cái Thân Hành Niệm mà bắt đầu vô mà ra lệnh từng ra lệnh của nó, đó là tập luyện Trạch Pháp Giác Chi chứ không phải là gì hết, để cho nó xuất hiện cái Trạch Pháp Giác Chi. Nếu mà không luyện cái này không Trạch Pháp Giác Chi, không vô. Mà nhờ cái này nó mới có cái sức định tĩnh, mà nhờ tác ý nó có sức định tĩnh, chứ nếu mà không tác ý không định tĩnh nổi.
Sư Phước Nhẫn: Như Lý Tác Ý giai đoạn đầu là ám thị?
Trưởng lão: Ám thị từng cái.
Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn thứ nhì kêu bằng cái gì Thầy?
Trưởng lão: Giai đoạn thứ nhì nó mới là pháp Như Lý Tác Ý, mới Như Lý Tác Ý thật sự của Phật đó. Cho nên, đức Phật gọi là Như Lý Tác Ý là gọi chung thôi, chứ nó phân hai giai đoạn.
Sư Phước Nhẫn: Dục Như Ý Túc phải không Thầy?
Trưởng lão: Như Ý Túc đó.
Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Nó Dục Như Ý Túc đó, đó là như ý túc rồi, nó thành ra Tứ Như Ý Túc đó, tức là cái giai đoạn hai nó là Tứ Như Ý Túc rồi. Tứ Như Ý Túc.
Sư Phước Nhẫn: Cái bài kinh này con thấy nó cũng như cái bài kinh hồi nãy, bài kinh Tương Ưng thấy bên này nói, thì bên này nói vậy hai cái nó đụng với nhau.
Trưởng lão: Bởi vậy cho nên nếu mà mình đọc mà mình không hiểu, nhiều khi cái người mà nó kết tập kinh sách đó, hầu như là cái người sau kết tập, người mà chưa chứng đó nên nó lộn xộn. Thay vì cái bài kinh này phải nói, nhắc cho người ta ở cái giai đoạn đầu. Còn cái này nó đưa vào chỗ này mình không biết cái bài kinh này nó nằm ở cái giai đoạn nào của trong ba giai đoạn tu cái Tứ Niệm Xứ này, thành ra mình lộn xộn, mình không biết, phải không?
Cho nên vì vậy mà cái thí dụ như cái bài kinh này, ở trong Tương Ưng nó nói cái bài kinh này, nếu một người có kinh nghiệm thì người ta biết, ờ cái bài kinh này đức Phật muốn nói là mình giai đoạn mình tu Tứ Chánh Cần. Còn cái bài kinh này đức Phật nói ở trong cái chỗ này đây là cái giai đoạn tu Tứ Niệm Xứ. Cái người có kinh nghiệm người ta biết, còn cái người không kinh nghiệm, dường như nó mâu thuẫn, dường như nó đối chọi nhau.
Sư Phước Nhẫn: Cảm thấy nó kỳ.
Trưởng lão: Nó kỳ. Chứ không ngờ là người ta ở trong cái giai đoạn nào, thì nó có những cái cách thức tu của nó như vậy, cho nên đức Phật mới nhắc nó chỗ đó.
Sư Phước Nhẫn: Trong một bài kinh mà đức Phật nói một niệm khởi lên thì mình Như Lý Tác Ý.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Đó là cái pháp hành. Trong cái bài kinh ở Tương Ưng này thì nói, Như Lý Tác Ý là tập hợp các pháp.
Trưởng lão: Ừ. Thế hay…
Sư Phước Nhẫn: Tập hợp các pháp, là pháp nó bao vây rồi mình sao tu?
Trưởng lão: Thì đó, thì bắt đầu bây giờ mình tác ý ra để nó tập hợp các pháp chứ gì? Nhưng mà trái lại mình tác ý ra, tức là nó… Tuy rằng nó không có vô được, nó không có xâm chiếm mình được, nó tập hợp lại các pháp nhưng mà nó xâm chiếm không được, mình tác ý là mình động rồi, cho nên nó tập hợp các pháp. Nhưng mà không tác ý thì coi như nó xâm chiếm, mà tác ý nó bao vây chứ nó không xâm chiếm mình được, nó ở ngoài.
Bởi vì mình tác ý là động rồi, còn nếu ngay đầu tiên đó mình không tác ý đó thì tức là mình tịnh đó, thì chúng nó sẽ đánh mình. Khi mà nó đánh mình thì mình không có chỗ đòn đỡ, nhờ cái pháp tác ý đó mà nó bao vây ở ngoài, chứ còn nó không có tác ý động được mình. Cho nên hai cái, cho nên mình nếu mà không hiểu đó, thì coi như là mình không biết cách thức nào mà tu tập được hết.
Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Hết rồi chưa?
(04:02) Sư Phước Nhẫn: Còn. Cái này con hỏi lại Thầy, cái diễn tả trạng thái Sơ Thiền đó. Là thứ nhất là tâm định trên hơi thở, con thấy cái hơi thở nó tự động, trong lúc đó mình đang thở bình thường, tự nhiên lúc đó cái hơi thở nó tự nhiên nó tự động. Mình không có thở mà mình thấy nó sượt vô cái ra mình thấy tự động liền. Cái đó đúng không Thầy?
(04:21) Trưởng lão: Không. Bởi vì con dẫn tâm lên trên hơi thở. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, mà bây giờ mình biết hít vô thở ra tự động, tự động rồi thì mình không tác ý, thì tức là mình cũng sai rồi đó. Bây giờ mình dẫn nó trong năm hơi thở hay là mười hơi thở, thí dụ năm hỏi thở thì mình dẫn nó, mình chỉ cần mà chú ý cái hơi thở, coi thử coi cái nó có biết hơi thở hay không thôi, hoàn toàn là không cần biết gì nữa hết. Còn nó mà nó thay đổi thì không được, mà khi mà nó thay đổi là tới cái đề mục thứ hai, thì mới được.
Sư Phước Nhẫn: Còn nếu cái thứ nhất là tâm định trên hơi thở là chỉ xả đó hả Thầy?
Trưởng lão: Tâm định trên hơi thở là khi mà tu Tứ Niệm Xứ mới thấy nó định trên hơi thở, chứ còn bây giờ thì không có…
Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái đó là sao Thầy?
Trưởng lão: Cái trạng thái của nó là bao giờ nó cũng khinh an, nhẹ nhàng, nó an ổn hết thì nó mới là…
Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái hơi thở nó sao Thầy?
Trưởng lão: Hơi thở thì nó thông suốt lắm, nó nhẹ nhàng, nó thông suốt lắm. Là khi đó đó, mình sẽ tu tới cái đề mục thứ hai của Định Niệm Hơi Thở mới thấy được cái hơi thở này.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì con thấy như thế này, con thấy nó nhẹ nhàng, nó thông suốt mình biết, mình biết thở đàng hoàng mà mình không có chú ý nó, mà mình thấy mình bị ghịch vô đó.
Trưởng lão: Nó bị ghịch vô đó là Tứ Niệm Xứ rồi, cái tâm nó định vô hơi thở.
Sư Phước Nhẫn: Mình bị ghịch vô đó (Không nghe rõ). Dạ. Con bị nghịch vô đó, thấy thở vô thở ra, thở vô thở ra mình hoàn toàn yên ổn lắm.
Trưởng lão: Ừ. Đó là nó định hơi thở. Nhưng mà trong cái giai đoạn này là giai đoạn Tứ Niệm Xứ, chứ còn Định Niệm Hơi Thở thì nó chỉ cái chỗ mình dẫn vô cái: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài” đó, tức là nó thông suốt mà hơi thở dài hoặc là nó thông suốt trong hơi thở ngắn. Thì nó thông suốt tức là tự động nó có ra vô rồi, thì tức là mình đã đề mục này, đã mình đạt được rồi.
Sư Phước Nhẫn: Chỉ mới cách đây ba năm con có ngồi trên cái băng đó, tự nhiên cái nó vô, tự nhiên nó ghịch, ghịch vô.
Trưởng lão: Ghịch vô, tức là nó định lên trên hơi thở.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Nó thở vô, thở ra, thở vô, thở ra mình biết nó thở vô, thở ra nhưng mà mình rất an ổn.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Và nó kéo dài và lúc đó không có phóng tâm.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Không có phóng niệm nữa.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Lúc đó cũng không bị phóng dật nữa.
Trưởng lão: Nhưng mà nó lưu ý cái phần này nữa, Thầy nhắc phần này nữa, trong cái thời gian đó nó thông suốt như vậy đó, bắt đầu cái hơi thở nó nhỏ nhiệm lần, nếu mà kéo dài cái thời gian mà nó không niệm, không gì hết đó thì bắt đầu nó thay đổi hơi thở.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy nó cứ y vậy.
(06:25) Trưởng lão: Nó thông suốt. Nếu nó y thì đúng, mà nó thay đổi thì là nó lọt vô thiền tưởng rồi, tưởng thức rồi, nó thay đổi, nó chậm nhẹ, chậm nhẹ, lần lần nó chậm nhẹ, chậm nhẹ. Và nó càng chậm nhẹ thì nó lại càng an ổn nhất, nó an ổn nhất tức là bị rơi vào xúc tưởng hỷ lạc.
Thay vì đầu tiên thì nó thông suốt và nó ra vô đều đều vậy đó là đúng, thì chúng ta bỏ nó đi chúng ta đi tới cái giai đoạn khác, chứ nếu mà chúng ta kéo dài cái trạng thái này ra thì chúng ta sẽ bị định tưởng. Cho nên, khi mà nó thông suốt rồi thì từng ba mươi phút thôi chứ trên ba mươi phút là không được, nghĩa là nó thông suốt đó mà kéo dài một tiếng đồng hồ là bị rơi rồi, trật rồi, đi trật đường rồi, không đúng rồi.
Cho nên, khi mà cái định niệm mà hơi thở đức Phật nói: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”, nó thông suốt rồi đó, là cái chỗ thông suốt của hơi thở rồi đó nhưng mà không được kéo dài đâu, thay đó, lúc bây giờ đó thì chúng ta mới: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân…”, tức là thay đổi liền chứ không có ở chỗ này để thông suốt đâu. Cho nên, khi mình hít vô cái hơi thở nó thông suốt đó thì mình có cái cảm giác toàn thân nó mới dễ, hiểu chưa? Còn nó chưa thông suốt đó mình cảm giác rất khó á.
Thầy nói từng cái kinh nghiệm này rồi tu tập, rồi tới thấy biết mà, nó hay lắm chứ không phải không. Bây giờ dẫn nó vô được cái hơi thở thôi chứ chưa, nó chưa có thông suốt cái hơi thở đâu. Sau khi cái đề mục thứ hai đó, mới là thông suốt hơi thở tức là tự động rồi đó hơi thở ra vô, nó dài là nó dài mà nó nghe nhẹ nhàng, nó an ổn lắm rồi thì bắt đầu xả liền, không được kéo dài thêm cái này nữa. Tức là, đạt được cái kết quả này rồi thì lấy kết quả của cái trạng thái thông suốt của hơi thở này thì tu tới cảm giác toàn thân. Dùng cái cảm giác với cái hơi thở đó, chứ không phải cảm giác cái hơi thở mới dẫn vô, đó phải hiểu. Mà khi có cảm giác rồi đó, có cảm giác rồi đó thì mới: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô”.
Con thấy cái đề mục tuần tự nó đi từng giai đoạn của nó để mà nó vô không? Có nhận thấy cái Định Niệm Hơi Thở mà từng cái đề mục của Phật dạy đó, nó đi vô, khi mà cái cảm giác được rồi thì cũng không ở trong cảm giác. Nếu mà cảm giác này mà nếu mà chúng ta ở chúng ta kéo dài thì nó sẽ sinh ra cảm giác của tưởng nữa, nó không có yên ở chỗ này đâu mà nó đưa ra những cái loại tưởng ra, nó không do mình dẫn mà nó hiện ra.
(08:33) Cho nên vì vậy mà khi mình nhận ra được cảm giác hít vô, mình cảm giác được từ dưới chân lên đỉnh đầu mình rồi, thở ra cũng vậy rồi thì bắt đầu thay đổi đề mục liền, tức mình đạt được kết quả đó rồi thì mình thay đổi. Thay đổi thì nó an tịnh, rồi cảm giác toàn tâm, rồi cảm… An tịnh tâm hành, lần lượt cho tất cả những cái này nó hoàn toàn mình đạt được kết quả rồi thì mới quán ly tham, quán ly sân.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái lúc mà cái mình luyện hơi thở nó tự động, mà nó không thay đổi nó y như vầy, lúc đó cái trạng thái thân mình nó bừng sáng, nó nhẹ nhàng lắm, rất là bình thường không có gì khác hết trơn hết. Nó kéo dài thời gian cái … xả bỏ rồi cái trạng thái đó.
Trưởng lão: Mất.
Sư Phước Nhẫn: … cái máy tự động như vậy. Cái đó là trúng hay trật hả Thầy?
Trưởng lão: Trúng không trật, cái đó đúng nhưng mà điều kiện là phải tới đó thôi chứ đừng có dài nữa. Thì…
Sư Phước Nhẫn: Con định ngồi suốt ngày nữa…
Trưởng lão: Ôi! Trời! Trời! Không có được đâu. Đừng, cái đó là nó sẽ đi chết.
Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Không có được. Mà ngồi suốt ngày là tiêu.
Sư Phước Nhẫn: Trạng thái như vậy là định sâu, là không phóng dật. Trong lúc mình không phóng dật là lúc đó định sâu hả Thầy?
(09:53) Trưởng lão: Cái tâm là không phóng dật đó là cái tâm mình bất động, nó mới không phóng dật, chứ không phải là định, mà cái tâm định, chứ không phải là lúc bấy giờ mình định sâu. Không phải sâu đâu.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì bữa hổm Thầy có nói bằng bài kinh, khi mà mình định vô sâu rồi đó nó không phóng dật nữa, nó nhập cái Sơ Thiền đó.
Trưởng lão: Ờ thì đúng rồi, muốn nói định sâu không có nghĩa là mình ngồi đó hay hoặc là mình nhiếp tâm này kia đâu, mà phần nhiều đó là Thầy muốn nói định sâu là Thầy muốn nói cái tâm mình định, định sâu là nghĩa nó ly dục ly ác pháp hết rồi, nó bất động tâm đó. Thì bắt đầu bây giờ nó định sâu, nó không phóng dật đó là tại vì lúc bấy giờ nó định tỉnh rồi, cho nên mọi tiếng động, mọi cái các pháp bên ngoài tác động nó, nó không phóng ra, thì lúc nó bất động tâm nó mới đi được như vậy, cho nên nó gọi là định sâu, định sâu là tâm định chứ không phải thân mình định đâu.
Cho nên Thầy muốn nói cái này cho rõ ràng đó, để không khéo người ta hiểu một cách không đúng đó. Người ta định sâu, người ta tưởng đâu là ngồi suốt cả ngày nó định sâu thì… Có nhiều người người ta nghĩ rằng mình ngồi nhiều nó sẽ định sâu, cái đó sai mất rồi. Cái này không, định sâu có nghĩa là trong vòng một phút, mười phút, mười lăm, hai mươi phút mà cái tâm định sâu là cái tâm không phóng dật, có nghĩa là nó bất động, các pháp nó tác động mà nó không có lưu ý ra ngoài nữa, thì đó là định sâu. Hiểu như vậy là mới hiểu đúng đó.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái người ở trạng thái Sơ Thiền là sinh hoạt bình thường?
Trưởng lão: Bình thường.
Sư Phước Nhẫn: Hay là mình ngồi xếp bằng?
Trưởng lão: Nghĩa là nó có ba cách của nhập Sơ Thiền, ba cách Sơ Thiền.
Cách thứ nhất là đức Phật nói thiện xảo nhập định, kêu là mình khéo léo đó để mình ly dục ly ác pháp, thì cái đầu tiên mình vào được cái trạng thái hỷ lạc của cái Sơ Thiền. Tức là bây giờ Thầy ngồi đây, Thầy: “An tịnh thân hành”, “An tịnh tâm hành” đó thì Thầy có cái trạng thái hỷ lạc rồi, thì đó là Thầy khéo léo Thầy nhập định.
Rồi bây giờ khéo léo để an trú. Bây giờ, Thầy kéo dài được cái trạng thái đó ra trong một tiếng, hai tiếng hay nửa tiếng đồng hồ thì gọi là an trú, khéo léo an trú, thiện xảo an trú trong định.
Rồi bây giờ đó, Thầy lại thiện xảo để sống trong định, bây giờ Thầy xả ra Thầy sống, vẫn cái trạng thái hỷ lạc có, cho nên coi như là luôn luôn Thầy sống ở trong cái Sơ Thiền. Có đúng không?
Phật dạy mà: Thiện xảo nhập định, Thiện xảo an trú trong định, Thiện xảo sống trong định. Ba cái điều kiện thiện xảo của người ta mà, chứ không phải là, con có thiện xảo con mới vào được, chứ con không thiện xảo con không… Mỗi thiện xảo phải tu tập pháp nào nữa.
Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn hai của Sơ Thiền.
Trưởng lão: Ừ đó.
Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn ba là gì?
(12:16) Trưởng lão: Giai đoạn ba là giai đoạn mới sống ở trong cái Sơ Thiền đó, nghĩa là giai đoạn ba là giai đoạn để mà tập luyện, để mà thiện xảo, để mà sống trong định đó, sống trong Sơ Thiền đó.
Sư Phước Nhẫn: Vậy tóm lại ba giai đoạn hả Thầy?
Trưởng lão: Ba giai đoạn đó.
Sư Phước Nhẫn: Thứ nhất là mình ngồi.
Trưởng lão: Thứ nhất là nhập vô, thiện xảo nhập vô đó. Thứ hai đó là thiện xảo an trú kéo dài thời gian ra, là giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ ba là sống ở trong định. Đó là ba giai đoạn, có những cái phương pháp để mà mình thiện xảo chứ.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình vô Sơ Thiền là mình sống bình thường, mình vẫn đi tới, đi lui hoài.
Trưởng lão: Đi tới, đi lui nhưng mà…
Sư Phước Nhẫn: Không có ngồi.
Trưởng lão: Tâm rất là an lạc. Tầm tứ người ta đủ mà nhưng mà tầm tứ thiện không ác, không ai làm động tâm họ được hết, cho nên họ thiện xảo chứ không phải là không thiện xảo đâu, mới an trú mới sống ở trong đó được chứ còn không thiện xảo là không sống trong đó được.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy mình đi tới đi lui vậy là có người lại tiếp duyên với mình, là mình có bị phóng dật không Thầy?
Trưởng lão: Không. Không phóng.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó không phải là phóng dật?
Trưởng lão: Không phóng dật. Bởi vì đó là tầm… Mình còn tầm tứ mà, cho nên cái tầm tứ của mình hoạt động, chứ không phải là mình phóng dật đâu.
Sư Phước Nhẫn: Như không thì là thôi.
Trưởng lão: Ờ như không…
Sư Phước Nhẫn: Bị phóng dật. Còn có người lại nói chuyện với mình, yêu cầu mình làm cái gì.
Trưởng lão: Ờ. Yêu cầu mình làm gì đó mình làm, mình hoàn toàn, mình trả lời này kia, tất cả mọi chuyện hết, sau đó tầm tứ của mình xong rồi thì tâm mình nó trở về liền. Trở về cái trạng thái bất động của nó liền, tức là cái trạng thái hỷ lạc của nó liền, nó không mất.
Hồi nó tác động ra vẫn hỷ lạc nó, tầm tứ nó vẫn có đó mà cái hỷ lạc nó vẫn có, nó tác động ra, nó giải quyết. Thí dụ như bây giờ con hỏi Thầy gì đó, mà Thầy sống ở trong cái Sơ Thiền rồi, thì cái hỷ lạc của Thầy không mất, mặc dù là Thầy giải quyết cho con cái này kia, nhưng mà thân và tâm Thầy nó khinh an, nó hỷ lạc, hoàn toàn nó đầy đủ ở trong này chứ nó không mất. Còn con nếu mà người ta lôi ra cái nó mất liền à.
Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái Sơ Thiền nó ở với mình suốt đời hay là có một lúc đó thôi Thầy?
Trưởng lão: Suốt đời đó. Suốt đời coi như là cái thế giới mà Phật nói là Sơ Thiền Thiên đó, nếu mà nhập ở trong cái Sơ Thiền, thì cái Sơ Thiền Thiên nó suốt đời mình sống ở trong đó thôi. Cho nên, khi mà cái người nhập Sơ Thiền là cái cuộc sống người ta rồi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy sao có cái bài kinh đức Phật nói là sau khi ông giảng một bài pháp xong, cái ông trở về ông ở trong trạng thái Sơ Thiền lại? Như vậy lúc ông giảng pháp là không ở trạng thái Sơ Thiền?
(14:02) Trưởng lão: Ngày nào có ở trạng thái Sơ Thiền, nhưng mà khi mà mình động là coi như là không ở, chứ sự thật nó ở trong đó à. Bởi vì nó tầm tứ nó có ở trong đó tầm tứ, không lẽ bây giờ tầm tứ hoạt động cái nó mất cái hỷ lạc của người ta sao? Người ta cũng vẫn còn nhất tâm của người ta, luôn cái năm chi thiền của người ta có mà. Rồi mình giảng rồi cái mình trở lại thì cái điều đó là cái điều không đúng rồi, Thầy không tin cái điều đó đâu, Thầy biết. Nghĩa là khi mình bị động mình mất thôi, như là phàm phu rồi sao? Không có đâu.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì nói sau khi giảng bài kinh đó rồi, đức Phật trở lại cái trạng thái Sơ Thiền là thân sống lâu là không có chết. Ý muốn nói vậy đó, nghĩa là, con muốn hỏi là như vậy là trong lúc mà giảng đạo, nghĩa là không ở trạng thái Sơ Thiền sao?
Trưởng lão: Có. Cái trạng thái Sơ Thiền nó luôn luôn, cái…
Sư Phước Nhẫn: Vậy thì đâu có trở lại được.
Trưởng lão: Đâu có trở lại. Coi như là mình đang sống rồi, bởi vì cái…
Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Cái câu kinh của Phật nói thiện xảo sống trong định mà, bởi vì người ta sống ở trong đó luôn luôn liên tục, người ta đâu có trở ra, trở lại. Cho nên, gọi là cái Sơ Thiền là cái định mà không xuất, không nhập rồi, không có nhập xuất rồi. Nghĩa là khi mà người vào trong đó người ta sống trong đó rồi thì không xuất nhập.
Còn nếu mà nói giảng đạo, đó là Bà La Môn nói, theo Thầy nói là Ba La Môn nói cái này, chứ không phải là Phật nói đâu. Cái Sơ Thiền của Phật là cái Sơ Thiền người ta sống cuộc sống người ta hoàn toàn rất rất an ổn. Người ta giải quyết, mặc dù bây giờ cái chuyện gì đi nữa, giải quyết vẫn cái trạng thái hỷ lạc vẫn còn, không mất con.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là cái Sơ Thiền nó vẫn ở với mình suốt đời?
Trưởng lão: Nó suốt đời con. Bởi vì cái đó là cái bánh giải thoát của người ta ly dục ly ác pháp rồi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là cũng giống giống với cái định mà bên Bắc Tông, nói là định không xuất, không nhập đó hả?
Trưởng lão: Ừ nó y như vậy, cho nên nó lấy cái Sơ Thiền nó làm cái chỗ nó, là nó gọi là thiền tối thượng của nó, Tối Thượng thừa đó.
Sư Phước Nhẫn: Không xuất, không nhập hả Thầy?
Trưởng lão: Không xuất, không nhập nhưng mà không ngờ là cái Sơ Thiền người ta thôi. Bởi vậy hồi Thầy giảng cái bài mà Trở Về Đạo Phật, Thầy so sánh giữa cái Sơ Thiền với cái thiền của Đông Độ đó. Nghĩa là mấy anh nói mấy anh nhập cái thiền anh không xuất nhập, thì tụi tôi cũng có cái thiền nhưng mà cái thiền tụi tôi là Sơ Thiền thôi, đâu có gì cao đâu, mới ly dục ly ác pháp thôi, đâu có cái gì đâu. Chúng tôi cũng không xuất, không nhập, rõ ràng là cái thiền này không xuất nhập mà.
Sư Phước Nhẫn: Thì vô đó ở luôn?
Trưởng lão: Vô đó ở luôn. Nghĩa là người ta an, người ta thiện xảo, người ta sống ở trong đó luôn, người ta sống trong định mà.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì trong mới ban đầu cũng phải nhập vô đó rồi mới ở luôn chứ.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên. Trời đất ơi! Nó cả vấn đề đó, thiện xảo nhập định nè, rồi thiện xảo an trú, có từng giờ, từng phút rồi đàng hoàng đó, chứ không phải lơ mơ mà mình dẫn vô mình cho được đó, là một cái điều khó rồi đó, thế mà người ta dẫn cho được cái tâm người ta sống ở trong đó, sống trong thứ định đó, điều đó là con phải biết rằng phải là cái pháp Thân Hành Niệm rồi, chứ còn không còn không có cái pháp nào mà có thể dẫn nó vô được đâu.
(17:02) Sư Phước Nhẫn: Còn cái này con xin hỏi qua cái phần mà vô sắc một chút. Thì trong cái bài kinh này, nói là cái Tứ Thiền đó, nó cũng còn sắc tưởng, qua cái vô sắc đó nó mới đoạn cái sắc tưởng. Đó trong cái bài kinh này, nó nói trong quyển bốn đó, Tăng Chi Bộ Kinh, cái bài kinh Niết Bàn có đoạn viết như thế này:
“Này Chư Hiền, Tỳ kheo vượt khỏi Phi Phi Tưởng Xứ một cách hoàn toàn chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định, vị ấy sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận, với pháp môn này thì Chư Hiền cần phải hiểu Niết Bàn là lạc”.
Như vậy, cái trạng thái Diệt Thọ Tưởng Định này giống với trạng thái của Lậu Tận Minh không Thầy?
Trưởng lão: Lậu Tận Minh là khác rồi. Bởi vì bên đây là tuệ rồi, bên đây là định rồi hai cái nó làm sao ăn nhập vô được. Lậu Tận Minh là cái tuệ rồi, thì rõ ràng là con đường mà Tứ Thiền đó, thì người ta đi vào Lậu Tận Minh nè, rồi con đường Tứ Thiền thì nó… Bởi vì cái năng lực mà Thất Giác Chi nó sẽ nhập Diệt Thọ Tưởng Định rồi, thì vô trong này định rồi làm sao mà còn biết được.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì, cái người mà nhập Phi Phi Tưởng Xứ đó.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Với trí tuệ họ đoạn diệt được cái lậu tận.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Cũng như là, ở đây nói: “Các lậu hoặc được đoạn tận”. Còn lúc trước Thầy nói qua cái minh thứ ba đó.
Trưởng lão: Thì mới lậu tận.
Sư Phước Nhẫn: Ờ thì mới lậu tận.
Trưởng lão: Lậu Tận Minh.
Sư Phước Nhẫn: Thì hai cái minh thứ ba với cái diệt tưởng định thì nó cũng có một kết quả là đoạn tận lậu hoặc.
Trưởng lão: Nó kết quả nó khác nhau. Cái kết quả kia nó bằng cái tuệ, còn cái kết quả này nó bằng cái định. Nó diệt lậu tận định hay hoặc là Diệt Thọ Tưởng Định đó, nó diệt cái thọ với cái tưởng nó diệt sạch đi cho nên nó không còn lậu hoặc mà nó… Bây giờ nó ngồi đó thành cái gộc cây đó thôi, chứ nó xả ra thì lậu hoặc nó còn.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Nó trật rồi. Bởi vì nó ngồi vô thì nó bất động đó, nó không có lậu hoặc bởi vì nó Diệt Thọ Tưởng Định của nó rồi, nó diệt thọ của nó rồi, cho nên nó không còn lậu hoặc. Còn cái này người ta hoàn toàn, người ta sống bình thường nhưng mà lậu hoặc người ta diệt bằng cái tuệ người ta, cho nên nó khác, cho nên đây mới giải thoát, con đường này không giải thoát. Con đường này chỉ ngồi vô đó nó hết còn mà xả ra nó bị.
Sư Phước Nhẫn: Cái chỗ này con thấy nó cũng hơi hơi nè… Cái chỗ này nè, nếu mình diệt thọ, diệt tưởng thì tại sao thì ở đây nói là: “Vị ấy sau khi thấy với trí tuệ…”?
Trưởng lão: Làm sao thấy trí tuệ được, khi mà diệt rồi.
Sư Phước Nhẫn: Ở đây nói: “Vị ấy sau khi thấy với trí tuệ các lậu hoặc được đoạn tận”, mình diệt thọ, diệt tưởng rồi, trí tuệ đâu mà thấy mà…
Trưởng lão: Không có. Bởi cái đó là vô lý rồi. Không có trí tuệ đâu, chỉ có Lậu Tận Minh là cái trí tuệ người ta mới thấy, người ta diệt, phải không? Lậu Tận Minh là người ta… Cái minh đó người ta mới thấy, người ta hiểu được cái lậu hoặc người ta hết gọi là Lậu Tận Minh. Còn cái này mình diệt rồi, mình còn cái gì đâu mình thấy, nó diệt nó ở trong định rồi nó còn cái gì nó thấy đâu, nó đâu có thấy được cái gì đâu mà gọi là lậu hoặc nó hết. Nhưng mà khi mà chúng ta xét thì nó diệt cái đó thì nó ở trong đó, thì nó không có lậu hoặc đâu. Bởi vì lậu hoặc là cái phiền não, cái đau khổ, cái mầm tái sanh của nó thôi, mà giờ nó nhập cái định đó thì nó làm sao nó tái sanh? Nó là sao nó…
(19:53) Sư Phước Nhẫn: Con thấy ở cái định nó diệt thọ, nó diệt tưởng.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Hết thọ, hết tưởng thì đâu còn lậu hoặc nữa.
Trưởng lão: Nó đâu còn lậu hoặc.
Sư Phước Nhẫn: Nó đâu có sinh hoạt nữa đâu mà.
Trưởng lão: Nó không có sinh hoạt, nó hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Ờ mà ở đây nói: “… với trí tuệ”.
Trưởng lão: Làm sao có trí tuệ?
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con mới bị chỗ này.
Trưởng lão: Định làm sao có trí? Làm sao có tuệ được?
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Bởi vậy con mới hỏi so sánh với cái Lậu Tận Minh, Lậu Tận Minh là thấy nó …
Trưởng lão: Nó, thành ra từ cái mà bốn cái loại định vô sắc này đó, bốn cái loại định tưởng này đi đến cái Diệt Thọ Tưởng Định này, đều hoàn toàn nó nằm ở trong cái định mà nó không đúng cách rồi.
Cho nên cái này, coi như là được bỏ qua một bên rồi, không đúng. Đó cho nên cái này là các vị Tổ xen vô mà lừa đảo mình, chứ không ai đâu. Mặc dù trong cái bài kinh đó, kinh Nguyên Thủy nhưng mà các ông Tổ kiến giải mà viết vô, chứ không ai đâu. Cho nên không có kinh nghiệm rồi. Vì vậy mà chúng ta vẫn xét thấy, bây giờ ông nhập Diệt Thọ Tưởng Định rồi, ông làm sao ông biết cái gì nữa mà ông biết rằng nó, lậu hoặc ông hết, cái tuệ ông ở chỗ nào? Ở trong định nó còn tuệ được sao?
Sư Phước Nhẫn: Nó mâu thuẫn. Bởi vì ở bên Tứ Thiền thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Như là xả thọ, xả niệm thanh tịnh, cũng như là xả cái tưởng phải không Thầy?
Trưởng lão: Cái tưởng.
Sư Phước Nhẫn: Thì bên đây tới cái giai đoạn thứ nhì là diệt thọ, diệt tưởng nó cao hơn một cấp. Nghĩa là Tứ …
Trưởng lão: Cái kia người ta xả thôi còn cái này thì nó diệt.
Sư Phước Nhẫn: Cái Diệt Thọ Tưởng Định là nó mới diệt.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Tức là nó cũng một lộ trình, một cái xả, một cái diệt. Đó, mà nó diệt hết, lấy cái gì đâu mà còn trí tuệ?
Trưởng lão: Thì bởi vậy bên đó thì coi như là cái sai của chúng ta hiểu là nó sẽ sai.
Sư Phước Nhẫn: Con đọc đoạn văn con thấy nó hơi lộn xộn sao.
(21:28) Trưởng lão: Nó không đúng rồi. Còn ở bên đây khi người ta vào Tứ Thiền thì người ta đánh thức được cái thức uẩn của người ta, bắt đầu người ta dẫn nó bằng cái lực của Thất Giác Chi tức là cái Túc Mạng Minh đó, thì bắt đầu người ta dẫn tâm người ta bằng cái trí tuệ của người ta, bằng cái thức của người ta biết, chứ người ta đâu có diệt. Cho nên vào đó, bắt đầu bây giờ người ta mới biết nhiều đời nhờ Túc Mạng Minh, rồi Thiên Nhãn Minh rồi Lậu Tận Minh, do đó cái biết của người ta biết lậu hoặc người ta hết.
Còn anh, anh Diệt Thọ Tưởng Định rồi anh đâu còn biết đâu mà gọi là anh tuệ đâu, làm sao biết lậu hoặc anh hết. Tức là cái mầm tái sanh anh, làm sao anh biết nữa đâu. Chỉ bây giờ anh ngồi cứng ngắc đó, anh không tái sanh thôi chứ anh xả ra anh còn tái sanh đó. Nghĩa là anh đâu có diệt nó bằng tuệ mà anh diệt nó bằng định nè, cho nên vì vậy mà anh rời khỏi định anh, anh bị. Còn tôi, tôi diệt bằng tuệ cho nên tôi thường sống ở trong tuệ mà, cho nên tôi đâu cần định đâu. Vì vậy mà tôi biết là tôi chấm dứt tái sinh luân hồi. Đó thấy con đường giải thoát không?
Sư Phước Nhẫn: Bốn cái thiền mà hữu sắc là nó còn sắc tưởng không Thầy?
Trưởng lão: Nó còn sắc tưởng, cho nên vì vậy mà nó đi qua cái tuệ nó mới Tam Minh, lậu tận nó mới diệt sạch, chứ còn cái định nó không có diệt đâu. Nó mới xả thôi, con thấy cái định Tứ Thiền nó mới xả thôi, nó đâu có diệt đâu, cho nên nó nhờ cái tuệ mà nó diệt, nó lậu tận đó, nó diệt.
Sư Phước Nhẫn: Thì nó cũng nói là cái Không Vô Biên Xứ nó cũng lọt vào sắc tưởng.
Trưởng lão: Không. Cái chỗ mà Tam Minh đó thì nó không có diệt cái tưởng đâu. Tại sao?
Tại vì Tam Minh là cái tuệ, nhưng mà nó ở trong cái Tam Thiền nó ly hỷ trú xả, tức là nó ly mười tám cái loại tưởng, nó ly chứ nó không có diệt. Nó ly để mà nó thực hiện cái tuệ Tam Minh của nó, cho nên ở trong Tam Minh thì không có tưởng nữa, nó lìa ra rồi, cho nên nó không có tưởng mà nó không cần diệt. Còn ở bên đây định thì nó diệt, nó diệt thọ tưởng, cho nên nó diệt, còn ở bên đây nó không có diệt nhưng nó chỉ lìa ra.
Sư Phước Nhẫn: Nhưng nó Không Vô Biên Xứ là diệt sắc tưởng, nhưng mà Thức Vô Biên Xứ là diệt …
Trưởng lão: Tức là nó ngưng cái… Coi cái sắc tưởng. Cái Không Vô Biên Xứ…
Sư Phước Nhẫn: Đoạn diệt sắc tưởng.
(23:46) Trưởng lão: Không. Cái tưởng thì nó diệt cái sắc, khi nào cái sắc nó ngưng thì cái tưởng nó mới hoạt động, cũng như mình ngủ thì nó mới chiêm bao, nó không ngủ thì không chiêm bao, cho nên cái tưởng nó diệt cái sắc.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó con biết rồi, nhưng mà cái này trong bài kinh nó có nói là chín loại thiền, thì khi mà mình chứng tới giai đoạn thiền thứ tư, nó còn sắc tưởng mà lại qua chứng cái Không Vô Biên Xứ thì lại là cái bài kinh này chín thứ là diệt. Thì sau khi mà nhập vô Không Vô Biên Xứ đoạn diệt sắc tưởng.
Trưởng lão: Không. Không có. Cái đó là cái sai. Cái luận nó sai bởi vì nó sắp lớp, nó coi như là ở trong Tứ Thiền nó còn tưởng, chứ sự thật Tứ Thiền không có tưởng, nó ly rồi. Nó ly ở Tam Thiền rồi, Tứ Thiền không còn tưởng nữa, nếu mà còn tưởng thì không thể thực hiện được cái thức uẩn nó hoạt động được.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, vậy nó mới đúng, bởi vì ly hỷ trú xả.
Trưởng lão: Đó. Ly hỷ trú xả tức là trú ở trên cái xả của nó.
Sư Phước Nhẫn: Là mình đâu còn tưởng nữa.
Trưởng lão: Đâu còn tưởng.
Sư Phước Nhẫn: Mà qua Tứ Thiền thì hết rồi.
Trưởng lão: Hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Hết rồi xả niệm thanh tịnh rồi.
Trưởng lão: Thì qua bên đây nó xả hết cái này rồi.
Sư Phước Nhẫn: Thì qua bên đây nó mới đoạn diệt sắc tưởng, cũng như là bên Tứ Thiền còn sắc tưởng, bên hữu sắc còn sắc tưởng.
Trưởng lão: Không.
Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Nó… Bởi vì bên tưởng nó tưởng ra thôi chứ bên đây người ta không còn có nữa.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì nó ly hỷ trú xả ra đâu còn tưởng nữa.
Trưởng lão: Nó không tưởng. Nó không còn tưởng nữa.
Sư Phước Nhẫn: Rồi bên đây, trong khi trong bài kinh thì nói rằng là khi mình nhập Không Vô Biên Xứ thì đoạn diệt sắc tưởng.
Trưởng lão: Cái đó là cái luận của nó.
Sư Phước Nhẫn: Vậy thì đương nhiên nói là hữu sắc là còn tưởng.
Trưởng lão: Còn tưởng nhưng mà sự thật ra người ta muốn nhập được cái định đó, thì người ta đã ly cái tưởng người ta rồi, không còn đâu. Cái đó, một cái sai rồi, bởi vì khi mà kê ra những cái bài kinh này rồi rút ra cái kinh nghiệm thì mình thấy rõ ràng nếu còn tưởng thì không thể nào mà thực hiện Tứ Thiền được.
(25:15) Trưởng lão: Còn sắc tưởng là không thể mà thực hiện nó, bởi vì phải Tam Thiền nó phải ly sắc tưởng rồi. Sắc rồi thinh, hương, vị, xúc, pháp sáu cái tưởng của người ta trong này người ta ly ra hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Ba nhân sáu mười tám.
Trưởng lão: Mười tám cái rồi còn, nó còn sáu cái thông nữa rồi sáu cái thức tưởng nữa, rồi cộng với sáu cái trạng thái coi như là ở bên ý thức của chúng ta nó có sáu căn, sáu trần chứ gì? Sáu thức diệt. Bên đây nó cũng có sáu cái tưởng của nó, sáu căn, sáu trần của tưởng chứ đâu phải không, cho nên nó cộng là mười tám cái đó. Nó ly ra hết, mà bây giờ mình nói ly về cái phần mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp tức là sáu cái tưởng đầu tiên chứ gì?
Sáu cái tưởng đầu tiên khi mình tu vào cái định tưởng, thì nó xuất hiện ra sáu cái tưởng đầu tiên, thì do đó sáu cái tưởng đầu tiên này, con thấy xuất hiện ra mà người ta ở trong cái Tam Thiền nó ly sạch ra hết rồi, thì nó mười tám cái chứ không phải là sáu cái này đâu, thì nó còn làm sao mà gọi Tứ Thiền là còn tưởng. Thì đó là luận sai rồi, không đúng rồi, không chấp nhận rồi.
Sư Phước Nhẫn: Con đọc tới cái bản này con định lên xin Thầy chỉ cho con…
Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói kinh sách Phật sau này nó có cái dịp mà mình chỉnh đốn lại tất cả những cái này, chứ không khéo người ta sẽ rối ren, người ta không có hiểu nổi.
Sư Phước Nhẫn: Nó mâu thuẫn nhau.
Trưởng lão: Nó mâu thuẫn nhau, rõ ràng là mâu thuẫn. Ngay cả Tứ Thiền là nó nếu mà còn tưởng thì làm sao mà gọi nhập Tứ Thiền được, mới ly ở Tam Thiền rồi.
Thế mà bây giờ trên cái định vô sắc, thì nó đã xác định rằng Tứ Thiền còn sắc tưởng. Làm sao còn được sắc tưởng? Sắc tưởng là cái khởi sự đầu tiên người ta ly mười tám cái loại tưởng là sắc tưởng người ta ly hồi đó rồi. Người ta ly hồi cái sắc tưởng hồi đó ở chỗ Tam Thiền. Bước lên Nhị Thiền rồi thì bắt đầu muốn đi vào Tam Thiền, người ta lo người ta ly hết tất cả những cái loại này ra hết rồi, người ta đâu có để. Người ta lìa ra rồi thì nó đâu còn, mà khi Tứ Thiền thì nó phải sạch trong rồi, thì vậy mà nói còn sắc tưởng thì nó lìa sao?
Sư Phước Nhẫn: … mà mình quán đó họ nói là cái bên thiền định là cái bộ kinh Đại Tạng Kinh đó.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Cái này là không có chính thống. Con mới thấy kỳ, tại sao cái Đại Tạng Kinh người ta kết tập lần thứ ba mà ghi lên bia đá, làm sao tất cả thế giới biết hết? Họ bác họ không chịu, họ nói không có giá trị. Thì thôi cái chuyện đó mình không biết là sao, cho nên, còn cái bài kinh này đó, con thấy trong Đại Tạng mà lại nói là cái Không Vô Biên Xứ là đoạn diệt sắc tưởng, đoạn diệt cái …
Trưởng lão: Cái Tứ Thiền đó.
Sư Phước Nhẫn: Khi đạt vô Không Vô Biên Xứ là tức là đoạn diệt sắc tưởng của Tứ Thiền.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Hữu sắc, tức là sắc còn, còn sắc tưởng. Đó cho nên, con mới có ý là con muốn gặp Thầy, để Thầy chỉ con nhập Không Vô Biên Xứ có được không Thầy?
Trưởng lão: Cái Không Vô Biên Xứ hả?
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chỉ con cách nhập vô.
(27:53) Trưởng lão: Cái Không Vô Biên Xứ rất dễ không khó gì hết. Con cứ ngồi mình tưởng không là mình lọt vô Không Vô Biên Xứ chứ không có gì hết. Như là người ta dùng trí tuệ Bát Nhã đó, Không đó. Mỗi cái niệm đều thấy nó là không hết thì nó… Đức Phật có dạy trong cái bài mà cái gì…Tiểu Không thì phải.
Sư Phước Nhẫn: Tiểu Không, Đại Không đó Thầy?
Trưởng lão: Ừ. Đức Phật có nói là khi mình giữ gìn… Khi mình giữ cái không đó. Bây giờ đó mình nghĩ, bây giờ cái nhà này nè nó không có cột kèo, không có rừng, không có gì hết, toàn là không mình cứ tưởng nó không đi, thì nó lại sẽ không chứ gì? Mình sẽ tưởng không là mình sẽ nhập vô Không Vô Biên Xứ.
Bây giờ con ngồi đây nè, con giữ cái tâm của con nè không nè. Đừng, niệm vào con cũng xả ra hết có niệm gì xả ra hết. Con ngồi đây con giữ nó không nè. Cho nên con thấy cái Thiền Đông Độ là nó giữ cái Không Vô Biên Xứ đó, mà chừng rốt cuộc rồi nó không thật sự, nó không đó, nó hoàn toàn nó không… Không mà biết, chứ không phải không mà không biết đâu. Không mà biết, nó không niệm không gì hết, hoàn toàn nó không thấy nhà, cái cửa, nó không phân biệt gì nữa hết, nó không ngơ đó, nhưng mà nó không phải không mà không biết, nó biết không, rõ ràng nó ngồi biết không. Thì con cứ ngồi, con giữ cái y như Thiền Đông Độ là con sẽ không. Thầy bị cái này rồi, nghĩa là con dùng cái pháp Tri Vọng đó, con biết vọng liền buông, cứ buông hết, buông hết là nó không.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái trạng thái nó ra sao Thầy? Mình ở trong cái định mà Không Vô Biên Xứ đó, mình thấy ra sao Thầy?
Trưởng lão: Nó cũng có lúc nó an ổn lắm nhưng mà cũng có lúc nó không an ổn, nhưng mà khi nó rớt trong Không rồi nó an ổn, kêu là mình Không rồi đó thì nó an ổn.
Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái nó kéo dài ngày này qua ngày kia hay trạng thái nó trong lúc mình ngồi?
Trưởng lão: Không. Nó nhiều lắm, nó không phải là nó liên tục đâu, khi mà nó Không rồi thì nếu mà nó xảy ra những cái tướng trạng khác như sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tưởng nó xuất hiện. Bởi vì nó thuộc về không tưởng, cho nên trong cái không tưởng nó nó xuất hiện tất cả những cái này ra, khi mà cái tâm dục của con còn, cái gì trong này nó muốn cái gì đó thì nó sẽ xuất hiện cái đó ra hết. Còn nếu mà con không muốn gì hết thì nó không được đó. Còn nếu mà con muốn thì nó không kéo dài con đâu, nó sẽ xuất hiện ra những cái mà con muốn.
Sư Phước Nhẫn: Xuất hiện ra là sao Thầy?
(29:59) Trưởng lão: Thí dụ như bây giờ con rắc rối một cái câu công án nào đó con chưa hiểu, thì khi mà con ở trong Không thì bắt đầu cái công án đó nó sẽ hiện ra trong đầu, như cái vọng tưởng của con, con sẽ phá nó, con sẽ hiểu nó, đó là rớt trong Không. Bởi vì nó thuộc về không tưởng, cho nên vì vậy những cái sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp những cái không của nó sẽ xuất hiện ra trong này, nhất là những cái pháp, pháp tưởng của nó xuất hiện ra, thì lúc bấy giờ con sẽ phá, những câu kinh tưởng như kinh Kim Cang hay hoặc là kinh Pháp Hoa hay hoặc là kinh Duy Ma Cật, nói chung là kinh Đại Thừa.
Những cái câu kinh nào chưa hiểu thì con lọt vào được trong cái Không này rồi, thì con phá quá vỡ nó hết, con hiểu hết. Nghĩa là tự đó con tự, tự con, con ngồi đó nó khởi ra cái niệm của cái câu kinh đó thì con phá, con hiểu ngay liền, đó là con lọt được ở trong cái trạng thái Không, kéo dài từ một giờ hoặc là hai giờ trong cái Không này, thì con sẽ phá vỡ tất cả những công án của thiền Đông Độ hết, cái này Thầy biết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy thì mình muốn nhập nó mình ngồi xếp bằng hay đi tới đi lui Thầy?
Trưởng lão: Ngồi xếp bằng, ngồi nhiều là càng tốt, không có đi tới đi lui, nó không phải như là con đường thiền của Phật mà đi nhiều đâu.
Sư Phước Nhẫn: Ngồi nhiều tốt.
Trưởng lão: Nó ngồi nhiều tốt.
Sư Phước Nhẫn: Mình tưởng Không.
Trưởng lão: Ờ. Mình tưởng Không.
Sư Phước Nhẫn: Một chữ Không thôi.
Trưởng lão: Ờ. Cứ đặt ở trên đầu một chữ Không thì nó nhanh.
Sư Phước Nhẫn: Y tham thoại đầu vậy đó?
Trưởng lão: Y như thoại đầu đó, là giữ chữ Không. Còn nếu không thì cứ có vọng liền buông, buông sạch thì nó trở không.
Sư Phước Nhẫn: Cái tâm mình lúc đó thân tâm mình chuẩn bị sao Thầy?
Trưởng lão: Cái thân tâm của mình, cái thân của mình thì ngồi kiết già, lưng thẳng, đau thì mặc nó mình cứ thấy không thôi. Cứ giữ cái tâm không của mình thôi và cứ giữ riết nó sẽ không, mà nó không thì nó lại không không đâu, nó lại có. Nó lại có tức là nó hiện ra tướng này, tướng kia, tướng nọ đủ thứ ở trong này hết chứ không phải là một.
Sư Phước Nhẫn: Cứ tưởng không luôn.
Trưởng lão: Ừ. Cứ mình ngồi cứ giữ không thôi nhưng mà khi mà mình thấy những cái hiện tượng nó xảy ra trong cái không đó, nó thành có đó, thì mình xả cho sạch cái này thì nó mới hoàn toàn không.
Sư Phước Nhẫn: Vậy chứ trong lúc mình mới ngồi nó xuất hiện nhiều cái…
(31:53) Trưởng lão: Nó xuất hiện nhiều lắm, khi mà nó không được một chút thời gian dài ra thì nó có xuất hiện, nó xuất hiện ra thì mình cứ xả, cứ coi như là hầu như là cái phương pháp Biết Vọng Liền Buông, nó từ cái thấp đến cái cao, đầu tiên thì mình vọng của pháp phàm phu, sau đó cái vọng của tưởng. Sắc, thinh, hương của tưởng mà, nó xuất hiện ra thì cũng phải buông hết.
Sư Phước Nhẫn: Tới giai đoạn nào mình mới biết chín muồi để nhập vô đó Thầy?
Trưởng lão: Tới khi mà tất cả những cái công án đều là thông suốt hết rồi đó thì, tức là con hoàn toàn được cái không của nó.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Không của nó. Thì khi mà công án con hết rồi, thì con buông cái không thì nó vào cái Thức Vô Biên Xứ, tức là con xả cái không. Cái phương pháp đó cũng không khó đâu, nó không khó, tu về cái định tưởng thì dễ, tưởng không nó sẽ lọt trong Không.
Sư Phước Nhẫn: Là khoảng bao lâu mình mới vô được trong Không?
Trưởng lão: Nghĩa là con cố gắng mà tu đó thì trong cái khoảng thời gian, nó cũng không dài lắm đâu. Nghĩa là nếu mà tu về cái không tưởng của nó, thì con dùng cái tưởng mà tu, thì nó khoảng một tháng là con vô. Tu đúng cách đó, nó vô.
Trưởng lão: Có gì không con? Cái thơ của ai vậy?
Phật tử: Bức thơ này Thầy đọc rồi Thầy gọi điện thoại liền.
Trưởng lão: Của ai vậy? …
(33:15) Trưởng lão: Trời đó, tức là cái dòng sông trời đó. Con thấy cái lá cây như là cái chiếc buồm hay chiếc ghe, con tưởng ra như là chiếc ghe, nó đang bơi ở trên cái dòng nước trong xanh của cái bầu trời xanh, thì đó là tưởng chứ còn… Ý thức tưởng chứ không phải là tưởng. Nó ý thức tưởng nó khác con, con tưởng tượng ra như các nhà văn, nhà thơ đều là ý thức tưởng chứ chưa phải tưởng đâu, còn tưởng khác.
Bây giờ tưởng nó hoạt động con đó, thí dụ như bây giờ con không nghĩ có một cái đó, mà con nghĩ có cái đó, à bây giờ thí dụ như con nghĩ rằng bây giờ không có cái không của con được, nhưng mà con nghĩ tưởng cái không, thì bắt đầu con thấy cái trạng thái không nó hiện ra trước mắt của con, con không thấy nhà cửa, không thấy mọi vật gì hết, nó hiện ra cái tướng không của nó đó, thì đó là tưởng nó hoạt động. Nó không phải là…
Nó bắt đầu nó khởi sự, con muốn tu cái tưởng đó đó thì con phải hoạt động, con tưởng không bằng cái ý thức tưởng của con. Con tưởng không nhưng mà cái ý thức tưởng của con nó chưa phải là tưởng. Thầy muốn nói ha. Bắt đầu muốn khởi sự vào cái không tưởng này thì con phải lấy ý thức tưởng của con mà con tưởng ra không, rồi từng đó đó nó sẽ không, nếu mà nó cái tưởng của con nó hoạt động mạnh thì nó nhanh, mà nó không hoạt động mạnh, mà cái ý thức con nó cứ bị vọng tưởng nó xen ra, xen vô hoài thì nó tưởng không, nó không vô, bởi vì tưởng ý thức mà, cho nên nó còn nằm trong ý thức. Cho nên bây giờ, con phải dừng hết tất cả các vọng tưởng này, thì cái không tưởng này nó mới có phát triển ra, thì nó có mới hoàn toàn là không.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình ngồi, mình tu liên tục suốt ngày?
Trưởng lão: Tu liên tục đó, coi như là biết vọng liền buông, con phải tu liên tục con mới vô cái không tưởng này.
Sư Phước Nhẫn: Giống như tham thoại đầu thôi?
Trưởng lão: Ừ, y như là tham thoại đầu vậy đó, tức là bắt buộc nó không có niệm, nghĩa là con cứ khởi cái nghi tình của nó, để cho nó không niệm thì nó rớt vô không đó, có vậy thôi.
(35:13) Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình có cái tưởng đó thì mới mau tới.
Trưởng lão: Nó mau. Còn có cái tưởng nó mau. Còn nếu mà không thì rất lâu, cũng có thời gian, đó nó như vậy. Nếu mà có cái tưởng nó hoạt động thì con tưởng ra không thì ngay đó nó dễ lắm, muốn nhập vào trong tưởng.
(35:48) Sư Phước Nhẫn: Câu hỏi thứ nhất xin Thầy giải thích sự lợi ích của Bảy Giác Chi. Mỗi giác chi nó lợi ích sao? Mỗi cái lợi ích sao?
Trưởng lão: Cái Bảy Giác Chi nó rất có lợi ích, khi mà cái Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện đó, nó tự động nó làm cho chúng ta siêng năng, chứ không có cố gắng, mà mình cố gắng quá sức cố gắng của mình, tự động nó thúc đẩy trên cái pháp hành của mình trong tu tập, thì nó là Tinh Tấn Giác Chi.
Thì khi Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện, nó làm cho chúng ta siêng năng thì cái Khinh An Giác Chi nó làm cho cái thân của chúng ta rất an ổn, tuy rằng chúng ta tập luyện nhưng mà cái thân nghe nó nhẹ nhàng, nó an ổn, đó là cái Khinh An Giác Chi.
Rồi, cái Hỷ Giác Chi khi mà Khinh An Giác Chi nó xuất hiện thì nó làm cho cái thân an ổn, thì cái Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, thì Hỷ Giác Chi nó xuất hiện nó làm chúng ta rất là hoan hỷ ở trên cái phương pháp tu tập, vui vẻ trên cái phương pháp tu tập, chứ nó không có thấy chán nản, nó không thấy nhàm chán cái phương pháp tu tập, nó làm chúng ta thích thú ở trên cái phương pháp tu tập, đó là cái Hỷ Giác Chi.
Mà khi mà cái Hỷ Giác Chi có thì cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện, cho nên nó luôn luôn nó ở trên cái Chánh Niệm của nó. Cho nên thí dụ như cái niệm Thân Hành Niệm, luôn luôn cái thân hành của chúng ta luôn luôn nó tỉnh thức ở trên cái thân hành của nó.
Mà khi mà nó tỉnh thức thân hành của nó, nó không phóng ra một cái niệm, nó không khởi ra một cái niệm thì cái Định Giác Chi nó mới xuất hiện, thì khi mà cái Định Giác Chi xuất hiện thì tâm nó không phóng dật, còn nếu cái Định Giác Chi nó không xuất hiện cái tâm chúng ta sẽ còn phóng dật.
Mà khi mà cái Định Giác Chi xuất hiện đó thì cái Xả Giác Chi nó mới có xả hết, nó mới ly hết cái tâm tham, sân, si của chúng ta, nó mới ly hết tất cả những cái dục, còn nếu không có cái Xả Giác Chi đó thì nó không bao giờ ly cái vi tế, nó chỉ cái thô mà chúng ta có thể mà tu tập các pháp khác hoặc là giữ gìn giới luật thì nó có thể nó ly cái thô, chứ nó không thể nào ly cái vi tế ở trong tâm của nó được. Cho nên, cái Xả Giác Chi là cái ly những cái vi tế.
Mà khi nó ly được tất cả những các vi tế thì nó mới có cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới xuất hiện, cái Trạch Pháp Giác Chi tức là nó mới thực hiện được cái Tứ Như Ý Túc của nó, tức là nó có bốn cái như ý túc.
Cái như ý túc của đầu tiên nó là Dục Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc rồi cái Tinh Tấn Như Ý Túc, nó xuất hiện cái Tinh Tấn Như Ý Túc rồi cái Dục Như Ý Túc, rồi cái Định Như Ý Túc và cái Tuệ Như Ý Túc, nó bốn cái Như Ý Túc của nó. Thì khi mà có Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì cái Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện đầu tiên đó là cái Dục Như Ý Túc, cho nên mình muốn gì thì nó sẽ thân tâm của mình nó sẽ làm theo cái đó gọi là Dục Như Ý Túc.
Cho nên vì vậy, Bảy Giác Chi nó rất có lợi cho chúng ta, nếu mà khi một cái người thực hành mà không đúng pháp, thì Bảy Giác Chi nó không xuất hiện đủ hoặc là nó xuất hiện một hoặc hai mà nó không xuất hiện đầy đủ, còn nếu mà chúng ta thực hành đúng cách, giữ gìn tâm không phóng dật thì nó mới xuất hiện đầy đủ. Nếu mà cái tâm mà còn phóng dật thì không bao giờ, nó xuất hiện đầy đủ Bảy Giác Chi này.
(38:24) Cho nên, cái mục đích mà tu tập Tứ Niệm Xứ thì từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ cho đến cái giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ cũng là cái mục đích để giúp cho Bảy Giác Chi này xuất hiện ra để mà chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc, tức là bốn cái như ý túc. Sau này chúng ta mới thực hiện, mới tu tập mới được bốn như ý túc. Còn nếu chưa có Bảy Giác Chi thì không bao giờ mà tu tập Tứ Như Ý Túc được. Đó thì nó có cái lợi ích ở chỗ Bảy Giác Chi là như vậy.
Mà Bảy Giác Chi cũng là bảy cái trạng thái giải thoát của một cái tâm, của một người mà hành giả khi mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì nó mới có ly dục ly ác pháp, nếu mà tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không bao giờ có Bảy Giác Chi. Là vậy, không thể nào mà người ta lấy Bảy Giác Chi mà tu tập, mà người ta chỉ cần tu Tứ Niệm Xứ mà nó khi mà sung mãn được Tứ Niệm Xứ thì Bảy Giác Chi nó mới xuất hiện. Cho nên phải nhớ rằng khi mà muốn thực hiện có được Bảy Giác Chi thì phải thực hiện Tứ Niệm Xứ, ngoài Tứ Niệm Xứ ra thì không có cái phương pháp nào có thể Bảy Giác Chi này xuất hiện được.
Sư Phước Nhẫn: Dạ xin Thầy chỉ cho cái phương pháp tu tập để có một giác chi nó xuất hiện? Thí dụ như muốn có Niệm Giác Chi xuất hiện thì phải tu tập những pháp nào? Định Giác Chi xuất hiện thì phải tu tập pháp nào? Rồi tinh tấn và v.v…
(40:00) Trưởng lão: Khi mà cái người mà muốn mà tu tập cho Bảy Giác Chi này xuất hiện, thì đầu tiên nó là phải có cái sự cố gắng tu tập ở trên pháp Tứ Niệm Xứ.
Nhưng mà pháp Tứ Niệm Xứ thì nó có ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất thì Bảy Giác Chi nó chưa có xuất hiện, giai đoạn thứ hai thì Bảy Giác Chi nó cũng chưa có xuất hiện, đến cái giai đoạn thứ ba của nó là tu Thân Hành Niệm.
Thân Hành Niệm thì theo cái phương pháp mà hành của nó thì nó không có giống như cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà nó phải mỗi một cái hành động của nó đều phải có cái sự tác ý, cái ý thức đi trước cái hành động nó đi sau, thì do đó nó mới đúng cái cách mà phương pháp Thân Hành Niệm và khi tu tập Thân Hành Niệm đó, thì nếu một cái người mà cố gắng, nỗ lực mà tập cho đúng cái phương pháp của nó.
Nghĩa là ý thức chủ động điều khiển từng thân hành của nó, thì bắt đầu Tinh Tấn Giác Chi sẽ xuất hiện, nó làm cho chúng ta siêng năng, rất là hoan hỷ ở trên cái sự tu tập, nó làm cho chúng ta không thấy chán nản, không thấy nhàm chán cái phương pháp tu tập, không thấy cực nhọc ở trên cái phương pháp tu tập. Mà do đó chúng ta, cái đầu tiên của cái sự tu tập của cái Thân Hành Niệm đó, cái phương pháp Thân Hành Niệm thì cái Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện đầu tiên. Đó là mình muốn cho có được cái Tinh Tấn Giác Chi thì phải tu tập Thân Hành Niệm, thì Tinh Tấn Giác Chi mới xuất hiện.
Sư Phước Nhẫn: Vậy cái Niệm Giác Chi ở đâu nó xuất hiện Thầy?
Trưởng lão: Cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện là khi nào mà cái Khinh An Giác Chi và cái Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, thì cái Niệm Giác Chi nó mới xuất hiện, còn nếu mà cái Khinh An Giác Chi với cái Hỷ Giác Chi chưa có thì cái Niệm Giác Chi chưa xuất hiện.
Bởi vì Niệm Giác Chi là niệm trên thân hành của nó, mà nó luôn luôn nó tỉnh thức ở trên thân hành nó được đó, thì đó là mới giác chi, còn nếu mà lúc thì nó có cái niệm này, lúc thì có niệm khác thì không phải là, lúc bây giờ chúng ta cũng tỉnh thức, có khi tỉnh thức được một vài phút, có khi được năm, mười phút nhưng mà rồi không có liên tục được, thì cái đó chưa phải là Niệm Giác Chi mà đó là cái niệm tập luyện, chúng ta mới tập mà thôi.
Còn cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện, thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trên cái Thân Hành Niệm của nó, cho nên nó luôn luôn nó biết hành động của nó rất là kỹ lưỡng và rõ ràng, đó gọi là Niệm Giác Chi.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là các giác chi nó xuất hiện thứ tự, chứ không phải là mình có phương pháp là mình tu tập để cho mỗi giác chi nó xuất hiện riêng hả Thầy?
(42:28) Trưởng lão: Không. Mà mình phải tu tập ở trên cái Thân Hành Niệm thì nó lần lượt nó đúng cái cách thức của tu tập của nó trên cái pháp Thân Hành Niệm, thì mỗi cái giác chi nó xuất hiện tuần tự, chứ nó không thể nào mà mình tu tập riêng của từng pháp để mà từng cái giác chi nó xuất hiện, nó không có.
Nếu mà thí dụ như chúng ta đang tu một cái Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta dẫn tâm mình: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, mà khi mà thấy có một cái trạng thái an tịnh của thân thì nó không phải là giác chi đâu, mà đó dẫn tâm vào đó thì nó có một cái trạng thái cái hỷ lạc, cái khinh an của nó, thì đừng có nghĩ đó là giác chi mà đó là do cái sự dẫn tâm của chúng ta mà cái tưởng của chúng ta nó xuất hiện ra, để nó làm cho chúng ta an ổn trong cái phương pháp đó mà thôi.
Còn cái pháp Thân Hành Niệm, nó mới chính nó mới giúp cho chúng ta xuất hiện bảy cái giác chi, mà nó cũng phải theo thứ tự của nó chứ nó không thể nào mà nó đi ngoài cái thứ tự. Thí dụ như tinh tấn, nó có tinh tấn thì nó mới có khinh an, nó có khinh an nó mới có hỷ, nó có hỷ thì nó mới có niệm, nó có niệm thì nó mới có định, chứ còn nó chưa có Chánh Niệm thì nó nói nó định thì không bao giờ có. Cho nên vì vậy nó phải có cái sự tuần tự của cái pháp Thân Hành Niệm, nó giúp cho chúng ta nó xuất hiện từng cái giác chi, từng cái Niệm Giác Chi của nó ra. Còn nếu mà chúng ta tu sai thì không bao giờ nó có đâu.
Thí dụ bây giờ chẳng hạn không có Tinh Tấn Giác Chi thì không bao giờ có cái Khinh An Giác Chi. Mà không có Khinh An Giác Chi thì không bao giờ có Hỷ Giác Chi. Mà không có Hỷ Giác Chi thì không bao giờ có Niệm Giác Chi. Mà không có Niệm Giác Chi thì không bao giờ có Định Giác Chi. Và không có Định Giác Chi thì không bao giờ có Xả Giác Chi. Xả Giác Chi không có thì không bao giờ có cái Trạch Pháp Giác Chi.
Bởi vậy, nó phải theo trình tự, mà nhưng mà trên cái pháp Thân Hành Niệm nó mới xuất hiện chứ còn hoàn toàn như, thí dụ như trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu, nhưng mà khi mà tâm mình không chướng ngại nó cũng không xuất hiện nữa. Bởi vì cái sức định tỉnh nó chưa đủ, cho nên nó không xuất hiện được Bảy Giác Chi này.
Cũng như chúng ta tu cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ đó, tu Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện có bốn cái loại định: Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu, bốn cái loại định này thì Bảy Giác Chi nó cũng chưa xuất hiện. Mà nó có xuất hiện cái khinh an, cái Hỷ Giác Chi đi nữa thì cái đó không phải khinh an, Hỷ Giác Chi mà đó là cái trạng thái hỷ lạc của dục tưởng của chúng ta xuất hiện mà thôi. Là do cái sự tu tập kiên cố, miên mật, ức chế tâm của chúng ta mà nó xuất hiện ra cái trạng thái hỷ lạc, thì cái trạng thái hỷ lạc đó không phải là giác chi mà là cái xúc tưởng hỷ lạc của chúng ta mà thôi.
(45:18) Sư Phước Nhẫn: Dạ câu hỏi số hai xin Thầy cho biết là phóng tâm do nguyên nhân nào mà có?
Trưởng lão: Phóng tâm do cái tâm si của chúng ta mà do phóng tâm. Bởi vì khi chúng ta không có tỉnh thức được, không có sáng suốt được cho nên cái tâm của chúng ta nó phóng ra cái niệm thì nó phóng ra, phóng tâm ra cái niệm đó là do cái tham, sân, si chúng ta chưa có ly, cho nên vì vậy nó phải khởi ra một cái tâm, nó khởi ra cái niệm, cái niệm đó nó hoặc vui, hoặc buồn hoặc tham muốn, hoặc sân hận, hoặc phiền não thì đó là gọi là phóng tâm.
Hoặc là thương nhớ nó cũng đều là phóng tâm, hay là chúng ta ngồi coi như là thiếu tỉnh thức mà tâm nó phóng, chứ không có gì hết, nếu mà chúng ta có tỉnh thức thì tâm nó sẽ không phóng, vì một chút, một sát na, một giây mà chúng ta thiếu tỉnh thức, cho nên cái phóng tâm nó liền xen vào chỗ đó, chỗ mà thiếu tỉnh thức đó gọi là si đó, thì tâm nó mới phóng ra. Còn nếu mà chúng ta tỉnh thức thì nó không phóng.
Sư Phước Nhẫn: Vậy thì mình tập cái phương pháp nào để bớt cái phóng tâm này?
Trưởng lão: Muốn tập cái phương pháp cho bớt phóng tâm đó, thì chỉ có cái Định Niệm Hơi thở là giúp chúng…
Tới cái đề mục cuối cùng của cái Định Niệm Hơi Thở đó: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” hay hoặc là: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, thì lúc bấy giờ là phóng tâm nó sẽ hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, còn phóng dật thì do nguyên nhân nào mà có Thầy?
Trưởng lão: Phóng dật là do nguyên nhân sáu pháp trần tác động vào sáu căn mà tâm phóng niệm ra. Do các pháp trần mà do đó mà tâm phóng dật, nếu không có pháp trần bên ngoài thì tâm không phóng dật, có pháp trần bên ngoài cho nên tâm phóng dật.
Sư Phước Nhẫn: Mình tập cái pháp nào để bớt phóng dật Thầy?
Trưởng lão: Muốn tập cho nó không phóng dật thì chỉ duy nhất có pháp Thân Hành Niệm, tập trung trên từng hành động của nó, mỗi hành động đều là phải có cái ý thức trước khi cái hành động đó thì tâm sẽ không phóng dật.
Sư Phước Nhẫn: Vậy mình tập Thân Hành Niệm giai đoạn một hay giai đoạn hai Thầy?
Trưởng lão: Giai đoạn Thân Hành Niệm thì phải tập giai đoạn cuối cùng của nó thì nó mới hết, nó mới có tâm… Khi mà nó có cái Định Giác Chi đó, nó xuất hiện thì nó mới hết phóng dật, chứ còn chưa có Định Giác Chi thì nó sẽ còn phóng dật. Nhưng mà nhờ cái phương pháp Thân Hành Niệm thì nó mới có Định Giác Chi nó xuất hiện, mà do đó mà nếu mà muốn cho tâm đừng phóng dật thì chỉ có cái Thân Hành Niệm, mới tu tập mới có hết phóng dật mà thôi.
(47:54) Sư Phước Nhẫn: Dạ câu hỏi số ba, xin Thầy trình bày tất cả các phương pháp tu tập Tứ Chánh Cần. Cái phương pháp nào trước thì phương pháp nào sau, có những gì đặc biệt trong mỗi giai đoạn?
Trưởng lão: Trong Tứ Chánh Cần thì cái phương pháp mà tu đầu tiên là cái phương pháp mà Định Vô Lậu, là cái phương pháp đầu tiên, bắt đầu thì cái người đó vào tư duy, suy nghĩ, phải học hiểu về cái đường lối của Phật, phải biết nhân quả, phải biết ngũ triền cái, thất kiết sử, phải biết thân bất tịnh, phải biết thân vô thường, khổ, vô ngã, phải biết thực phẩm bất tịnh, phải tu tập các pháp như Quán Bất Tịnh, Quán Xương Trắng, tất cả những cái điều kiện mà tập đầu tiên là phải vào tập Định Vô Lậu.
Cái kế thứ hai đó thì phải tập Định Niệm Hơi Thở theo mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.
Cái phương pháp mà thứ ba để tập mà trên cái Tứ Chánh Cần đó, là cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Cái phương pháp thứ tư của nó là cái phương pháp thư giãn được gọi là Định Sáng Suốt. Cho nên bốn cái phương pháp thì cái Định Sáng Suốt là cái Định Thư Giãn đó, thì cái định đó là cái định cuối cùng.
Cho nên, Thầy xin nhắc lại là cái định mà Vô Lậu là tu trước, Định Niệm Hơi Thở là tu thứ hai, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu thứ ba và Định Sáng Suốt là tu thứ tư, tu cuối cùng.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là chỉ có bốn cái phương pháp, bốn cái định để tu là pháp là Tứ Chánh Cần?
Trưởng lão: Tứ Chánh Cần.
Sư Phước Nhẫn: Vậy còn có gì đặc biệt phụ trợ thêm nữa không Thầy?
Trưởng lão: Không còn gì hết. Bởi vì không có gì hết, nội đó là tạm đủ cho cái phương pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện rồi, không cần phải pháp gì hết.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Mình căn cứ vào đâu mình biết mình tròn Tứ Chánh Cần để mình qua Tứ Niệm Xứ?
(50:00) Trưởng lão: Mình căn cứ mình biết mình tròn Tứ Chánh Cần, để qua Tứ Niệm Xứ là mình không hề vi phạm cái lỗi lầm ở trong giới luật của Phật, thì biết những cái thô nó đã lìa ra được rồi, thì do đó ngăn ác diệt ác đã tạm được rồi, thì do đó mình chuyển qua Tứ Niệm Xứ và đồng thời khi mà mình tu trên cái Định Niệm Hơi Thở đó, mình thấy kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở, khi mà dẫn tâm mình vào một cái đề mục nào mà của Định Niệm Hơi Thở, mà thấy dẫn được rõ ràng và cụ thể thì lúc bấy giờ chúng ta đã chuyển qua Tứ Niệm Xứ được rồi.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là mình tu bốn cái định này, đồng thời mình giữ giới luật.
Trưởng lão: Giới luật nghiêm chỉnh.
Sư Phước Nhẫn: Mà khi nào mình cảm thấy mình tròn giới luật là bắt đầu qua Tứ Niệm Xứ?
Trưởng lão: Qua Tứ Niệm Xứ được. Mà thấy nó còn vi phạm trong giới luật, tức là những cái lỗi nhỏ nhặt mà mình còn vi phạm trong ý của mình, thì chưa nên chuyển qua cái Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, tức là qua giai đoạn thứ hai của Tứ Niệm Xứ.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy cái người qua Tứ Niệm Xứ thì chắc hiếm lắm, chứ đâu có Thầy, bởi vì tròn giới luật làm sao ai tròn cho nổi?
Trưởng lão: Đúng rồi, thì lẽ đương nhiên là rất khó chứ không phải dễ, cho nên vì vậy mà cái Định Niệm Hơi Thở nó xác định được cái người đó có tròn hay không là vì nó vậy, do cái giới luật mà nó nghiêm chỉnh đó thì họ mới dẫn được những cái đề mục đó, họ mới đạt được cái kết quả của từng đề mục của Định Niệm Hơi Thở, còn nếu giới luật mà không có, còn vi phạm đó thì họ dẫn không vô, họ dẫn không kết quả. Tức là dẫn cái tâm mình vào một cái đề mục đó, mà cái trạng thái mà chúng ta đạt được của cái đề mục đó thì chúng ta không đạt được.
Ví dụ như ở trong đó là mười sáu hay mười tám cái đề mục, thì chúng ta chỉ dẫn nó được năm hay là sáu cái đề mục, còn mấy cái đề mục nữa thì chúng ta dẫn không được, tức là chúng ta bị phạm những cái lỗi ở trong cái giới luật rồi, cho nên nó không thanh tịnh cho nên dẫn không đi.
Sư Phước Nhẫn: Cũng như giữ 250 giới làm sao mà giữ hết, nói lý thuyết chứ thật tế đâu có ai giữ nổi, thành ra mà qua cái Tứ Niệm Xứ chắc qua không nổi hả Thầy?
(51:55) Trưởng lão: Nó không phải là giữ không nổi, là nhưng mà tại vì mình có pháp mình giữ được là vì như thế này: Tại vì mình chưa có biết cách tu thì mình thấy rằng rất khó, khi một cái ý của chúng ta khởi lên mà nó phạm cái giới luật gì, thì khi cái ý mà nó khởi lên tức là phải có cái niệm, mà khi có cái niệm thì chúng ta đã có cái Định Vô Lậu nó quán xét, nó ngăn và nó diệt cái niệm đó đi, thì do đó một thời gian dài mà trong khi chúng ta tu Tứ Chánh Cần đó thì cái Định Vô Lậu nó giúp cho chúng ta rất là nghiêm chỉnh giới luật, cho nên nó không hề mà nó có cái ý niệm ở chúng ta, nó phạm giới nữa.
Mà do đó, khi đó thì chúng ta đồng thời chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở, thì chúng ta thấy chúng ta lại dẫn cái tâm mình nó đạt được kết quả của từng cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, vì vậy mà chúng ta thấy giữa cái pháp hành này và giữa cái pháp quán này, nó hỗ trợ cho nhau mà chúng ta thấy cái tâm chúng ta lần lượt thanh tịnh mà giới luật nó không có vi phạm nữa, nó cụ thể và rõ ràng.
Mà do đó, mà chúng ta chuyển qua cái giai đoạn thứ hai mà tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu thì kết quả rất là lớn, nó nhờ cái Định Niệm Hơi Thở và cái Định Vô Lậu mà nó giúp ở trong cái giai đoạn ngăn ác diệt ác, nó rất là cụ thể.
Cho nên, một cái người mà chuyên cần, siêng năng mà tu tập cho đúng pháp rồi thì cái thời gian nó cũng không có dài, mà nó cũng không có khó khăn tại vì chúng ta tu không đúng thôi. Tu không có chịu kết hợp giữa hai cái pháp này, cái Định Vô Lậu và cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta không có chịu câu hữu kết hợp lại, chứ nếu mà chúng ta câu hữu kết hợp lại thì coi như là chúng ta xây dựng cái tường thành, tường thành rất kiên cố cho nên vì vậy mà chúng ta không còn vi phạm giới luật nữa.
(53:31) Sư Phước Nhẫn: Sang kế xin Thầy chỉ cách tu mười tám đề mục hơi thở. Rồi mình áp dụng lúc nào, trường hợp nào như Thầy vừa nói đó Thầy. Mỗi đề mục hơi thở nó có một cái lợi ích riêng, là do cái vấn đề mà mình giữ giới nó tròn. Thì mình dẫn đề mục nó vô cái mục đích, thì xin Thầy trình bày thứ tự từ số một đến số tám. Ví dụ như ban đầu thì: “Hít vô biết hít vô, thở ra biết thở ra”, đề mục thứ nhì là mình: “Cảm giác toàn thân”, thứ ba là: “An tịnh thân hành v.v…”.
(54:05) Trưởng lão: Bây giờ để Thầy hướng dẫn cho từng cái đề mục, để thấy cái sự dẫn tâm vào những từng cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.
Cái đề mục thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở là mục đích dẫn tâm cho nó biết cái hơi thở, chứ không phải là quán cái hơi thở, không phải là đếm cái hơi thở để mà tập trung gom tâm vào hơi thở, mà mục đích chúng ta chỉ dẫn nó vào hơi thở mà thôi. Thì do đó, bổn phận của chúng ta là cái phương pháp của Phật là Như Lý Tác Ý, lấy cái ý của chúng ta để mà dẫn nó vào.
Cho nên trong cái kinh Pháp Cú, cái bài kinh mà Song Yếu đó, thì đức Phật có nói: “Tâm làm chủ, tâm tạo tác…”, cho nên vì vậy cái tâm tức là cái ý của chúng ta nó làm chủ, nó tạo tác, vì vậy mà bây giờ chúng ta muốn nó làm chủ, nó tạo tác cái pháp thiện, cho nên chúng ta cách thức là xác định cho chúng ta biết cái ý thức của chúng ta là cái vấn đề quan trọng, cái phương tiện quan trọng để giúp chúng ta đạt được cái đạo giải thoát, cho nên chúng ta dùng ý thức để dẫn tâm vào.
(55:03) Mà do cái Định Niệm Hơi Thở là phải sử dụng cái ý thức chúng ta trọn vẹn, cho nên vì vậy mà chúng ta bước đầu vào một cái mục đầu tiên thì chúng ta nên nhớ rằng, chúng ta dẫn nó vào để cho nó biết cái hơi thở, chứ không phải là chúng ta quán hơi thở hay là tập trung trong hơi thở.
Mà do đó thì cái đề mục đầu tiên thì đức Phật đã dạy: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là mình dẫn cái tâm của mình để cho nó biết cái hơi thở ra vô, mà do đó khi mà chúng ta đã tác ý như vậy rồi, thì chúng ta bắt đầu chúng ta mới hít thở, hít thở trong năm hơi thở để mà lắng nghe từng hơi thở, chúng ta coi cái tâm của chúng ta nó có biết cái hơi thở hay không.
Nếu mà nó biết được cái hơi thở trong năm cái hơi thở rồi, thì chúng ta lại dắt nó một lần, tức là nhắc nó một lần nữa: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, và như vậy chúng ta tu cái sức của chúng ta tu, thí dụ như bây giờ chúng ta tu, lần thứ nhất có năm hơi thở mà chúng ta thấy dẫn cái tâm của mình trong năm hơi thở này rất là miên mật, rất là cẩn thận, kỹ lưỡng, gọi là tu rất nhiệt tâm từng hơi thở của nó, như vậy là cái người này sẽ tu kết quả rất lớn.
Còn bây giờ chúng ta dẫn tâm vào cái hơi thở, mà chúng ta tu mười hơi thở, hai mươi hơi thở hoặc là ba mươi phút, thì trong khi cái sức của chúng ta và cái khả năng của chúng ta không thể nào mà mới tu tập, mà dẫn vào một lèo như vậy mà cả năm, mười phút hay hoặc là cả ba mươi phút thì như vậy là chúng ta tu hỏng rồi, sai rồi, không đúng mà chúng ta chỉ dẫn nó vào năm hơi thở, rồi chúng ta xả nghỉ đi, xả nghỉ một chút xíu rồi chúng ta trở lại, chúng ta dẫn nó vào năm hơi thở thì chúng ta thấy cái chất lượng rất cao và cái tâm nó vẫn biết cái hơi thở rất rõ ràng.
Sau một ngày chúng ta tu tập thì ngày hôm sau chúng ta tăng lên hai lần, hai lần có nghĩa là như thế nào? Hai lần nghĩa là lần thứ nhất thì tác ý nó lần thứ nhất năm hơi thở, lần thứ hai năm hơi thở liên tục chúng ta thấy dẫn hai lần nó vẫn có một cái chất lượng rất tốt là nó không có phóng niệm, nó không có một cái niệm gì xen vào ở trong đó được, tức là chúng ta đi được hai lần và khi đó tới cái ngày thứ ba thì chúng ta dẫn nó ba lần và lần lượt chúng ta sẽ tăng dần lên với cái khả năng tu tập thuần thục của mình, tiến tới thì chúng ta khoảng độ chừng cao lắm là ba mươi phút, mà ít lắm thì chúng ta khoảng mười lăm phút.
(57:26) Rồi sau khi chúng ta thấy chúng ta vẫn đạt được cái hơi thở và lúc bây giờ chúng ta nhận ra được cái hơi thở chúng ta lúc nó ngắn hay hoặc nó dài, nếu là cái hơi thở tức mà phải biết cái hơi thở nào, dài là cỡ mức độ nào mà ngắn mức độ nào nữa, chứ không khéo nghe nói dài chúng ta cũng chẳng biết cái hơi thở dài như thế nào. Khi mà chúng ta dẫn nó như vậy mà nó luôn luôn năm hơi thở mà dẫn nó như vậy, thì chúng ta thấy nó có xuất hiện ra cái, rõ ràng là cái đặc tướng của hơi thở chúng ta, chúng ta đã nhận biết nó.
Nếu nó dài, nó chậm đó thì khoảng một phút đồng hồ của nó đó thì khoảng độ mười hơi thở, nghĩa là một phút đồng hồ thì chúng ta dẫn ra, dẫn vô vậy là mười hơi thở, mà nó ngắn là hai mươi hơi thở, nó một phút. Tức là nó ngắn là hai mươi hay hoặc hai mươi mấy hơi thở, nó là một phút, còn nó dài thì nó cái độ dài của nó thì nó mười hay hoặc là năm hơi thở, nó là một phút thì đó là dài.
Cái hơi thở nó dài, tức là nó chậm, nhẹ và nó kéo dài ra, thì đó là nó dài. Nếu mà nhận thấy được cái hơi thở dài thì đề mục thứ hai là chúng ta phải điều khiển dẫn cái hơi thở dài, cho nó liên tục hoài hoài chứ đừng có lúc ngắn mà lúc dài. Thường thường chúng ta có khi thở ngắn hoặc cũng có khi thở dài, cho nên chúng ta phải điều phục cái hơi thở chúng ta bằng cái đề mục thứ hai, mà đề mục thứ hai thì nếu mà hơi thở dài thì chúng ta nhắc như thế này: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”, đó là cái đề mục thứ hai.
Nếu là hơi thở ngắn thì khoảng hai mươi hơi thở nó một phút, hay hai lăm hơi thở, hai ba hơi thở thì đó là hơi thở ngắn, cho nên vì vậy mà tôi nhắc cái tâm của tôi, tôi dẫn cái tâm tôi cho nó biết cái hơi thở của nó, để nó điều phục được cái hơi thở cho nó ngắn: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”. Sau khi cái hơi thở mà tôi nhắc như vậy nó cứ, nó giữ đều đều đều tốt được đó là cái kết quả của cái đề mục thứ hai.
Khi mà nó thông suốt được cái hơi thở ngắn nó cũng thông suốt, mà hơi thở dài khi mà tôi nhắc như vậy đều tôi thở nghe nó thông suốt, nó không ngăn ngại, ở trong ngực của tôi nó không tức hay hoặc là nó không căng ở trên đầu của tôi, thì tức là tôi biết rằng nó đã thông suốt được cái hơi thở. Do đó, tôi tiến qua cái đề mục thứ ba.
Cái đề mục thứ ba thì mới là: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Lúc bây giờ nó không còn tập trung ở trong hơi thở nhiều nữa, mà bây giờ nó có cái cảm giác của nó, khi hít vô nó nghe từ cái hơi thở, nó đi khắp từ ở trên đầu nó, nó đi tới dưới chân và khi thở ra thì nó nghe từ dưới chân nó, nó thở ra tới trên đầu của nó đều thở ra, đó là cái cảm giác đầu tiên của cái người tu Định Niệm Hơi Thở, chứ không phải tập trung biết hơi thở ra vô ở chỗ mũi hay hoặc là ở chỗ cơ bụng hay hoặc ở chỗ bất cứ một cái chỗ nào, mà đây là cái cảm giác toàn thân của cái hơi thở khi hít vô, thì như vậy là người tu Định Niệm Hơi Thở nó mới đúng, chứ còn người tu Định Niệm mà, hơi thở mà không có cảm giác như vậy là không đúng.
(1:00:01) Khi mà chúng ta tập luyện một thời gian thì chúng ta mới cảm giác được, chứ không phải là nói cảm giác là chúng ta cảm giác liền. Trong khi tập luyện thì một thời gian chúng ta mới hít vô, chúng ta mới thấy được cái cảm giác đó, mà khi thấy được cái cảm giác, có cái cảm giác rồi suốt trong cái thời, một buổi mình tu tập mười phút hay hoặc hai mươi phút hay ba mươi phút mà thấy có cái cảm giác từng hơi thở đều có cảm giác, chứ không phải có hơi thở có cảm giác, mà có hơi thở không cảm giác thì chưa thuần. Là vậy cho nên khi nào mà hơi thở mà chúng ta đã nhắc một cái là chúng ta thấy cảm giác được thì chúng ta tiến qua cái giai đoạn thứ tư chúng ta tu tập.
Tới giai đoạn thứ tư tu tập thì: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết…”, khi mà chúng ta đã có cảm giác và đồng thời chúng ta dẫn nó vào cái sự an tịnh thì nó rất dễ cảm, nó rất dễ cảm giác cái an tịnh của cái thân của nó, cho nên cái thân của nó, nó an ổn, rất là an ổn mà nhẹ nhàng, nó làm cho chúng ta ngồi tu rất thoái mái, dễ chịu, nó không có còn khó khăn, không có còn nhọc nhằn nữa, nó làm cho chúng ta thấy rất là thích tu.
Mà do đó, khi dẫn tâm vào cái sự an tịnh được, thì chúng ta thấy kết quả của sự an tịnh suốt cái thời gian tu, ví dụ như ba mươi phút hay mười lăm phút mà thấy nó, khi nhắc nó một lần, hai lần mà thấy ngay cái thân chúng ta có cái cảm giác an tịnh đó, thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới qua cái đề mục thứ năm chúng ta tu tập, thì…
Sư Phước Nhẫn: Cảm giác, cảm giác hỷ thọ.
Trưởng lão: Cảm giác toàn thân hết. Chưa.
Sư Phước Nhẫn: Cảm giác hỷ thọ.
Trưởng lão: Chưa. Ở đây theo Thầy thấy nó từ cái cảm giác, đọc qua lại cái bài mà Thân Hành Niệm mà đức Phật dạy về cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó mới cụ thể hơn là trong cái bài Xuất Tức Nhập Tức.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Bởi vì ở trong cái bài Thân Hành Niệm thì nó có cái Thân Hành Niệm nội, thì đức Phật dạy về hơi thở thì những cái đề mục đó rất cụ thể hơn là cái bài mà Xuất Tức Nhập Tức, mà khi những cái đề mục ở trong cái bài Xuất Tức Nhập Tức thì nó hơi có những cái lộn xộn mà nó không có, bởi vì cái người kết tập nó không có đúng cách, cho nên sau khi đọc lại cái bài Thân Hành Niệm, Thầy thấy những cái đề mục nó có thứ tự rõ ràng.
Từ khi cái thân nó được an tịnh rồi, thì bắt đầu nó mới dạy chúng ta đến cái đề mục mà thứ tư đó là phải: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm…”, khi mà cảm giác toàn thân rồi thì mới an tịnh thân hành, rồi bây giờ mới cảm giác toàn tâm, cảm giác được cái tâm mình rồi thì mình mới: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô”, thì cái đó là cái rất là cụ thể, bởi vì cái thân nó dễ hơn, cái cảm giác của cái thân nó dễ hơn là cảm giác của cái tâm.
Đó là theo Thầy xét thấy cái lịch trình mà thứ tự, để mà chúng ta tu tập theo cái phương pháp Định Niệm Hơi Thở, thì nó phải đi tuần tự như vậy nó đúng cách, chứ không khéo nó lộn xộn là cái thân mình rối, nó trật đi, nó không khó mà đạt được kết quả. Cho nên, Thầy có cái sắp xếp nó rất là cụ thể trên cái phương pháp khi mà đọc lại cái bài Thân Hành Niệm, thì Thầy thấy tất cả những cái đề mục mà ở trên cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cụ thể và rõ ràng hơn, cho nên vì vậy mà Thầy sắp xếp theo cái Thân Hành Niệm.
Sư Phước Nhẫn: Xin Thầy giảng sau cái an tịnh thân hành rồi cái…
(01:03:09) Trưởng lão: Khi mà cảm giác được thân rồi. “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô” rồi, thì bắt đầu bây giờ mới: “An tịnh thân hành”. Cái thân nó được an ổn rồi, thì bây giờ mới bắt đầu qua cái đề mục nữa đó là: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra”, khi mình hít vô thì cái cảm giác của thân nó an tịnh rồi, thì có cái an tịnh của cái thân thì mới lắng nghe được cái tâm của mình, mới lắng nghe được cái tâm.
Khi mà cái thân nó an ổn, khi mà hít vô thì cái cảm giác của cái thân nó an ổn, thì trong khi đó mình lắng nghe thì cái tâm của mình, tức là cảm giác toàn tâm là lắng nghe. Lắng nghe cái trạng thái của tâm, thì lúc bấy giờ chúng ta mới lắng nghe được cái người mà chưa có cái thân an tịnh thì không thể lắng nghe được cái cảm giác toàn tâm, tức là lắng nghe cái tâm của mình thì không lắng nghe được.
Sư Phước Nhẫn: Thí dụ nó sao Thầy?
Trưởng lão: Ừ. Thí dụ bây giờ cái thân chúng ta nó đang nhẹ nhàng, khinh an, nó không bị đau, không bị nhức, không bị trạo cử, không bị mệt mỏi, không bị khó chịu, nó có cái an lạc vô cùng lận, nó làm cho chúng ta thấy cái sự an lạc đó. Mà cái người có an lạc rồi thì bắt đầu bây giờ người ta cảm giác cái tâm người ta, tức người ta lắng nghe được cái tâm người ta nó đang thanh thản như thế nào, người ta thấy được cái trạng đó.
Còn bây giờ mình chưa biết, mình chưa có cái kết quả này mà mình muốn biết, lắng tâm mình thì mình rất khó, rất khó cảm giác được cái tâm của mình. Còn cái này người ta cảm giác được cái tâm là người ta nhờ cái thân người ta an ổn quá, cho nên vì vậy người ta cảm giác được cái tâm. Khi mà người ta cảm giác được cái tâm, bây giờ càng đi tới những cái đề mục, càng xa thì nó càng khó, cũng như hồi đầu mình vô: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nó dễ. Phải không?
Rồi tới cái hơi thở mà dài, ngắn nó dễ, ai cũng nhận được hết, những cái đề mục đầu nó dễ rồi, rồi tới cảm giác cái thân nó cũng hơi khó khó rồi đó, mà bây giờ hít vô mà cảm giác được nó cũng dễ rồi đó. Nhưng mà cái thân mà an tịnh bắt đầu nó hơi khó, dẫn cho nó được an tịnh nó khó rồi đó, chứ không phải dễ đâu, tới cái tâm rồi mới thấy cái khó, rồi tới cái quán ly tham, quán ly sân nó mới khó đó.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình thấy mấy cái trạo cử cũng là cảm giác tâm hành?
(1:05:11) Trưởng lão: Tâm hành đó, nó là trạo cử, cảm giác tâm hành, hoặc là nó loạn tưởng cũng là tâm hành đó. Tất cả những cái đó nó đều sai hết rồi, cho nên vì vậy mà lúc bây giờ đó mình dẫn nó vào cảm giác toàn tâm, thì bắt đầu nó trạo cử hay hoặc là nó cái gì mình cũng nhận ra được hết nó rồi, bởi vì mình lắng nghe được cái tâm của mình rồi.
Sư Phước Nhẫn: Tâm hành nghĩa là như cái ý của tâm hả Thầy?
Trưởng lão: Cái ý của tâm đó. Cái ý nó ý khởi của nó là tâm hành, nó khởi ra đó, nó hành đó, nó khởi ra thì mình đã lắng nghe mình nghe được hết.
Sư Phước Nhẫn: Vậy nó khởi sao cũng được hết mà mình cảm giác được ý khởi?
Trưởng lão: Mình cảm giác được ý khởi. Tức là cảm giác được nó, đó cho nên khi mình dẫn vào đó thì nó cái cảm giác của nó trong khi nó thanh thản, an lạc, vô sự thì mình cũng nhận ra được cái cảm giác của cái tâm của mình, mà nếu nó hành ra một cái gì thì mình thấy rõ ràng.
Sư Phước Nhẫn: Cái tâm ở đây thì mình nói chung là cái ý nó mới chắc.
Trưởng lão: Cái ý chứ không phải là cái tâm đâu, cái ý đó.
Sư Phước Nhẫn: Cảm giác tâm hành rồi.
(01:06:05) Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ cảm giác được cái tâm rồi, bây giờ mới: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, mình nương vào cái hơi thở mà cái sự an ổn của cái tâm của mình, mình thấy rất rõ ràng. Rồi mình dẫn nó hơi cái mình thấy nó hoan hỷ lắm, nó niềm vui ở trong lòng của mình nó khởi ra. Tức là nó đúng là cái hỷ của nó rồi. An tịnh tức là cái tâm hoan hỷ chứ không phải là gì khác hơn hết, đó khi mà dẫn nó được tới đó, rồi mới quán ly tham, quán ly sân, quán ly si thì nó mới có cái cảm giác mà ly tham, sân, si nó mới ly tham, sân, si ra được.
Sư Phước Nhẫn: Thầy chỉ lại cái khoảng mà: “An tịnh tâm hành”, cách thực tập nó ra sao Thầy?
Trưởng lão: “An tịnh tâm hành” phải không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thực tập đó Thầy.
Trưởng lão: Bắt đầu bây giờ đó, thí dụ như cách về thực tập của nó thì mình nhắc như thế này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Thì bắt đầu đó mình nhắc nó rồi, mình hít thở rồi mình nương theo cái hơi thở đó, mình mới cảm giác cái tâm của mình coi nó có an tịnh hay không, nó chưa an tịnh thì mình cảm giác như nó có một cái sự an tịnh của nó, có sự hoan hỷ của nó trong đó thì mình cứ mình nhắc nó vậy một chút xíu cái nó hiện ra cái tướng hoan hỷ của nó. Cái tướng hoan hỷ của nó tức là nó an tịnh rồi nó mới hiện ra cái tướng hoan hỷ, còn nếu nó chưa an tịnh đó thì chắc chắn là nó còn cái tâm hành nào đó nó chưa, nó còn có phóng dật thì nó không có đâu.
Trước khi mà nó sẽ có cái tâm hoan hỷ nó xuất hiện đó, thì hoàn toàn nó không có một cái niệm gì mà phóng vô trong này được hết, thì lúc bây giờ nó mới… Nhưng mà dẫn cái này là nó có niệm rồi, hễ mình nhắc nó: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, rồi bắt đầu mình hít vô, thở ra, hít vô, thở ra mỗi hít vô, thở ra mình lắng nghe cái cảm giác của cái sự an tịnh của cái tâm của mình.
Bởi vì mình cảm giác toàn tâm rồi mà, mình đã cảm giác được, nhận được cái cảm giác rồi, thì bây giờ mới mình nhận cái cảm giác của nó thì khi nó xuất hiện cái niềm hoan hỷ của nó là nó đã an tịnh, cái tâm hành nó đã an tịnh rồi. Nó an tịnh là nó thanh tịnh, nó an ổn của cái tâm rồi, nó không còn một cái niệm gì sót ở trong đó mà nó lén lén nó phóng ra đâu. Dẫn tới cái chỗ này rồi mới thấy cái tâm của mình nó mới thanh tịnh thật sự, chứ còn nếu mà không khéo tu, không có tu cái Định Niệm Hơi Thở, không có biết cái tâm thanh tịnh của mình đâu.
Sư Phước Nhẫn: Là cảm giác tâm hành đó là còn khởi niệm?
Trưởng lão: Còn, mình còn, mình tác ý nó, nó còn khởi đó.
Sư Phước Nhẫn: Còn khởi niệm?
Trưởng lão: Ờ. Còn khởi niệm.
Sư Phước Nhẫn: “An tịnh tâm hành” là mình cũng còn cảm giác?
Trưởng lão: Còn cảm giác.
Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà hết khởi niệm?
Trưởng lão: Hết khởi niệm.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Rồi cái trạng thái lúc đó là nó khinh an, nó nhẹ nhàng hả Thầy?
Trưởng lão: Cái khinh an là nó, cái đầu tiên là cái thân hành rồi, bây giờ nó còn cái hỷ nữa, tức là cái hỷ của tâm của mình khi nó an tịnh được thì cái hỷ nó xuất hiện. Cái niềm vui nó làm cho mình hoan hỷ lắm, nó làm cho mình vui trong cái lòng của mình, nó phấn khởi ở trên cái phương pháp mình đang tu, cái hơi thở đó, hơi thở mình hít vô nó phấn khởi trên cái hơi thở.
(1:09:07) Sư Phước Nhẫn: Theo Thầy trình bày lại cái trạng thái mà khi mà mình dẫn cái tâm vô “An tịnh tâm hành” đó Thầy.
Trưởng lão: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm…”.
Sư Phước Nhẫn: Cái tâm lúc đó ra sao Thầy? Trạng thái tâm lúc đó ra sao Thầy?
Trưởng lão: Cái trạng thái thân thì nó là nhẹ nhàng, nó an ổn, nó không bị đau nhức, không bị ngứa ngáy. Còn cái trạng thái mà “An tịnh tâm hành” là lúc bấy giờ nó không có một cái niệm phiền não, nó không có cái gì mà xen vô đó đâu, không có niệm nhớ thương, không có cái gì mà nó làm cho mình lo lắng, sợ hãi gì hết thì đó là nó an tịnh được cái tâm.
Bởi vì cái phần thọ của tâm và phần thọ của thân, phần thọ của thân nếu mà nó an tịnh về cái thân thì nó không bị ngứa, không bị đau, không bị nhức chỗ này, chỗ kia, còn về cái phần tâm mà nó an tịnh được đó, thì nó sẽ không có phiền não, nó không có khởi niệm giận, niệm thương, niệm ghét, niệm gì trong này hết thì đó là an tịnh được nó rồi. Hễ có nhận ra được cái chỗ mà cái thọ của tâm và cái thọ của thân không? Mà khi mà cái tâm mình đang ngồi mình nương vào cái hơi thở mình thấy hoàn toàn là nó không bị cái thọ này nè, tức là nó không bị một cái niệm nào mà khởi ra, nó làm cho nó phiền não, nó lo lắng, nó sợ hãi, nó thương nhớ thì đó là nó đã an.
Còn nó còn có cái niệm này, thì ví dụ như bây giờ mình dẫn năm hơi thở nó không có, tức là nó năm hơi thở là không có thì như vậy nó an tịnh rồi, thì bắt đầu cái tâm nó an tịnh rồi, thì bắt đầu bây giờ mình dẫn năm hơi thở nữa mà nó có thì nó không an tịnh đâu, nó mất cái an tịnh của nó rồi. Bắt đầu mình dẫn năm hơi thở nữa mà mình rất là nhiệt tâm từng hơi thở thì nó sẽ không có, mà nó không có thì tới năm hơi thở nữa không có cho đến khi mà ba mươi phút mình xả ra không có, như vậy là tôi đã dẫn tâm tôi được an tịnh ở trong đó ba mươi phút.
Con hiểu chỗ Thầy muốn nói không? An tịnh tức là nó không có một cái niệm gì khởi ra, còn nó có cái niệm là nó không an tịnh.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Cũng như cái thân mình nó không có cái đau đớn gì trong này, không có ngứa, nhức gì trong này, không có mỏi mệt thì nó là an tịnh. Chứ bây giờ, nếu mà trong khi đó, cái thời gian mà nó kéo dài nó một phút, hai phút, ba phút mà nó an ổn vậy thì nó có cái trạng thái khinh an của nó rồi. Còn nếu nó còn có một cái gì đau đớn, nhức thì nó không bao giờ nó có khinh an được đâu. Hiểu Thầy muốn nói không?
Nó đầu tiên là mình có nhận ra được cái cảm giác an tịnh đó, nhưng mà cái an tịnh đó mà nếu kéo dài thì nó, cái thân của chúng ta nó sẽ nhẹ nhàng, mà cái tâm nó cũng vậy, nó không có cái trạng thái mà phiền não đâu, tức là không có cái niệm nào mà đánh vô nó nữa.
(01:11:19) Cái đề mục mà đã thân tâm nó an ổn rồi, phải không? Thì cái đề mục đó là: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Tham, sân, si rồi quán vô ngã, quán không phải ta, không phải này kia thì tiếp tục tới những cái đề mục ly rồi.
Mà khi mà nó ly rồi đó thì mới tới mà: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh…”, tức là phá tham, sân, si, si là định tĩnh đó, hễ nếu cái tâm mà nó định tĩnh là nó không si, nó phá si. Bắt đầu ly tham này ha, ly sân này tới ly si là định tĩnh đó. Bây giờ thay vì mình quán ly si chứ gì? Nó không đúng đâu, không đúng cách, cho nên vì vậy mà: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, đó là nó định tĩnh là nó không si, mà nó không định tĩnh nó si, nó sẽ mê, nó sẽ có niệm vô. Hiểu chỗ Thầy nói không?
Bây giờ đầu tiên thì mình quán ly tham nè, khi mà cái thân tâm mình nó được an ổn rồi, an tịnh rồi thì bắt đầu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham…”, từng hơi thở hít vô tôi mới cảm thấy rằng cái sự an tịnh thân và tâm của tôi, nó đẩy lui tất cả những cái tâm tham ở trong thân của tôi ra, rồi tôi thở ra nó cũng vậy, nó cũng đẩy ra và cứ mỗi hơi thở mà cứ có cái cảm giác của mình nó đẩy cái tâm tham ra thì lúc đó là: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, mà khi mà cái tâm tham mình thấy nó ly ra rồi, thì nó không có còn mà khởi ra cái niệm tham đó nữa.
Tức là trong khi mình tu tập đó hay hoặc là mình xả ra mình không có nghĩ mình ham muốn cái này, tới thậm chí như cái ăn nó cũng không tham ăn nữa, tức là nó ly rồi. Rồi bắt đầu bây giờ nó quán ly sân nè, mà khi mà ly sân được rồi, người ta chửi mình không giận, mà nội tu cái Định Niệm Hơi Thở không, nó đã bất động tâm rồi, nó ly rồi đó, nó lìa ra rồi, mình tu cái này, mình tu cái Định Niệm Hơi Thở trong vòng chừng mười ngày, mười lăm ngày, mình xả ra coi, ai nói nặng nhẹ mình coi, mình như cục đất vậy, nó không có giận đâu, đó là cái sân của mình nó ly rồi.
Nó ly rồi thì bắt đầu, cái tâm nó bắt đầu nó có chút ít định tĩnh, chứ nó chưa. Bắt đầu mình dùng cái Định Niệm Hơi Thở này mà dẫn nó, mình dẫn nó: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh…”, tức là mình phá cái si đó. Cái si nó phá cuối cùng đó, mà cái tâm mà định tĩnh được thì Bảy Giác Chi nó xuất hiện đó. Chứ không phải dễ, cái đề mục thiền của Định Niệm Hơi Thở nó rất hay nhưng mà vì mình không thể nào nương ở trên hơi thở này mà nó hoàn toàn nó định tĩnh được, cho nên buộc lòng phải đi qua cái Thân Hành Niệm. Thì trong cái bài Thân Hành Niệm thì nó có năm hơi thở và nó có hành động đứng, đi của mình.
Đó là cách tất cả những cái đó là nó cấu kết thành cái cỗ xe, thành căn cứ địa rồi, nó là chuyên nhất rồi, nó không có còn mà có kẽ hở nữa. Còn mình quán định tĩnh nó còn kẽ hở, nó không có chuyên được, cho nên phá cái si nó rất khó, phá cái si cuối cùng thì chỉ qua Thân Hành Niệm mới phá, nhưng mà ở trong Định Niệm Hơi Thở nó có cái phương pháp phá, nhưng mà phá cái thô để cho nó được tỉnh giác thôi, chứ nó định tĩnh chưa nhưng mà vẫn nhắc nó định tĩnh, vẫn tác ý nó định tĩnh.
Cho nên: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, và cái đề mục cuối cùng của nó: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát…”, nghĩa là thân tâm của mình nó có cái trạng thái giải thoát hoàn toàn. Khi nó định tĩnh rồi nó giải thoát, nó giải thoát mình thấy rất rõ. Đó là cái phương pháp về cái Định Niệm Hơi Thở, mà mười mấy cái đề mục của nó mà nếu mà tu kỹ lưỡng thì nó lợi ích rất lớn, đức Phật đã nói mà.
Sư Phước Nhẫn: Xin Thầy giảng lại là cái phần mà: “Quán ly tham tôi biết tôi thở vô, quán ly tham tôi biết thở ra”, Thầy vừa nói là thí dụ mình thở vô hoặc thở ra.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Thì mình có cái cảm giác tham nó đi ra.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Con chưa hiểu cái cảm giác tham nó đi ra như thế nào?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy sẽ dạy lại cho thấy cụ thể ha. Khi mà hít vô đó thì mình có cái cảm giác là thân tâm của mình, mình đã dẫn nó vào cái sự an tịnh rồi. Phải nhớ đầu tiên không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
(1:14:57) Trưởng lão: Hít vô thì tôi nghe cái thân của tôi, tôi hít vô thì đầu tiên tôi đã cảm giác được thân và tâm tôi rồi, cho nên vì vậy mà tôi dẫn nó vào cái sự an tịnh của thân tâm tôi, cho nên khi tôi cảm giác cái sự an tịnh đó, khi mà tôi hít vô thì theo cái luồng hơi thở, thì cái cảm giác an tịnh đó nó từ ở trên đầu tôi nó chạy tới dưới chân.
Nhưng mà cái cảm giác an tịnh đó nó đi tới đâu, thì cái đề mục mà quán ly tham đó thì tôi cảm thấy như là cái tâm tham của tôi ở trong nó bị đẩy theo cái trạng thái hỷ lạc đó đó, nó bị đẩy cái tham nó ra. Phải không? Rồi bây giờ tôi thở ra, thì tôi thấy như là nó đẩy cái tâm tham nó, nó đi theo cái luồng hơi thở tôi nó đi ra. Do đó, tôi ngồi tôi tu mà tôi cảm giác lên xuống, lên xuống, lên xuống như là một cái ống thổi, mà cái ống bễ mà thổi theo cái hơi thở, nhưng mà cái thân tôi, toàn thân tâm của tôi nó an ổn, mà nó an ổn tới đâu thì cái tâm tham tôi nó lìa ra tới đó.
Bây giờ hít vô thì nó cũng đẩy ra, lìa ra theo dưới chân tôi ra hết mà tôi thở ra thì nó dồn lại nó đẩy lên trên miệng tôi, trên mũi tôi nó cũng đẩy ra hết những cái tham tham. Cho nên cái an ổn này nó đẩy lui, đẩy tới làm như là cái pít-tông mà nó đẩy cái hơi ra vậy, thì cái cảm giác tôi ngồi đây mà tôi thấy hoàn toàn cái tâm tôi nó bị đẩy cái tham ra hết, rồi nó đẩy cái tham trở ra, đẩy tới, đẩy lui nó đẩy ra hết, hoàn toàn nó như là một cái người cầm cây chổi mà quét tới, quét lui, quét tới, quét lui nó làm cho cái tâm tôi quá sạch sẽ, nó không còn tham nữa.
Mà tôi ngồi tôi tu ba mươi phút thì tôi thấy sao nó nhẹ nhàng vô cùng lận, rồi tôi tiếp tục tôi tu vậy trong một ngày hay tuần lễ tôi thấy cái tâm tham nó vắng bóng rồi, nó không còn muốn gì nữa hết, nó không còn tham muốn ăn, uống gì nữa. Đó là tôi đã tu tập đúng cách rồi.
Sư Phước Nhẫn: Mà cái chữ tham ở đây thì nó, nói chung là nó trừu tượng chứ nó không có hình ảnh nào.
Trưởng lão: Nó không có hình ảnh nào hết. Nó là nó như nó tượng trưng cho cái dục của mình thôi.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Cái lòng ham muốn của mình.
Sư Phước Nhẫn: Cái này cũng như mình tưởng ly tham vậy đó.
Trưởng lão: Tưởng ly tham đó. Coi như luôn luôn lúc nào bây giờ mình từ cái chỗ mà cảm giác là mình đã cũng dùng tưởng rồi. “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác…”, là có cái cảm giác là có cái tưởng chứ không có cái tưởng thì nó không có đâu.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Đó là cái tưởng rồi.
Sư Phước Nhẫn: Nên cái “An tịnh tâm hành” cũng có cảm giác.
Trưởng lão: Cảm giác.
Sư Phước Nhẫn: Rồi qua cái quán ly tham cũng có cảm giác.
Trưởng lão: Con cũng cảm giác.
Sư Phước Nhẫn: Nói chung là cái chữ “cảm giác” nó theo mỗi cái đề mục.
(01:17:12) Trưởng lão: Mỗi cái đề mục của nó, tới cuối cùng của nó là nó dẫn bằng cái cảm giác nó thôi đó. Cho nên nó không có tập trung gom vào một cái đối tượng, vì vậy mới đúng là cái Định Niệm Hơi Thở. Chứ còn nếu mà nó gom vào thì nó là Quán Niệm Hơi Thở chứ không thể nào nói Định Niệm Hơi Thở.
Cho nên cái người mà tu dạy, mà tu Định Niệm Hơi Thở mà dạy mà ngồi mà nhìn hơi thở mà để ức chế cái tâm mình, thì coi như là tu không đúng cái phương pháp của Định Niệm Hơi Thở của Phật rồi. Sai rồi cho nên hầu hết là các Tổ là nhìn, nghĩ tưởng ra là cái phương pháp đó tưởng là tập trung trong hơi thở để cho hết vọng tưởng chứ không phải. Ở đây đức Phật mục đích là dạy chúng ta nương vào hơi thở để ly tham, sân, si để cho tâm định tĩnh hơn, đó là cái chính.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy đây cũng là cái bài thuốc để trị bệnh Thầy.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Thí dụ như mà: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, là cũng như cái tâm mình lúc mình trạo cử đó thì mình dùng cái này, dùng cái đề mục này mình tu thì nó hết trạo cử.
Trưởng lão: Đúng vậy. Đó là cái phương pháp mà, để đối trị.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Khi mà cái tâm mình trạo cử thì mình sử dụng nó, mình nhắc nó vài ba lần thì nó hết trạo cử, vì nó an tịnh rồi, nó hết.
Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà khi mình trạo cử, mình muốn dùng cái này mình để mình trị cái trạo cử, mình có nên đi từ đầu đến đây hay là mình nhảy vô liền?
Trưởng lão: Không. Mình nhảy vô liền.
Khi nào mình tu tập tới thuần rồi, mình dẫn nó được an tịnh rồi, thì ngay gặp cái trường hợp nào là xách nó ra sử dụng ngay. Xách ra sử dụng ngay liền cái đề mục đó, chứ không phải là phải đi từ đầu chí đuôi cho tới chỗ đó rồi mới được, không phải đâu.
Mỗi đề mục bây giờ con thấy cái tâm con mất định tĩnh, tức là con tu ở trên cái pháp Thân Hành Niệm đi, mà con thấy sao nó không định tĩnh, con nhắc liền, nương vào hơi thở bắt nó định tĩnh liền, thì lúc nó định tĩnh rồi bắt đầu ở trên thân hành mà xả cái đó ra, cái nó luôn luôn định tĩnh trên thân hành. Hay lắm! Bởi vì nó lợi ích, mình biết sử dụng nó là lợi ích lắm.
Sư Phước Nhẫn: Nó cũng kết hợp với Như Lý Tác Ý…
Trưởng lão: Nó kết hợp đó. Nó kết hợp hay lắm.
Sư Phước Nhẫn: Rồi cái: “Cảm giác tâm hành” nó trị bệnh gì Thầy?
Trưởng lão: Cái “cảm giác tâm hành” nó trị bệnh tham dục của mình chứ. Can tâm hành đó, tức là: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”, tức là cái tâm mà dục của mình nó, coi như là cái tâm của mình là cái quả đó, cái kết quả của nó, nó ham muốn cái gì mà nó đã xả không được của nó, thì mình dùng cái đó để mình xả nó được.
Thí dụ như bây giờ mình có cái đó mà người ta hỏi xin mình, mình không muốn cho mà mình bây giờ mình muốn xả được cái tâm mà không muốn cho này đó, để mình cho người ta mà mình thấy mình không tiếc đó, thì cái mà còn kiết sử đó, thì cái đó nó là cái hữu tham kiết sử nó còn có đó, thì phải dùng cái đó để mà đối trị nó mới được, nó mới hết.
(1:19:50) Trưởng lão: Nói chung là cái phương pháp nó mà tâm hành đó, mà để mà xả nó thì đó là cái phương pháp để diệt kiết sử thôi. Cái gì mình có mà mình bị dính mắc mình không xả được nó đó, thì cái đó dùng nó. Biết áp dụng thì Thầy nói nó kết quả, mà không biết áp dụng thì không kết quả.
Sư Phước Nhẫn: Rồi cảm giác tâm hành là trị mấy cái bệnh về dục?
Trưởng lão: Dục.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái: “An tịnh thân hành” trị bệnh nào Thầy?
Trưởng lão: Nó trị về bệnh thọ, thân khổ của nó, đau nhức bệnh tật. Cái kia nó thuộc về tâm còn cái này nó thuộc về thân mà.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Cho nên, thí dụ như bây giờ cái thân con nó đau nhức chỗ này, chỗ kia thì con nhắc nó chút xíu nó hết, nó hết đau ngay.
Sư Phước Nhẫn: Là “An tịnh thân hành”?
Trưởng lão: An tịnh thân hành.
Sư Phước Nhẫn: Còn: “Cảm giác toàn thân”, thì nó trị bệnh nào Thầy?
Trưởng lão: “Cảm giác” thì chỉ nó là mới tập để cho cảm giác, đặng sau khi mình sử dụng được cái thân hành, tâm hành thôi.
Sư Phước Nhẫn: Bắt đầu đề mục thứ tư nó mới trị bệnh được?
Trưởng lão: Ừ. Đó mới là trị. Chứ còn mấy cái kia nó không trị, nó chỉ cảm giác thôi. Mà nhưng mà có cái cảm giác được thì mới có cái nhận ra được cái “An tịnh thân hành”, “an tịnh tâm hành”.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái “quán đoạn diệt” với “quán từ bỏ” nó trị bệnh gì Thầy?
Trưởng lão: “Quán đoạn diệt” đó, “quán từ bỏ” đó là, coi như là nó trị tất cả mọi cái.
Thí dụ như về tâm hay hoặc về thân đều là phải đoạn diệt hết. Mình muốn, thí dụ như bây giờ, khi mà nó ly rồi, nó lìa rồi bây giờ đoạn diệt nó đừng có cho nó tới lui nữa thì mới dùng cái này, còn nếu mà mình không có đoạn diệt, mình ly thôi thì mình “quán ly tham”, “quán ly sân” được rồi, mà bây giờ nếu mình muốn đoạn diệt nó thì phải dùng cái này mà đoạn diệt, quán đoạn diệt nó.
Sư Phước Nhẫn: Còn “với tâm định tĩnh” thì mình trị bệnh gì Thầy?
Trưởng lão: “Với tâm định tĩnh” là mình trị tâm loạn động, để cho nó định với trị cái phóng dật. Hễ định tĩnh nó mới không phóng dật.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Còn “tâm hân hoan” là trị cái bệnh gì Thầy?
Trưởng lão: Trị bệnh chán nản, bệnh bi quan đó. Nó hân hoan thì nó mới trị cái bệnh chán nản.
Sư Phước Nhẫn: Còn lúc mà mình xài cái “tâm giải thoát” sao?
(01:21:51) Trưởng lão: “Tâm giải thoát” là thân tâm của mình nó có cái trạng thái hỷ lạc của cái Sơ Thiền ly dục ly ác pháp đó, ly dục, do ly dục sanh hỷ lạc thì đó là cái trạng thái giải thoát của nó.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái bài này, cũng như cái hơi thở này đó là mình xài, thí dụ như mình bị một trường hợp trạo cử đi.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Thì mình dùng, áp dụng cái đề mục: “An tịnh tâm hành”, mình ngồi mình thở hay là mình đi mình thở Thầy?
Trưởng lão: Mình đi… Nếu mà trong khi đó đó mình thấy rằng nó trạo cử, nó có nhiều cách, thí dụ mình trạo cử mà về nó hôn trầm, nó cứ thùy miên, nó cứ gục tới, gục lui hoài đó thì mình nên đi, mà mình dùng nó. Dùng cái hơi thở mà mình, chứ mình không có tác động dưới bàn chân của mình, mình đi. Mình biết mình đi, mình dùng hơi thở để mình tác động nó: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành…” hít vô thở ra đó thì mình có thể phá nó.
Bây giờ nó loạn tưởng thì mình ngồi, nó không có buồn ngủ thì mình ngồi thì nó dễ hơn, mình đi nó động cho nên mình ngồi đó, cái mình nương vào cái mình ngồi dễ cảm giác lắm. Cảm giác để cho nó đẩy lui ra.
Cho nên mình ngồi xếp bằng lại đàng hoàng, gom tâm đàng hoàng, lưng thẳng đàng hoàng, bắt đầu: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, thì mỗi hơi thở mình rất kỹ lưỡng, mình cảm giác cái tâm hành của mình thì một chút xíu sau nó an tịnh được liền, nó không có trạo cử nữa.
Chứ còn không khéo mình hàng phục trạo cử không nỗi đâu. Có nhiều người cứ ngồi hít thở, hít thở mà tới chừng nó không bám được ở trong hơi thở rồi bắt đầu nó trạo cử, cái này nó nghĩ tới cái kia, nghĩ tùm lum à, mà không có dùng được cái câu pháp hướng, cái đề mục này thì kể như là mình bị loạn rồi, không thắng được nó đâu.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra mình ngồi cũng được, đi cũng được, tùy theo trường hợp.
(01:23:32) Trưởng lão: Đi cũng được, tùy theo trường hợp. Bởi hễ trường hợp mà mình buồn ngủ, mình nghe nó khuya rồi hay buồn ngủ, mình ngồi coi chừng nó gục đó. Hễ nó vừa lặng, nó không có trạo cử nữa thì nó gục mình, còn hễ mà nó trạo cử mình cứ ngồi đi, mình ngồi mình tu thì nó mau lắm. Thì Thầy nói đây là nói hai cái trường hợp khi mà chúng ta dùng cái “an tịnh tâm hành” chúng ta phá cái trạo cử này rồi, mà khi nó dừng cái trạo cử rồi coi chừng cái hôn trầm nó sẽ tới. Nó tới thì bắt đầu đó mình đứng dậy mình cũng dùng cái hơi thở để mình phá nó đi, phá luôn cái si đó.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra như cái lý là tức là cái kiểu cái câu là: “An tịnh cảm giác” đó là mình tác ý.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Mình Như Lý Tác Ý là mình dùng cái đề mục mình tác ý.
Trưởng lão: Tác ý.
Sư Phước Nhẫn: Rồi cái hơi thở nào mà để vô Sơ Thiền Thầy?
Trưởng lão: Cái hơi thở Sơ Thiền đó thì…
Sư Phước Nhẫn: Không mình… Cũng như chìa khoá mình vô Sơ Thiền là dùng Định Niệm Hơi Thở?
Trưởng lão: Coi như là cái hơi thở mà nó sẽ vô Sơ Thiền là cái hơi thở tự khi mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn, nó thay đổi toàn bộ hơi thở đó nó sẽ vào, chứ còn bây giờ nó mình không có cái hơi thở nào mà vào hết. Hiện bây giờ cái hơi thở mình không có cái hơi thở Sơ Thiền, cũng như chưa có nó thì không có làm sao mình tu được hết, mà hễ mình ly dục ly ác pháp hoàn toàn hết rồi, thì tự nó xuất hiện cái hơi thở nó Sơ Thiền đó.
Sư Phước Nhẫn: Cũng như hồi đó Thầy nói cái hơi thở là cái chìa khoá để vô Sơ Thiền.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Cái hơi thở đó là tự nó có hay là mình tu tập nó?
(1:24:52) Trưởng lão: Mình tu tập nó sẽ có, bây giờ mình tu tập, mình có nương vào cái hơi thở mình đang có của bình thường của mình đây, thì mình tu tập. Cho nên nó là cái chìa khoá để mình mở vào cái ổ khoá của cái hơi thở mà Sơ Thiền. Con hiểu không?
Bây giờ đây là cái chìa khoá nè, cái hơi thở mình đang thở đây là chìa khoá, cho nên mình điều khiển nó dài hay ngắn theo cái ý của mình rồi. Mà khi đó đó mình điều khiển cho cái cả thân tâm của mình theo những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở đó, thì mình đều nương vào hơi thở, rõ ràng nó là cái chìa khoá rồi, có phải đúng không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ tới mình mở cửa thì nó là cái ổ khoá của nó, tức là cái hơi thở này là hơi thở của Sơ Thiền, cái ổ khoá của nó để mình vào cửa.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình phải thực tập hết mười tám cái đề mục.
Trưởng lão: Mười tám cái đề mục. Do đó nó mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn, thì bắt đầu cái hơi thở của Sơ Thiền nó mới xuất hiện. Khi mà nhập Sơ Thiền thì cái hơi thở nó mới xuất hiện.
Sư Phước Nhẫn: Mình mới hướng tâm nhập Sơ Thiền?
Trưởng lão: Ừ. Thì lúc bấy giờ nếu mà tâm mình, khi mà nó cái Trạch Pháp Giác Chi đó, cái Trạch Pháp Giác Chi tức là cái ý muốn của mình nó khởi ra rồi, thì mới bảo là bây giờ đó cái thân và tâm phải nhập vào cái Sơ Thiền thì ngay đó cái hơi thở nó xuất hiện liền. Tức là nó ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc rồi thì ngay đó, thì ngay cái hơi thở nó xuất hiện để cho mình nhập vô. Thì chỉ có cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới chỉ định cho mình vào Sơ Thiền nó mới là trọn vẹn thôi, chứ còn sự thật mình tập chứ mình chưa nắm vững đâu, tới cái Trạch Pháp Giác Chi nó muốn nhập cái nào, định nào đó Dục Như Ý Túc, mà Định Như Ý Túc, nó chỉ định vô cái Sơ Thiền thì bắt đầu đó mới thấy được cái hơi thở liền thôi. Chứ còn bây giờ thì mình không làm được đâu.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra lúc trước con nghe nói cái hơi thở là cái chìa khoá để nhập Sơ Thiền, mà không biết hơi thở nào?
Trưởng lão: Thì đó hơi thở của bài Định Niệm Hơi Thở đó.
Sư Phước Nhẫn: Nghĩa là hết mười tám cái đề mục?
Trưởng lão: Hết mười tám cái đề mục này.
Sư Phước Nhẫn: Rồi mình mà muốn vô Sơ Thiền là mình phải nhuần nhã mấy cái này hết?
Trưởng lão: Nhuần nhã hết.
Sư Phước Nhẫn: Rồi mình ngồi lại cái mình nhuần hết cái này, cái chừng nào cái trạch pháp nó xuất hiện rồi mình mới tác ý vô liền.
Trưởng lão: Mình tác ý vô cái nó vô liền, chứ không phải là mình tu rồi mình phải còn đi hết mười tám cái đề mục thiền này mình mới được, thì không phải vậy, nó có trạch pháp rồi, nó xuất hiện rồi thì bắt đầu mình cứ sử dụng nó, giờ muốn Sơ Thiền cái mình ra lệnh cái nó vô.
Sư Phước Nhẫn: Ủa vậy thì còn cái đường đi mà Tứ Niệm Xứ đi vô Sơ Thiền nữa là sao Thầy?
(01:27:02) Trưởng lão: Thì cái đường đi Tứ Niệm Xứ coi như là hoàn toàn là cái Định Niệm Hơi Thở này nó nằm ở cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ rồi. Con thấy không? Cái giai đoạn đầu là Tứ Chánh Cần chứ gì? Ở trên Tứ Niệm Xứ, sau đó mình tu tập đâu phải chuyện dễ đâu, nói vậy chứ đâu phải chuyện dễ. Mười sáu cái đề mục này chưa chắc là mình đã đạt trọn vẹn đâu. Cho nên vì vậy đó sau khi mình đạt được cái phần nào đó ở trên cái này thì nó trợ giúp cho mình, để mình tiến tới cái giai đoạn thứ hai của nó, mình tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, thì mình khắc phục thì sau đó mình mới trở lại cái Định Niệm Hơi Thở, thì mình mới hoàn tất được những cái kết quả của trên những cái mà đề mục của nó mình chưa có đạt được. Chứ không phải là con đạt hết nổi đâu.
Sư Phước Nhẫn: Nói vậy chứ cũng phải câu hữu Tứ Niệm Xứ.
Trưởng lão: Câu hữu hết đó, Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu riêng nó nổi mình nó đâu. Nó cả một cái hệ thống của người ta mình đâu có lấy riêng ra được, mặc dù nó đưa cái Định Niệm Hơi Thở này nó như vậy đó, nhưng mà sự thật ra thì mấy con phải tu với Định Vô Lậu, con câu hữu với nó con mới thấy con mới đạt được những kết quả của đề mục nó. Rồi như vậy mà chưa đâu, chưa có đạt được kết quả của cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này trọn vẹn đâu, vì vậy mà con phải câu hữu đến Tứ Niệm Xứ, con phải tu Tứ Niệm Xứ nè.
Rồi mới có đạt được một phần nào đó tới Thân Hành Niệm mới là: “Với tâm định tĩnh” chứ đâu có ở trên cái Định Niệm Hơi Thở mà con tác ý: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, nó làm sao có định tĩnh nổi, nó phải đi tới Thân Hành Niệm của nó, nó mới định tĩnh được, nó Bảy Giác Chi mới xuất hiện từ ở chỗ này. Cho nên đâu có… Nếu mà riêng nó thì ông Phật ông cho mình cái Định Niệm Hơi Thở rồi, mình tới “Tâm định tĩnh” nó xuất hiện Bảy Giác Chi thì cần gì phải tu Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm nữa làm gì? Con hiểu chỗ đó không?
Sư Phước Nhẫn: Cái này cần phải cái giáo trình Thầy ơi. Chứ còn như vậy con rối quá …
(01:28:33) Trưởng lão: Bởi vậy nó đâu có đơn giản đâu. Nó cái hệ thống của nó, hệ thống Định Niệm Hơi Thở thì nó luôn vậy đó, chứ mà tới cái đề mục đó mà muốn đạt được thì phải qua cái tu tập cái gì nó mới đạt được cái đó, chứ không phải là muốn vô cái đó mà nó kết quả được liền đâu. Nhưng mà cái hệ thống của nó là hệ thống Định Niệm Hơi Thở là nó như vậy đó.
Mà tới đó mình thấy mình vô cái đó không được đó, thì mình phải trình với Thầy: “Bây giờ con vô cái chỗ này, cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này, con tác ý mà sao nó không có đạt được cái này”. Thì bắt đầu cái ông thầy người ta biết, người ta dẫn cho con phải tu cái này nè, để cho nó hoàn thành được cái này, cái đề mục này.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chứ không phải là mình vô là được?
Trưởng lão: Không phải vô là được, Thầy nói nội dẫn mà nó cảm giác, rồi dẫn mà an tịnh nó Thầy thấy nó cũng mất hết cái hơi mình rồi. Chứ chưa nói “quán ly tham”, “quán ly sân" đó, mà Thầy nói nhiều khi chưa chắc đã là có cái cảm giác đẩy được rồi. Coi thì nó vậy đó, chứ mà tu tập nó cả một cái quá trình đó và đồng thời phải có một vị thầy người ta hướng dẫn cho mình, người ta biết được trong lúc đó mình bị kẹt ở cái chỗ này, mình không kết quả. Mà mình phải thành thật, chứ mình nói mình cứ kết quả, kết quả cuối cùng đó mình không kết quả cái gì hết.
Sư Phước Nhẫn: Kết quả tưởng không.
Trưởng lão: Kết quả tưởng đó, nó không có kết quả đâu. Phải kết quả thật sự, mình thấy thật sự, thì mình mới dám xin Thầy lên cái đề mục khác.
Còn nếu mà trong cái đề mục đó mình tu thời gian một tuần lễ hay hoặc là nửa tháng mình thấy không kết quả, bây giờ mới xin Thầy bây giờ con tu sao nó chưa kết quả thì Thầy sẽ biết cách Thầy đưa cho cái pháp, rồi con tu cái pháp đó cho có kết quả cái đề mục đó. Rồi bắt đầu mới tới cái đề mục khác, nó mới có đi qua được, chứ còn không khéo đi qua không nổi cái đường này.
(1:30:02) Sư Phước Nhẫn: Con cũng thích tu mấy cái này lắm, hồi nào chưa có hoàn cảnh là cái này này.
Trưởng lão: Tu hay lắm, tu pháp nào nó có kết quả pháp nấy rõ ràng à. Con tu cái đề mục thiền đó kết quả, mà nếu không kết quả thì phải thưa thầy: “Bây giờ con tu sao nay một tháng rồi mà sao nó không có kết quả cái đề mục này, làm sao cho nó có kết quả?”. Thì lúc bây giờ đó cái người thầy, người ta biết là bây giờ tu cái đề mục này mà không kết quả thì người ta dẫn mình lại cái chỗ này.
Còn thí dụ như mới vô đầu mà con dẫn tâm mà sao nó cứ có vọng tưởng hoài thì người ta dạy cho con, nghĩa là cách thức người ta dạy cho con bằng từng hơi thở, với con phải là tập trung kỹ lưỡng từng hơi thở thì nó sẽ, con dẫn tâm vào được hơi thở. Cách thức của người ta hướng dẫn mà người ta phải có trải qua cái kinh nghiệm, người ta hướng dẫn cho mình đạt được cái chất lượng của nó, để sau khi cái chất lượng được cái kết quả của cái đề mục đầu, thì mình mới đi qua được cái đề mục thứ hai. Chứ còn đề mục đầu mà chưa kết quả, mà nhào qua đề mục thứ hai thì kể như là có ăn nhằm nhò gì đâu, nó không kết quả thì cái đề mục thứ hai thì tu chơi vậy mà không tới, không nổi.
Sư Phước Nhẫn: Nghĩa mình cái giai đoạn mà tu tập Tứ Chánh Cần đó Thầy, thì cái tu xả tâm đó cái đời sống mình là như thế nào? Có cần phải là độc cư hay là tiếp duyên hay là vẫn bình thường?
Trưởng lão: Coi như là bắt đầu vào tu mà trên Tứ Niệm Xứ thì coi như là chúng ta độc cư hoàn toàn hết.
Sư Phước Nhẫn: Tứ Chánh Cần hết?
(01:31:19) Trưởng lão: Tứ Chánh Cần chúng ta cũng độc cư rồi đó, vô tu là bắt đầu mà tu Tứ Chánh Cần là độc cư rồi, bởi vì cái phương pháp độc cư là phòng hộ rồi, mình giữ tâm mình đừng có phóng dật, chứ còn mà nếu mà mình vô tu mà mình không phòng hộ mình giữ tâm mình thì kể như nó bị phóng dật, rồi mình nhiếp vô nó không vô đâu.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra xả tâm là cũng phải độc cư luôn?
Trưởng lão: Phải độc cư luôn hết.
Sư Phước Nhẫn: Nghĩa là toàn bộ là phải độc cư? …
Trưởng lão: Phải độc cư luôn hết mình mới vô được, chứ còn mà nếu không độc cư vô không được.
Sư Phước Nhẫn: Còn tiếp duyên là không có tu được?
Trưởng lão: Ờ, không được rồi. Tiếp duyên không được. Bởi vậy hội họp nói chuyện này kia thì coi như là không được rồi, phóng dật hết, mà nó phóng rồi thì khó tu lắm, nó không vô, tu không kết quả đó. Tu không kết quả.
(01:32:00) Sư Phước Nhẫn: Còn câu hỏi số năm, kỳ rồi con chưa có rành, xin Thầy diễn tả chi tiết hai cái trường hợp. Cái trường hợp thứ nhất là: Tâm định trên hơi thở, còn trường hợp thứ nhì là: Cũng như tâm định trên thân, thân định trên tâm đó.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Tâm định trên thân là như thế nào, cái trạng thái sao?
Trưởng lão: Tâm định trên thân tức là nói về trạng thái, thì khi nào mà người nào mà ly dục ly ác pháp người ta mới thấy được cái trạng thái đó. Còn mình chưa ly dục ly ác pháp thì mình không thấy, mà tâm định trên thân tức là cái Sơ Thiền chứ không có gì hết.
Nghĩa là cái tâm của mình nó định ở trên cái thân, mà nó định ở trên cái thân lúc bây giờ thì nó định trên thân hành của nó, cho nên ví dụ như bây giờ mình ngồi đây, mà luôn luôn cái tâm mình nó luôn luôn ở trên cái hơi thở của mình mà nó không phóng tâm, phóng dật thì đó là tâm định trên thân. Cho nên vì vậy nó là cái Sơ Thiền rồi, khó, khi mà nó đã định như vậy rồi, thì hoàn toàn là cái người đó phải ở trong cái trạng thái hỷ lạc của cái người ly dục rồi, cho nên vì vậy mà cái trạng thái rất tuyệt vời. Thầy nói, người nào mà chưa có nếm được cái mùi vị này thì chưa có biết cái Sơ Thiền ra cái ôn gì hết đâu. Còn cái người nào mà đã nếm được cái mùi vị này, mới thấy được thân tâm của chúng ta khi mà ở trong cái trạng thái này rồi, nó nhẹ bâng.
HẾT BĂNG