THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 02 - THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:57:12]
Thời gian: 1998
Tên cũ: 1998-Giới-Định-Tuệ 2-Ptử ChâuĐốc
(00:06) Phật Tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Tôn Đức Tăng, Phật tử Châu Đốc chúng con hôm nay đủ phước, đủ duyên đã được nghe chơn Tôn Đức Tăng dạy cho về giới luật, về đạo đức sống thế nào để không làm khổ mình, khổ người. Hôm nay tiếp tục chúng con xin thỉnh Ngài giảng dạy cho chúng con có Chánh kiến về Thiền định. Để cho chúng con biết phân biệt thế nào là tà thiền, thế nào là chánh thiền. Để chúng con được lợi ích trong Phật pháp, chấn hưng Phật pháp, không có đi sai lạc con đường của Phật đã dạy.
Chúng con thành tâm cầu xin chơn Tôn Đức Tăng từ bi hứa khả cho chúng con được ân triêm pháp nhũ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trưởng Lão: Thầy chấp nhận bữa nay là Thầy sẽ thuyết giảng cái giai đoạn thiền định của đạo Phật, để cho quý Phật tử rõ.
Phật Tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chơn Tôn Đức Tăng đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin thành tâm đảnh lễ ba lạy cúng dường.
Trưởng Lão: Chúng ta hiểu được cái đức hạnh của Phật là như vậy, thì hôm nay Thầy giảng về thiền định của Phật. Từ lâu tới giờ nghe nói thiền định thì mọi người ai cũng muốn tu thiền định, vì nghe nó thực và nghe nó hay. Cái lý luận thì cũng rất là tuyệt vời và nó có logic, làm cho chúng ta thấy nó rất thực. Nhưng mà nhìn lại cái quá trình mà chúng ta tu cái thời gian rất dài. Những cái sự thiền định đó nó đạt được những kết quả gì và cái sự siêu việt nó như thế nào, nó có hay không?
(02:22) Cho nên chúng ta nghe nói thiền Yoga, rồi các đạo sĩ Yoga như thế này, thế khác, có nhiều cái đặc biệt siêu việt thần thông. Rồi đến Mật Tông thì chúng ta nghe các vị Lạt Ma, nó cũng thực hiện nhiều những cái phương pháp tu hành, người ta cũng có những cái siêu việt. Vậy thì cái thiền định của đạo Phật, như thế nào là thiền định của đạo Phật, mà nó có cái thần lực như các cái thiền định kia không?
Thì hôm nay Thầy sẽ dạy về thiền định của đạo Phật. Mà từ lâu tới giờ thì người ta đều xem cái thiền định đó, là cái thiền định Phàm thiền. Người ta gọi cái tên là Thiền Phàm Phu, người ta đặt cho nó cái tên Thiền Phàm Phu. Rồi người ta còn gọi nó một cái tên nữa là Thiền Tiểu Thừa.
Thiền Tiểu Thừa có nghĩa là cái cổ xe nhỏ, cái thiền nhỏ chứ không phải là thiền lớn. Đó thì nó mang cái tên như vậy mà chính đó là cái thiền của đạo Phật. Mà chính đức Phật nhờ thực hiện cái thiền này, mà Ngài đã làm chủ được cái sự sống chết của Ngài, là Ngài làm chủ được cái khổ của cái kiếp người.
Do đó thì hôm nay Thầy sẽ giảng trạch cho quý Phật tử có duyên, hôm nay còn có mặt được nghe bốn cái loại thiền, mà người ta gọi là Tiểu thừa, gọi là Phàm Phu Thiền này. Cho nên nghe cái tên là chúng ta đã thấy không ưa rồi, không thấy thích rồi.
Người ta nghe cái tên mà như Như Lai Thiền, Tối Thượng Thừa Thiền, hay hoặc là Đại Thừa Thiền. Rồi chúng ta nghe thấy nó lớn cái chúng ta ham. Nhưng mà nghe nói Tiểu Thừa, Phàm Phu Thiền thì nghe nó, sao nó thấp, nó bé quá. Nhưng mà chính những cái hành động của cái loại thiền này, chúng ta thấy nó có những cái sức lực, nó làm chủ được cái sự sống chết của con người.
(04:26) Như hồi nãy Thầy đã nói, đức Phật cũng nhờ cái thiền này mà đi đến cái sự cứu cánh của mình. Mà mỗi cái thiền của nó mà chúng ta tập thì chúng ta có thấy kết quả liền, chứ không phải đợi tới chừng nào đó nó mới giải thoát, mà nó kết quả ngay liền. Thấy nơi thân tâm của mình có cái sự làm chủ thật sự.
Thì cái thiền thứ nhất, như chúng ta đã biết đó là, đức Phật gọi là Tứ Thiền, là bốn cái loại thiền. Thì bốn cái loại thiền đó tên là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền.
Đức Phật còn cho nó cái tên nữa, đó là Thánh Trú. Những cái bậc Thánh người ta mới trú vào được những cái loại thiền đó. Rồi người ta còn gọi, đức Phật ở trong kinh Phật còn gọi nó là Phạm Trú. Phạm Trú là những người đức hạnh mới trú được vào trong những cái thiền đó, còn những người mà không có đức hạnh thì không thể nào trú được vào cái thiền đó. Thì ở trong kinh điển Phật còn gọi nó là Như Lai Trú. Những bậc mà chứng đạo thường sống ở trong đó, cho nên gọi là Như Lai Trú. Thì những cái tên đó, là những cái tên mà trong kinh điển của Phật đã xác định đúng cái nghĩa của bốn cái loại thiền này.
Nhưng mà các nhà học giả thì họ cho nó là ‘Tiểu Thừa Phàm Phu Thiền’. Thế mà trong kinh điển của Phật thì kêu nó như là "những cái nơi cư trú vững chắc cho những bậc giải thoát”, thì người ta mới ở được trong các loại thiền này.
(06:00) Vì vậy trên cái bước đường tu tập, thì đức Phật có xác định là đạo Phật có năm lực. Bởi vì nói đến thiền định thì phải nói là Thần lực. Thần lực, cái lực của một vị Thần thì quý vị nghĩ nó phải siêu việt vô cùng mới gọi là Thần lực.
Còn vừa rồi thì Thầy giảng về đức hạnh, mà trong kinh điển của Phật gọi là Oai lực. Oai lực tức là cái oai nghi tế hạnh, cái hành động của một vị đó, nó làm cho chúng ta phải kính mến, kính mến cái vị tu sĩ đó, gọi là Oai lực.
Còn bây giờ đến dạy nói về thiền định thì phải nói về Thần lực. Vậy thì cái Thần lực của đạo Phật, vậy cho nên muốn được cái Thần lực như vậy, thì đức Phật xác định thêm bốn cái loại thiền này nó là Định lực. Cho nên nó có bốn cái lực.
Cái Tín lực, là cái lòng tin của mình đối với Phật pháp và giới.
Rồi cái Tấn lực, là cái sự siêng năng mà không phải cố ép mình siêng năng, mà tự động nó siêng năng gọi Tấn lực.
Rồi Niệm lực, Niệm lực là cái niệm nó không có bị mất, gọi là Niệm lực, sức lực của cái niệm.
Rồi Định lực, là cái sức lực của Thiền định.
Rồi Tuệ lực, là cái sức lực của Trí tuệ.
Cho nên đức Phật xác định cho chúng ta biết rõ những cái bài pháp, mà chúng ta tu tập ở trong cái ba bẩy Phẩm Trợ Đạo. Thì Tín lực đức Phật cho chúng ta thực hiện cái Tín lực đó, thì phải là thực hiện Tứ Bất Hoại Tịnh. Bốn cái pháp làm cho thân tâm của chúng ta thanh tịnh, gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, gọi là Tín lực.
Tấn lực thì đức Phật xác định cho chúng ta muốn được có cái Tấn lực, thì chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần. Tức là các pháp ác chưa có sanh khởi, thì mình ngăn không có cho sanh khởi, mà đã sanh khởi thì mình đoạn diệt. Các pháp thiện chưa sanh khởi thì sanh khởi và khi mà đã sanh khởi thì tăng trưởng các pháp thiện lên, chứ không có bảo chúng ta diệt cái điều thiện. Thì đó là cái Tấn lực.
(08:37) Rồi Niệm lực thì đức Phật xác định rằng Tứ Niệm Xứ là Niệm lực.
Mà đến Định lực thì đức Phật xác định đó là Bốn Thiền. Sẽ là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, đó là Định lực. Cho nên Định lực nó thuộc về Thần lực, thì nó cụ thể rất rõ ràng.
Và Huệ lực thì đức Phật xác định là Tứ Diệu Đế là Huệ lực.
Cho nên mỗi một cái lực thì đức Phật đã xác định cho một cái pháp, một cái bài pháp để mà chúng ta thực hiện trên con đường tu tập của chúng ta.
Vì vậy cho nên những cái thiền mà của đạo Phật nó thuộc về Định lực của một cái sức lực, của một người tu tập. Để nó làm chủ được sự sống chết thì nó phải có một cái lực như thế nào, chứ không phải mình ngồi thiền một cách cho hết vọng tưởng lơ mơ đó, rồi cái lực nó ở chỗ nào, mình không thấy. Cho nên mình tu hành là phải như thế nào để có cái lực của nó.
(09:35) Do đó nãy giờ Thầy xác định cái Bốn Thiền để chúng ta thấy thật sự nó nằm ở trong kinh sách của Phật rất rõ ràng. Và xác định nó, những cái tên tuổi nó rất rõ ràng. Vậy thì bắt đầu mà chúng ta trở về vị trí của chúng ta để thực hiện cái con đường thiền định này, thì đầu tiên chúng ta phải nhập được Sơ thiền.
Vậy thì hôm qua mà Thầy đã dạy về cái đạo đức của chúng ta là không làm khổ mình, khổ người, thì chúng ta phải sống giới luật. Lấy giới luật phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình để bảo vệ cái sự tu tập của chúng ta. Rồi thực hiện các loại định, như Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt. Bốn cái loại định này để mà chúng ta thực hiện cái Sơ thiền, tức là cái thiền thứ nhất.
Cho nên cả một cái vấn đề mà rất là quan trọng của cái Sơ thiền, thì chúng ta phải thực hiện nào là giới luật phải nghiêm chỉnh, rồi chúng ta phải sống đời sống thiểu dục tri túc, phải lấy giới luật phòng hộ sáu căn của mình, phải tu tập bốn cái loại định. Do đó chúng ta mới có thể ly dục, ly ác pháp được, cho nên cái Sơ thiền coi vậy chứ nó không đơn giản.
Vậy mà có nhiều người nghĩ rằng: "Khi mình ngồi hết vọng tưởng, không có niệm ở trong đó thì nó là Sơ thiền." Không phải. Sơ thiền ở đây của Phật là do cái tâm mà mình ly được cái lòng ham muốn của mình, mình xả được cái ác pháp ở trong tâm của mình, thì cái đó mới gọi là Sơ thiền.
Do cái thiền như vậy thì chúng ta thấy nếu mà chúng ta tập bốn cái định. Từ cái Định Vô Lậu, cái Định Niệm Hơi Thở, cái Định Chánh Niệm Tĩnh Giác và cái Định Sáng Suốt. Thì bốn cái loại định này, nó sẽ giúp chúng ta thực hiện được một cái tâm thanh tịnh, cái tâm thanh tịnh tức là cái tâm ly dục, ly ác pháp.
Như ngày hôm qua Thầy dạy đạo đức, là nhắm vào cái chỗ mà Sơ thiền đó chứ không phải gì khác nữa hết. Vì thực hiện được như vậy mới có thể nhập được Sơ thiền. Và khi Sơ thiền mà nhập được, thì cái tâm thanh tịnh của chúng ta đó là cái Đạo lực, cái Đạo lực của đạo Phật.
Cho nên đức Phật, hôm qua Thầy cũng có nhắc là Giới sanh Định, do giới nó làm cho chúng ta ly dục, ly ác pháp. Mà vì vậy mà cái tâm chúng ta mới được thanh tịnh. Mà cái tâm thanh tịnh không còn tham, sân, si, phiền não đó, thì cái tâm đó là cái tâm định, lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta nó có định. Mà khi nó có định, thì nó thanh tịnh mà nó định, thì nó sẽ tịnh chỉ được những cái điều kiện khác mà khi mà chúng ta muốn nhập các cái định khác sâu hơn.
(12:08) Cho nên cái hướng tu tập của chúng ta nó có cái hướng tu tập rất là rõ ràng. Khi một cái người mà tâm ly dục, ly ác pháp rồi thì cái tâm đó thanh tịnh, cho nên nó có một cái sức lực gọi là Định lực. Vì chúng ta có định nó mới có lực, mà khi cái tâm thanh tịnh thì nó có định, nó có định thì tức là nó phải có lực. Vì vậy mà đức Phật gọi là Tứ Thiền là Định lực.
Cái thiền đầu tiên, cái Sơ thiền, nó đã giúp cho chúng ta có định, cho nên chúng ta có cái lực của thiền định. Vì vậy mà bây giờ chúng ta muốn nhập cái thiền thứ hai để chúng ta làm chủ được cái lão, tức là già. Già là cái sự vô thường thay đổi, làm cho thân chúng ta thường thay đổi mà dần dần chúng ta già đi. Dần dần chúng ta đến, khi mà chúng ta đổi đến mức độ mà cằn cỗi, rồi không thể mà hồi phục lại cái sự sống, nó bị hoại diệt luôn, vì vậy mà chúng ta chết.
Do đó muốn mà cho không có già, thì cái người đó phải nhập Nhị thiền, nhờ cái Nhị thiền thì cái thân nó không thay đổi nữa. Vì ba cái chỗ mà hành động của nhân quả nó không hoạt động được.
Thứ nhất là cái thân ngồi bất động, thì nó không hoạt động được cho nên nó không thay đổi.
Thứ hai là miệng không nói, một người ngồi thiền mà còn nói chuyện được sao? Đâu còn đi tới, đi lui. Cho nên khi mà gọi là định, thì thân phải định mà tâm phải định. Mà tâm thì ly dục, ly ác pháp thì nó đã định rồi, mà cái thân thì chúng ta chưa có định, cho nên buộc nó phải ngồi.
Còn hồi mà chúng ta tu, tu để cho cái tâm thanh tịnh thì chúng ta phải đi kinh hành. Đi tới, đi lui để mà chúng ta xả ly, lìa cái tâm ham muốn và các ác pháp trong tâm của chúng ta. Do đó chúng ta tu mà cái tâm định thì chúng ta còn đi tới, đi lui được, bởi vì cái thân nó chưa định. Còn khi mà chúng ta muốn tu cho cái thân định, thì cái tâm phải định rồi thì tu cái thân mới định.
(14:04) Còn bây giờ quý vị chưa có tâm định, còn ham muốn cái này, cái nọ, cái kia. Mỗi chút thì còn giận hờn, phiền não, thế mà vô ngồi thiền để cho cái thân định, thì tức là chúng ta đi vào cái thân định, khép chặt không có cho nó hoạt động. Rồi bắt buộc cái ý chúng ta không có khởi niệm, diệt niệm thiện, niệm ác của nó đi. Do vì vậy mà chúng ta tu mãi mà chúng ta không có làm chủ được.
Còn trái lại khi mà trong tâm nó thanh tịnh rồi, thì bắt đầu cái người này đã có tâm định, thì nó không còn có phóng dật ra ngoài. Cho nên luôn luôn nó thanh tịnh, thì nó ở trên cái thân của nó, cái thân nó hoạt động. Bởi vì hồi mình tu, mình đi kinh hành, đi tới, đi lui trong tất cả mọi hành động, nó điều chú ý trong cái hành động của thân. Cho nên khi nó thanh tịnh rồi, thì luôn luôn nó quay vô nó biết cái hành động của thân nó, cho nên gọi là tâm định trên thân.
Cho nên khi mà cái tâm ly dục, ly ác pháp thì luôn luôn nó biết cái thân hoạt động của nó, nó không biết cái gì bên ngoài hết, cho nên gọi là tâm không phóng dật.
Đó phải hiểu cái lời của Phật dạy ở trong kinh sách, gọi là tâm không phóng dật, là tâm đã quay vô thân. Nó luôn luôn, cái biết của nó luôn luôn biết cái hoạt động của thân của mình. Thân thở nó biết thân thở, thân đi nó biết thân đi, thân ngồi nó biết thân ngồi. Mà mình không phải còn đang lúc tu tĩnh giác như vậy, mà bây giờ tự động nó, nó đã biết. Vì cái tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp thì cái tâm nó không còn quay ra nữa, mà nó quay vô nó nhận cái hành động của cái thân, gọi là tâm định trên thân, hay là tâm định vô thân.
Bây giờ cái tâm nó định rồi, thì do đó bây giờ chúng ta mới bắt buộc cái thân nó định lại cái tâm, gọi là thân định trên tâm, hay là thân định vô tâm, định trở lại, vậy thân tâm nó mới có định với nhau được. Cho nên chúng ta bắt đầu chúng ta tu cái Sơ thiền giúp cho tâm chúng ta định, tâm nó định vào cái thân của nó.
Bắt đầu bây giờ chúng ta tu Nhị thiền cho đến Tứ thiền cái thân nó mới có định. Chỉ có cái thiền đầu tiên là cái tâm chúng ta định. Rồi ba cái thiền này, ba cái thiền sau cùng, đến cuối cùng cái thân nó mới định trọn vẹn, chứ nó không định ngay liền được. Thì chúng ta còn cái khó khăn nào mà chúng ta phải trải qua cho tới Tứ thiền, cái thân của chúng ta mới định được?
Là vì rất khó, khi mà cái tâm nó định, nó quay vô rồi thì nó không có khởi cái niệm, nó không có khởi niệm như cái ý của chúng ta nó không còn khởi cái niệm ra. Cho nên nó luôn luôn nó biết cái thân động của nó thôi, mà nó không còn biết cái gì hết, nó không khởi niệm nghĩ nhớ cái này, nhớ cái kia. Cho nên chúng ta không có dừng vọng tưởng mà vọng tưởng chúng ta không còn có nữa. Do đó vì vậy thì cái tưởng thức của chúng ta bắt đầu hoạt động.
(16:50) Thầy xin nhắc lại, trong cái thiền định của đạo Phật chúng ta phải nên phân biệt biết được ba cái thức, chứ không phải có một cái thức. Đối với, như Thầy cũng có nhắc hồi hôm qua rồi, thì đối với cái thân của chúng ta, cái thức mà đầu tiên nó hoạt động hằng ngày, đó là gọi là sắc thức. Mà sắc thức thì nó phải hoạt động ở trong sáu cái căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta.
Cho nên nó hoạt động cái đó gọi là sáu cái thức của chúng ta, gọi là lục thức đó, thì nó là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta. Thì đó là thuộc về cái sự điều khiển của cái sự sống hằng ngày của chúng ta hằng ngày, thuộc về ý thức của chúng ta.
Còn ban đêm mà chúng ta ngủ, chúng ta nằm chiêm bao đó, đó là cái tưởng thức hoạt động. Cho nên sáu cái thức này nó ngưng hoạt động, nó nhường lại.
Còn bây giờ chúng ta cái tâm nó quay vô rồi, thì sáu cái thức này, cái lỗ tai chúng ta có nghe âm thanh bên ngoài, nghe nhưng mà nó không phân biệt, vì vậy cho nên nó không còn hoạt động nữa.
Nó phân biệt, nó biết tiếng đó là máy nổ, người đi, tiếng nói chuyện, mà nói chuyện nghĩa lý gì, cái lý gì ở trong lời nói chuyện đó. Đánh lộn với nhau hay hoặc là khóc lóc, hay hoặc kể lể, thì nó nghe, nó phân biệt nó biết rất rõ.
Còn đằng này nó quay vô nó không có biết, nó có nghe nhưng nó không phân biệt cái điều đó như thế nào. Cái tiếng động đó có tác động nó, nhưng mà nó không có biết cái tiếng động đó là như thế nào, nó không phân biệt nữa. Thì lúc bấy giờ cái tâm nó quay vô thân thì nó chỉ chuyên chú vào cái những hành động của thân mà thôi.
Do vì vậy nó không phân biệt bên ngoài, thì đương nhiên coi như là nó ngưng hoạt động. Cũng như mình ngủ mình không còn nghe, mình không còn thấy mọi vật. Còn cái này nó quay vô rồi nó cũng không còn nghe, còn thấy mọi vật bên ngoài, cho nên gọi là vô phân biệt, chứ không phải nó không nghe, không thấy.
Cho nên do vì vậy mà nó đã dừng, sáu cái thức này nó dừng lại, tức là cái ý, cái thân thức của chúng ta nó sẽ dừng lại. Nó dừng lại thì tưởng thức của chúng ta hoạt động, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng còn bình tĩnh như thế này, chứ không phải là nằm chiêm bao, không phải nằm ngủ. Nhưng mà cái tưởng thức hoạt động giống như chúng ta ngủ, cho nên chúng ta làm sao mà xả cho hết cái này, xả cho hết cái này.
Cho nên khi mà người nhập Nhị thiền, thì chúng ta đã đóng sáu cái thức của chúng ta lại, tức là sắc thức đóng lại. Cho nên diệt tầm tứ, nó không có khởi niệm, không có tác ý nữa, cho nên ý thức nó ngưng hoạt động hoàn toàn, nó không hoạt động. Mà nó không hoạt động thì cái tưởng thức nó phải hoạt động.
Cho nên lúc bấy giờ chúng ta ngưng được cái này, thì chúng ta thấy trạng thái hỷ lạc, rồi thấy cái ánh sáng, thấy hào quang. Rồi thấy tất cả những cái âm thanh, sắc tưởng mình thấy rất rõ, nó hiện cái tướng của tưởng ra. Mà nó mỗi lần mà mình không hiểu biết, thì mỗi cái tướng nó hiện ra như vậy thì mình thấy như là mình đã ngồi thiền mà nhập định, mình có những cái lạ lùng, cái kỳ đặc.
Do đó mình nhận thấy nhiều khi nó khởi ra những cái trực giác, làm cho mình nhận ra được những cái tâm niệm của kẻ khác nữa, nó hiểu biết được những cái tâm niệm của kẻ khác. Nó có khi ngồi đây mà nó nhập trong cái định đó, thì cái sự kiện mà xảy ra ở ngoài kia, cái chuyện gì nó ở đây nó biết. Người đi cách xa vài trăm thước, thì cái người mà nhập vào những cái loại định đó đó, cái định mà của tưởng, thì đương nhiên là nó ngồi đây mà nó biết được cái người đó sẽ còn cách đây vài trăm thước sẽ đến đây, mà cái người đó là cái người nào nó cũng biết.
(20:02) Đó là những cái thần thông tưởng do cái tưởng mà nó hiện ra, nó tạo cho chúng ta biết như vậy. Là vì vậy cho nên đức Phật bảo mình xả hỷ, những cái trạng thái mà làm cho mình thấy như mình có cái khả năng thiền định, nó làm cho mình mừng đó, mình vui mừng đó. Thì đức Phật gọi là xả hỷ, lìa những cái lòng mừng đó đi, cái lòng mà nó xảy ra những cái trạng thái nó làm vui mừng đó, coi như mình đắc thiền, đắc đạo đó, do đó đức Phật bảo xả ra.
Xả hỷ tức là xả các cái loại tưởng, mà nói chung là phải xả cái tưởng thức. Mà khi mà xả tưởng thức thì chúng ta sẽ không còn mộng mị nữa. Mà không còn mộng mị nữa thì từ cái chỗ mà đóng cái Nhị thiền, nó đóng sáu căn lại, nó không còn tầm tứ. Thì cái Tam thiền nó lại đóng cái tưởng thức của chúng ta lại.
Cho nên con người mà tu mà tới Tam thiền thì không còn mộng mị, cho nên ý thức ngưng, ngưng hoạt động hoàn toàn, mà tưởng thức nó cũng đóng lại. Nó đóng lại như vậy thì chúng ta mới thực hiện được cái Tứ thiền, còn nếu không đóng lại thì không thể nào mà thực hiện được Tứ thiền.
Và chúng ta nhớ rằng trong thân ngũ uẩn của chúng ta, nó có thức uẩn, người ta nói là "sắc, thọ, tưởng, hành, thức". Cái thức uẩn này từ lâu tới giờ ở trong thân của chúng ta, nó từ khi mà tái sanh cho đến khi mà nó thành người, rồi tiếp xúc với mọi duyên. Như chúng ta là một con người như bây giờ đó, thì cái thức đó nó còn nằm im lìm, nói chưa hoạt động bao giờ hết. Nói nó là cái thức, nhưng mà sự thật cái vị trí của nó đứng thì nó chưa có hoạt động.
Từ lâu thì chúng ta hoạt động ở trong cuộc sống hằng ngày thì đó là ý thức, rồi kế đó là tưởng thức, còn cái tâm thức của chúng ta nó không có hoạt động. Cho nên bây giờ chúng ta đóng lại hết những cái tụi này, thì cái tâm thức của chúng ta bắt đầu hoạt động. Coi như muốn cho nó hoạt động thì chúng ta phải ngưng cái sắc thức và cái tưởng thức, thì cái tâm thức của chúng ta mới hoạt động.
Do đó khi mà cái tâm thức nó hoạt động, thì cái hơi thở của chúng ta mới tịnh chỉ được. Còn cái tâm thức chưa hoạt động mà cái hơi thở tịnh chỉ, thì chúng ta sẽ là trở thành một cái thây ma, là một người chết, không thể nào phục hồi lại sự sống được.
Vì vậy đương nhiên về cái tâm của chúng ta, thì lúc bây giờ chúng ta dừng cái sắc thức và dừng cái tưởng thức của chúng ta, để rồi đánh thức cái tâm thức dậy. Để rồi dừng, bắt buộc cái thân của chúng ta tịnh chỉ hơi thở, ngưng hoạt động để rồi cái thân nó định vào cái tâm.
Thì cách thức nó cụ thể và rõ ràng, rất là khoa học. Cho nên khi mà chúng ta muốn dừng cái này được, thì nó mới dừng cái kia. Cũng như bây giờ mình muốn chiêm bao, thì phải dừng ý thức mình, không cho hoạt động thì cái chiêm bao nó sẽ thể hiện.
(22:48) Như chúng ta thấy có một loại thiền, gọi là Thiền Xuất Hồn, phải không? Nếu mà cái người đó mà còn ý thức thì họ không có xuất hồn được đâu. Vì vậy mà cái người mà tu thiền đó họ phải tưởng như là mình phải ngủ, rồi tưởng như là mình ở trên đầu mình nó nứt ra một lằn, rồi nó xuất hồn từ đó do dùng cái tưởng của mình.
Vì vậy mà cái giấc chiêm bao nó dễ thực hiện là khi mình ức chế cái vọng tưởng của mình, tức là cái ý thức nó không có khởi niệm nữa. Thì lúc bấy giờ cái tưởng nó hoạt động thì nó thành ra cái giấc mộng của người đó, được xem như là mình đã xuất hồn. Và mình điều khiển bằng cái sự tu tập đó, cho nên cái giấc chiêm bao bằng cái sự điều khiển mình chiêm bao.
Còn hiện giờ mà quý Phật tử mà chiêm bao đó là tự động nó chiêm bao, chứ không phải là mình điều khiển. Còn cái người tu Thiền Xuất Hồn thì người ta chủ động, người ta điều khiển để cho cái ý thức của chúng ta ngưng, để cho các tưởng thức nó hoạt động, nó trở thành cái giấc mộng người ta. Đương nhiên là người ta xuất hồn là người ta đi chơi.
Vì vậy mà nhiều khi người ta xuất hồn ra thì người ta đi đến những nhà này, những nhà kia. Thì những cái sự kiện gì xảy ra, thì khi mà người ta trở lại bình thường, tức là người ta hết chiêm bao đó, cũng như mình là tỉnh dậy đó, thì mình nói lại cái việc xảy ra hồi mình xuất hồn đó, thì xảy ra rất đúng. Cho nên nói dường như là mình có cái hồn, mình xuất hồn ra, chứ sự thật không phải đâu.
Đó là cái tưởng thức của chúng ta giao cảm được, những cái điều mà chúng ta đã thực hiện điều khiển được cái tưởng thức của chúng ta hoạt động đúng cách. Cho nên chúng ta thấy được thực trạng của hiện tại, của cái hoàn cảnh đó, của những người mà mình muốn biết.
Cho nên nó cũng không hay ho gì hết, là đánh thức những cái tưởng thức của chúng ta hoạt động mà thôi. Nó không giải quyết, cho nên những người mà tu Thiền Xuất Hồn, họ không giải quyết được cái sanh, già, bệnh, chết. Họ không làm chủ được cái sự đau khổ, tâm tham muốn và ác pháp trong lòng của họ, cho nên nó không giống đạo Phật.
Vì vậy họ xuất hồn để mà chơi, hoặc là xuất hồn để mà thể hiện những cái thần thông huyền bí chơi, để mà gạt người, lừa đảo người. Thì cái điều kiện mà họ làm cho người ta thích thú những cái thần thông đó, thích thú cái xuất hồn đó và đặt niềm tin là: "Mình chết đi mình cũng xuất hồn được, thì mình bỏ thân này thì vẫn còn cái phần hồn, cái linh hồn của mình, mình vẫn điều khiển nó đi tới, đi lui chỗ này kia được và tái sanh cũng dễ dàng, không có rơi vào địa ngục". Thì do đó họ cũng thích, họ tưởng tượng như vậy.
Nhưng mà sự thật khi mà người chết rồi, thì cái tưởng thức nó cũng không còn. Cho nên cái linh hồn mà họ tưởng ra đó, nó cũng không có, cho nên toàn bộ là nó hoại diệt sạch, nó không còn có nữa đúng như lời đức Phật đã nói: "Không có một vật gì còn có trong thân ngũ uẩn này cả".
(25:22) Đó thì khi mà thực hiện thiền định của đạo Phật, mà khi mà chúng ta tu đến đây rồi, thì chúng ta mới thấy rằng cái Sơ thiền là cái vấn đề rất quan trọng. Do cái tâm thanh tịnh có cái định đầu tiên, nhờ cái định đầu tiên đó gọi là Định lực, từ cái Định lực đó chúng ta mới hướng tâm chúng ta nhắc.
Bởi vì thường thường chúng ta ly dục, ly ác pháp là chúng ta phải dùng cái hướng tâm chúng ta nhắc hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, để chúng ta nhắc nhở để mà ly dục, ly ác pháp. Cho nên tới mà khi mà chúng ta thanh tịnh được cái tâm, thì cái lực đó nó trở thành một cái sức lực rất mạnh, vĩ đại.
Bởi vì hằng ngày chúng ta nhấn mạnh vào cái tâm chúng ta để buông xả, để ly được ác pháp và cái tâm ham muốn. Mà đến khi nó ly được rồi thì nó trở thành một cái đạo lực rất là vĩ đại. Do đó chúng ta bảo: "tầm tứ tịnh chỉ", thì nó ngưng liền hoàn toàn, nó không còn hoạt động.
Cho nên lúc bây giờ thân chúng ta không hoạt động, ý chúng ta không hoạt động, miệng chúng ta không nói, hoàn toàn ngồi, thời gian rất dài chứ không phải ngắn như là một, hai tiếng đồng hồ. Có thể một, hai ngày, hay ba, bốn ngày, hay hoặc là thời gian cả trăm năm nó vẫn là ở trong cái trạng thái đó. Và khi mà cái người mà ngồi cái thiền đó, cái Nhị thiền đó mà còn cảm thấy đói, thì chưa phải đúng thiền. Bởi vì cảm thấy đói, tức là còn trở về cái trạng thái của dục thì chưa phải là đúng cái thiền của Phật.
Chính người ta nhập Sơ thiền, mà trong khi mà người ta nhập Sơ thiền, người ta ly dục, ly ác pháp, thì người ta không thấy cái trạng thái đói. Cái trạng thái ly dục, ly ác pháp nó là cái trạng thái hỷ lạc, nó sanh ra hỷ lạc. Cái hỷ lạc đó nó làm cho chúng ta không có cảm thấy đói, dù cái người đó nhập Sơ thiền họ vẫn không thấy đói.
Cho nên nói chung chúng ta ngồi để hết vọng tưởng, chúng ta thấy tâm thanh thản, nhưng mà bụng chúng ta đói, chúng ta khát nước, chưa phải là chúng ta nhập Sơ thiền nữa. Bởi vì đó là những cái trạng thái kinh nghiệm của một người tu người ta thấy được cái điều đó. Chúng ta nhiều khi chúng ta thấy cái Sơ thiền quá dễ, chứ sự thật ra nó không phải dễ, nó rất khó.
Ngồi làm sao mà mình tới giờ mình ăn cơm mà mình không thấy đói. Mà một, hai ngày, ba, bốn ngày mà làm sao mà ra khỏi được cái điều này. Chỉ có sự ly dục, ly ác pháp mà cái trạng thái hỷ lạc nó giúp chúng ta không thấy cảm thấy đói. Bởi vì nó là hỷ lạc, nó làm cho chúng ta an lạc, cho nên nó không còn có cái cảm giác thọ làm cho chúng ta khổ sở vì cái đói, cái khát của chúng ta. Vậy thì mới thấy được cái thiền định của Phật vi diệu đến cái mức độ như vậy.
Kế đó thì chúng ta diệt tầm tứ được, nhập Nhị thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta lại có một trạng thái định thật cụ thể và rõ ràng. Cho nên đức Phật gọi là "Định sanh hỷ lạc”, không phải còn do ly dục sanh hỷ lạc. Nhưng mà nhờ cái sức mà thanh tịnh của tâm định đầu tiên đó, chúng ta mới điều khiển được mà vào cái định sau này. Cho nên muốn xả được cái tưởng của chúng ta không phải là chuyện dễ đâu, khó rất khó.
(28:12) Chúng ta xả cái ý thức, chúng ta ngồi lại mà chúng ta niệm Phật hay hoặc là chúng ta nương vào hơi thở, hay hoặc là giữ cái tâm mình không vọng tưởng cũng thấy khó rồi. Mà vọng tưởng là cái dễ nhất, mà đến cái tưởng thức là cái trừu tượng rồi. Cho nên khó có ai mà biết cách để mà dừng được cái tưởng thức. Chỉ có cái tâm thanh tịnh của chúng ta mới dừng được cái tưởng thức, nó thuộc về vô hình rồi.
Còn cái ý thức của chúng ta nó thuộc về cái hữu hình, tức là thuộc về thân của chúng ta. Cho nên vì vậy mà chúng ta còn dùng cái thân để điều khiển nó, ức chế nó không niệm thiện, niệm ác. Còn đến cái tưởng thì chúng ta khó, rất khó dừng, chỉ còn có cái lực của cái tâm thanh tịnh của chúng ta thì điều khiển nó dừng được. Cho nên nó dừng được, thì chúng ta không mộng mị chiêm bao nữa, tức là chúng ta tỉnh thức hoàn toàn.
Do đó thì chúng ta cũng dùng cái lực của cái Sơ thiền, của cái tâm thanh tịnh đó mà chúng ta tịnh chỉ hơi thở của chúng ta. Do cái hơi thở tịnh chỉ thì chúng ta nhập được Tứ thiền.
(29:06) Do nhập được Tứ thiền thì như Thầy đã nói, khi mà nhập được Tam thiền thì chúng ta làm chủ được cái bệnh. Cái thân chúng ta bị đau cái chỗ này, nhức cái chỗ kia, thì chúng ta chỉ cần dùng cái pháp hướng ra lệnh.
Vì trong kinh Phật đã dạy thọ là vô thường, cũng như Phật dạy là thân, thọ, tâm và pháp là Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ. Thân là vô thường, thọ vô thường, tâm là vô thường, pháp là vô thường. Thì thọ là một ở trong bốn cái chỗ đều là vô thường, nó vô thường, vô ngã, và khổ. Cho nên Phật xác định trên bốn cái chỗ này đều vô thường, vô ngã, nó không thật.
Cho nên khi chúng ta biết cái thọ là vô thường không có thật, do đó chúng ta dùng cái lực của tâm thanh tịnh mà chúng ta ra lệnh: "Thọ hãy rời khỏi nơi đây, vì thọ là vô thường không có ở đây mà đau nhức". Thì ngay đó chúng ta chỉ cần giữ cái sự yên lặng trong tâm của chúng ta, thì ngay lúc bây giờ cái thọ dần lui mất, không còn thấy đau đớn ở nơi chỗ thân của chúng ta đang bệnh. Như vậy chúng ta đã làm chủ được cái bệnh rất là cụ thể.
Cho nên thí dụ như một người đó bị bệnh nhức đầu, thì họ không phải ngồi thiền mà hết nhức đầu. Mà ngồi thiền hết nhức đầu là tại vì ngồi rồi chúng ta bị cảm thế này, thế khác. Chúng ta ngồi giữ cái thân tâm bất động của chúng ta, thì một lúc thì nó xuất hiện mồ hôi, thì nó toát, nó đẩy những cái chất nắng mưa hay nước trong người chúng ta ra, thì chúng ta thấy nó không còn cảm nữa.
Còn trái lại đây là cái thọ, như bây giờ chúng ta đau óc không phải vì cảm, thì chắc chắn ngồi thiền như các vị ngồi mà để trị bệnh, mà trị cái bệnh nhức đầu thì sẽ không bao giờ hết, nhức đầu theo không phải cảm. Nhưng mà cái người mà ngồi thiền mà, mà theo mà cái Tam thiền, mà nhập được Tam thiền đó, thì họ sẽ trị được hết cái đau.
Nhưng mà cái thân vô thường của họ, bệnh gì đó mà nó thành ra cái cảm giác đau đó, thì khi mà họ xuất thiền, thì trong lúc mà họ đã đẩy lui được cái cảm giác đó, mà họ ở trong cái trạng thái đó- thì cái trạng thái thiền định của Tam thiền, nó lần lượt nó phục hồi lại cái cơ thể đang bị bệnh. Cái nơi, cái chỗ đó, nó làm cho cái vết thương của cái nơi bị bệnh đó, bị rối loạn đó, nó phục hồi lại.
Nó làm cho cái người đó kéo dài cái thời gian đó ra hơn cái thời gian trước. Thí dụ như trước khi mình ngồi Tam thiền, mình nhập mới có một tiếng đồng hồ, mình xả ra mà nó chưa hết đau. Thì bấy đầu bây giờ đó mình mới nhập cái lần thứ hai, mình ngồi hai tiếng đồng hồ,mình xả ra nó hết đau, tức là nó đã phục hồi rồi. Nó nhờ cái sức thiền định nó phục hồi lại cái cơ thể đang bị rối loạn đó.
Nếu mà hai giờ chưa hết, chúng ta sẽ nhập một lần thứ ba nữa, là ba giờ hay là bốn giờ, chúng ta kéo dài cái thời gian ra. Và cái thời gian mà ở trong cái loại định đó nó sẽ phục hồi lại cái cơ thể, nó làm cho cái cơ thể không còn bị rối loạn đau khổ nữa. Cho nên cái bệnh nó sẽ dứt, nó không còn có nữa.
(32:12) Đó là cái lối mà chúng ta dùng cái pháp để trị bệnh, gọi là lấy pháp trị bệnh chứ không lấy thuốc trị bệnh.
Cho nên khi mà người tu thiền của đạo Phật, chúng ta có pháp để trị bệnh. Và nhân quả chúng ta đã sống ở trong thiện pháp, ly ác pháp, cho nên nhân quả chúng ta rất thiện, vì vậy mà chúng ta chuyển rất dễ. Còn chúng ta đang sống trong ác pháp mà chúng ta chuyển cái nghiệp quả khổ chúng ta rất khó, không thể nào chuyển được. Và vì vậy mà cái tâm chưa thanh tịnh, thì chúng ta không thể nhập Tam thiền được.
Bởi vì Tam thiền nó có cái sức của nó để làm chủ được cái thọ, cái cảm thọ của chúng ta, cái đau đớn của chúng ta, cái khổ sở về cái bệnh đau của chúng ta. Cho nên vì vậy mà khi mà chúng ta thực hiện được cái Tam thiền thì chúng ta đẩy lui được những cái bệnh tật ở trong thân của chúng ta, cho nên làm chủ được bệnh. Sanh, già và bệnh thì chúng ta làm chủ được cái bệnh, do cái sức Tam thiền nó sẽ làm chủ được cái đó.
(33:06) Bây giờ chúng ta nhập cái Tứ thiền thì hơi thở tịnh chỉ, thì chúng ta làm chủ được cái sự chết của chúng ta. Cho nên khi mà hơi thở ngưng mà chúng ta phục hồi lại cái hơi thở, nó thở trở lại được, thì đó là chúng ta đã làm chủ được sự sống chết.
Muốn chết thì chúng ta tịnh chỉ hơi thở, hơi thở ngưng, tức là, coi như là cái thân của chúng ta chết. Và bây giờ chúng ta muốn sống lại, thì chúng ta điều khiển bằng cái pháp lệnh của chúng ta, thì cái hơi thở bắt đầu thở trở lại và thở lại bình thường. Rồi chúng ta sống như mọi người, nó phục hồi lại sự sống của chúng ta, nó hoạt động lại, cơ thể chúng ta hoạt động lại như người bình thường, không có gì khó khăn cả.
Đó là bốn cái loại thiền của Phật để giúp đỡ cho chúng ta như vậy, mà làm được những chuyện này không phải là Thần lực sao? Nếu không có đủ một cái Đạo lực, Thần lực như vậy thì làm sao làm chủ được nó. Cũng như bây giờ quý vị muốn chết, quý vị nín thở được không? Không bao giờ được, rất khó, không thể nào mà chúng ta nín thở mà…
Có bao giờ chúng ta nghe một người nào tự tử mà người đó ngồi lại nín thở rồi chết không, không có đâu. Họ phải tự tử nhảy xuống sông, nhờ nước mà họ thở không được, họ mới nghẹt mà họ chịu chết. Hoặc là họ dùng cái thòng lọng, họ đưa cổ họ vào họ siết, để cho họ thở không được, họ mới chết. Chứ còn không ai mà ngồi tự nhiên như vầy mà nín thở mà chết được.
Nhưng một cái người tu thiền của đạo Phật, thì người ta ngồi tự nhiên, người ta truyền lệnh được cái hơi thở nó tịnh chỉ, nó ngưng, nó không thở. Cho nên người ta bỏ cái thân của người ta một cách dễ dàng, không để cho nó đau khổ.
Thí dụ như bây giờ cơ thể của Thầy già yếu rồi, Thầy thấy nó không còn sử dụng được nữa, cho nên Thầy cần phải bỏ. Vì vậy mà Thầy cần ngồi lại, Thầy ra lệnh, Thầy bảo: "Hơi thở tịnh chỉ, hãy bỏ cái thân này đi, vì cằn cỗi rồi không có xài được nữa, như một cái chiếc xe cũ không đi được nữa, thôi bỏ đi".
Thì Thầy chỉ ra lệnh, rồi Thầy ngồi yên lặng một chút xíu thì cái hơi thở tịnh chỉ, thì lúc bây giờ Thầy bỏ luôn cái thân. Và những người thân của Thầy sẽ đem thiêu đốt, hoặc là đem tẩm liệm trong một cái quan tài, rồi đem đào một cái lỗ, đem chôn nó, thì đó là Thầy đã hoại diệt, bỏ cái thân của mình. Và lúc bây giờ Thầy còn cái gì?
Nếu một người mà có cái Đạo lực như vậy thì họ phải giữ cái thức, chứ họ không có để tan hoại cái thức của họ. Cho nên khi đó, họ chỉ dùng cái pháp hướng của họ, tức là cái Đạo lực của họ, họ truyền lệnh: "Cái thức này phải tiếp tục trên con đường tái sanh để làm việc Phật pháp, lợi ích cho chúng sanh, vì hiện giờ chưa có người làm tròn cái nhiệm vụ này, thì cái thức này phải đi làm tròn cái phận sự này".
Khi mà truyền lệnh, thì lúc bây giờ cái vị mà truyền lệnh cho mình tiếp tục cái sự tái sanh đó, thì cái vị đó họ dùng cái Thiên Nhãn Minh, họ quan sát cái nơi nào đó để mà cho cái thức này đi trở về đó tái sanh. Thì họ tìm ngay cái chỗ, cái duyên nào mà hợp nhất, là cha mẹ của cái kiếp tới đó, thì họ đi vào cái chỗ đó mà họ tái sanh.
(36:09) Cho nên nó không phải do nghiệp lực thúc đẩy, mà do cái Đạo lực, cái Thần lực của họ, đưa cái thức của họ vào cái nơi tái sanh đó, chứ không để cho nó mất. Cho nên vì vậy coi như là họ giữ được cái thức không bị tan hoại theo bốn cái uẩn kia, coi như là cái uẩn thức họ giữ.
Cũng như một người mà thân định trên tâm, tâm định trên thân, thì cái gì họ còn điều khiển được Tam Minh? Thì chính là cái Thức uẩn của họ. Cho đức Phật gọi là "hướng tâm đến Tam Minh". Khi mà thân định và tâm định rồi, thì hoàn toàn là nó không còn hoạt động nữa. Thì cái cuối cùng mà còn thì nó còn cái hành uẩn và cái thức uẩn.
Cho nên vì vậy nó mới nhờ những cái lệnh, tức là cái Thần lực của thiền định đó, mà điều khiển để đưa cái tâm chúng ta trở về Túc Mạng Minh, hay là Thiên Nhãn Minh, hay Lậu Tận Minh. Nó giúp cho cái tâm của chúng ta hướng về đó để mà thấu rõ nhiều đời, nhiều kiếp. Để mà cái không gian không trải dài, họ muốn thấy, muốn xem một chúng sanh nào đó ở đâu, họ đều thấy biết. Và tâm niệm của chúng sanh như thế nào, họ đều rõ ràng.
Do cái chỗ mà hướng dẫn Tam Minh như vậy, cho nên cái thức họ phải giữ. Vì vậy mà họ muốn phục hồi lại sự sống, thì đương nhiên là cái thân sống lại. Họ không muốn phục hồi sự sống, thì họ phải đưa cái thức họ đi tái sanh luân hồi kế tiếp một kiếp nữa.
Vì Phật pháp như thế nào, vì cái duyên chúng sanh như thế nào mà họ chưa xong, cho nên họ tiếp tục tái sanh để họ tiếp tục độ chúng sanh. Còn nếu họ thấy duyên họ hết thì họ diệt luôn cái thức của họ, họ luôn luôn ở trong cái trạng thái hoàn toàn là yên lặng của họ.
(37:52) Mà cái trạng thái đó nói có, hoặc nói không, không được. Vì nói có là chấp thường, mà nói không thì nó không đúng, là chấp đoạn. Cho nên đối với đạo Phật mà còn chấp thường, chấp đoạn thì không được. Cho nên đạo Phật gọi là đạo vô ngã.
Nếu mà nói thường, nó còn thì cái gì còn, mà nói là Niết Bàn còn thì chúng ta là đã chấp thường, mà như vậy là không phù hợp với đạo Phật, vì đạo Phật vô ngã, đâu thể nói được. Nhưng cái mục đích của đạo Phật là chúng ta nhập được các thiền định đó, giúp cho chúng ta giải thoát được cái đời của con người rồi, thì cái còn, cái mất đó chúng ta không cần thiết nữa. Mục đích chúng ta đã đạt được rồi, chúng ta không quan trọng về cái còn mất.
Nhưng ở đây chúng ta phải nói thiền định của Phật, mà người ta gọi là Thiền Tiểu Thừa, Thiền Phàm Phu, mà đến cái lực chúng ta không ngờ được, đến cái sức thần lực mà không ngờ được.
Ở đây Thầy không nói cái chuyện mà ngồi thiền nhập bảy, tám ngày, một năm, hai năm. Đối với cái chuyện đó thì nó không thành vấn đề. Mà cái chuyện mà chúng ta đã làm chủ được cái bệnh, làm chủ được cái tuổi già, làm chủ được cái đời sống của chúng ta và làm chủ được cái chết của chúng ta. Thì cái vấn đề này là cái vấn đề rất là quan trọng cho cái đời người.
Nhưng khi mà chúng ta đã làm chủ được bốn cái nỗi khổ này rồi, thì ai có hỏi chúng ta: "Còn có cái gì không? Còn có Phật tánh không?" Chúng ta từ chối liền.
"Nếu tôi nói còn có Phật tánh, tức là tôi bị chấp thường, thành ra nó sai, nó không đúng cái nghĩa của đạo Phật. Vì đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao lại còn có cái ngã, nó không có đúng. Mà nếu chấp đoạn, thì chúng tôi lại mất hết, như vậy chúng tôi tu để làm gì đây? Giải thoát thôi sao? Cho nên nó không đúng".
Vì vậy mà chỗ này là để cho quý vị có được cái trí vô hạn, thì quý vị khỏi cần hỏi mà quý vị sẽ biết nó rất rõ. Còn quý vị hỏi với cái trí hữu hạn của quý vị mà hỏi để hiểu nó, thì đạo Phật sẽ trở thành đoạn và hoặc thường mà thôi. Nếu thường thì cũng không đúng nghĩa, mà đoạn thì cũng không đúng nghĩa.
Cho nên ở đây chúng ta chỉ biết được bốn cái loại thiền này mới có thể giúp ta có đủ thần lực để làm chủ được những cái điều mà cái đời người chúng ta mang. Trong cái con người chúng ta, mỗi người đều mang bốn cái khổ và bây giờ con đường thiền này đã giúp chúng ta.
(40:14) Cho nên chúng ta nghe nói giới luật, nghe nói ba bảy Phẩm trợ đạo, rồi là Bát Chánh Đạo, tám cái nẻo tu tập, cho đến cái Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, tất cả mọi cái đều là nhằm để chúng ta thực hiện bốn cái thiền này, chứ không phải là gì cả. Ngay cả giới luật của Phật để mà chúng ta thực hiện sống một đời sống phạm hạnh, cũng nhắm vào bốn cái loại thiền này, chứ không phải vì là cái chỗ khác mà chúng ta thực hiện.
Cho nên cuối cùng thì chúng ta vẫn thấy mình sống giới luật, mình tu các cái loại thiền định gì, tất cả mọi cái nó cũng dồn về đến khi mà chúng ta nhập được cái Sơ thiền. Rồi chúng ta thực hiện cuối cùng thì, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ Thiền, thì cuối cùng thì chúng ta cũng từ đó mà chúng ta làm chủ được cái tuổi già, rồi làm chủ được cái bệnh tật, rồi làm chủ được cái sống chết của chúng ta.
Thì như vậy rõ ràng là những cái điều kiện mà các pháp mà Phật dạy chúng ta, đều nhằm vào cái chỗ giải quyết cho sự đau khổ của chính mình. Nhưng chúng ta đòi hỏi hiểu cái sâu xa hơn: “có hay là không có” thì chúng ta đã đòi hỏi một cái quá sức hiểu biết của mình.
Mình hãy nỗ lực mình tu tới đó và đồng thời sẽ theo Thầy nghĩ, như quý Phật tử chúng ta không cần hiểu cái đó. Mà chúng ta chỉ cần làm sao mà giải thoát được bốn cái nỗi khổ, mà mỗi con người mang cái thân này đều phải khắc khoải ở trong lòng của mình, thì cái hay nhất là chúng ta phải giải quyết nó thôi. Giải quyết rồi thì chúng ta sẽ biết được những cái gì mà chúng ta cần biết. Vì lúc bấy giờ chúng ta không còn nằm ở trong cái trí hữu hạn nữa, mà chúng ta đã có một cái trí vô hạn, từ đó mà chúng ta sẽ hiểu về phía sau của nó.
Cũng như có người nói: "Có đời sống sau khi chết", thì cái đó là sai. Bởi vì chúng ta làm sao có cái trí mà hiểu biết, rằng cái phía sau cái sự chết của chúng ta lại có cái đời sống. Nếu mà chúng ta không có đủ cái trí đó, thì chúng ta phải tưởng mà hiểu mà thôi.
(42:13) Cho nên người ta nghĩ rằng: "Có đời sống sau khi chết, tức là phải có linh hồn". Mà nếu có linh hồn, thì tức là có một vật thường hằng, mà một vật thường hằng thì như vậy là đạo Phật lại tuyên bố là đạo vô ngã. Như vậy là cái thuyết đó sẽ là phản lại cái giáo lý, cái đạo Phật mất đi rồi, phải không? Thành ra cái đạo Phật, nếu cái kia đúng, thì đạo Phật sai, nếu cái kia mà có linh hồn thì đạo Phật là sai, mà nếu mà đạo Phật mà đúng thì cái kia phải là sai.
Cho nên ở đây chúng ta thấy đạo Phật mục đích là dạy cho chúng ta thoát cái khổ, thì đó là đúng. Nhưng mà nó nói về siêu hình thì điều kiện đức Phật đã xác định là nếu mà có những cái siêu hình như vậy, có cái linh hồn như vậy thì đạo Phật không đúng rồi. Mà không đúng thì tức là chúng ta sẽ không giải quyết được bốn nỗi khổ của chúng ta. Còn đằng này chúng ta giải quyết được bốn nỗi khổ, thì chắc chắn là cái kia phải sai, không đúng rồi.
Cho nên Thầy có nhắc cho quý Phật tử, một hôm đức Phật trong cái họp chúng đó, thì đức Phật lấy một ít đất bỏ trong móng tay của mình rồi mới nói: "Nếu mà còn một chút xíu thức của chúng ta như đất trong móng tay thì con người không thể giải thoát…" Mà con người không thể giải thoát thì đạo Phật ra đời để làm gì? Cho nên do đó đức Phật mới nói : "thì Đạo ta cũng không ra đời".
Cho nên vì vậy mà đức Phật đã thấy rất rõ là con người giải thoát được, vì vậy mà đạo Phật nên ra đời. Ra đời để giúp cho con người giải thoát, chứ không phải giúp cho con người đi tìm cái linh hồn, hoặc là đi tìm cái thế giới siêu hình.
(43:42) Như vậy là quý Phật tử hôm nay đã được nghe Thầy nói về bốn cái loại Thiền mà từ lâu người ta đã xem nó là cái thứ ‘thiền đồ bỏ’. Cho nên nhiều người tu thiền mà bây giờ không biết là tu thiền để mà giải thoát mình như thế nào, người ta chưa biết cách tu như thế nào hết.
Hôm nay được nghe Thầy nói về bốn cái thiền này, kể như là quý Phật tử là người đầu tiên được nghe cái điều kiện mà Thầy đã nói. Chứ trước kia thì chúng ta cũng nghe trong kinh điển, cũng đọc, cũng thấy nói Phật nói:
"Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ thiền, do ly dục sanh hỷ lạc có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc có nhất tâm.
Rồi diệt tầm tứ nhập Nhị thiền, định sanh hỷ lạc.
Nhập Tam thiền thì ly hỷ, trú xả nhập Tam thiền.
Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh rồi nhập Tứ thiền".
Đó là những cái danh từ để chỉ cho chúng ta biết đó là các cái loại thiền là như vậy, nhưng mà chưa nói cách thức để mà chúng ta tu tập.
Hôm nay được nghe Thầy giảng dạy về cách thức chúng ta tu tập. Như muốn Sơ thiền thì chúng ta phải thực tập những cái định nào, những cái loại nào để mà chúng ta nhập được cái Sơ thiền. Và giới luật phải thực hiện như thế nào, đạo đức con người phải tu tập như thế nào cho đúng những cái giới luật của đức Phật, tức là đúng những cái đạo đức mà đức Phật đã dạy.
Rồi đến cái Nhị thiền thì phải dùng cái lực định của tâm thanh tịnh mình như thế nào để điều khiển. Thì hôm nay Thầy chỉ nói dùng Như Lý Tác Ý hay là pháp hướng, chứ chưa có chỉ dạy cặn kẽ cái pháp hành đó. Là khi chúng ta ngồi, chúng ta phải hướng cách nào và chúng ta nhắc như thế nào để cho nó thực hiện được cái điều kiện đó. Thì đây là nó về chuyên môn, về cái sự thực tập, nó không phải còn lý thuyết, ở đây cho nên Thầy không nói.
Cái đó là để dẫn dắt người ta tu, còn bây giờ mình nói để cho mình hiểu được cái thiền này, nó phải có những cái phương pháp, cách thức nó như vậy. Nhưng mà về cái thực hành, thì nó đi vào những cái hành động chi li. Người đó phải làm cái gì trước và hướng cái nào trước, hướng cái nào sau để cho chúng ta thực hiện được cái định đó, cái thiền đó. Cho nên đó là cái chuyên môn rồi.
Còn bây giờ chúng ta đại khái, chúng ta hiểu là chúng ta phải dùng pháp hướng, dùng Như Lý Tác Ý như thế nào để mà chúng ta tịnh chỉ nó mà thôi. Do tịnh chỉ được thì chúng ta nhập được cái thiền định đó, chứ không phải chúng ta cứ ngồi ì trong đó để mà giữ cái tâm mình không vọng tưởng, rồi nó nhập vào đó được đâu, không phải đâu. Không tự nhiên mà nhập được, nó phải có một cái sức lực nào mà Thầy gọi là Thần lực, cái sức lực đó gọi là Thần lực.
(46:17) Do vì vậy mà chúng ta mới tu tập mới làm chủ được, chứ nó không đơn giản như chúng ta ngồi mà tu thiền. Rồi ngồi đó tưởng xuất hồn, hay hoặc ngồi lại tưởng như mấy người mà dùng khí công, nó cũng dùng sức tưởng của họ đó. Cho nên có nhiều cái trường hợp mà người ta dùng khí công người ta trị bệnh, thì để cho mình cảm thấy như hết bệnh. Nhưng cái bệnh của chúng ta là do nhân quả làm sao ai trị hết được, không có Thần lực nào mà trị hết cái nhân quả, chỉ có nhân quả trị nhân quả là hết.
Đó là những cái điều mà hôm nay Thầy giảng cho quý vị biết là chúng ta tạo cái thân nghiệp bệnh là do cái nhân quả hành động của chúng ta, thì chỉ có nhân quả mà chúng ta thực hiện đúng, thì nó chuyển được cái bệnh của chúng ta thoát, chứ còn không có một cái gì mà có thể mà làm thay đổi được cái nhân quả đó được. Chỉ có nhân quả mới chuyển được nhân quả mà thôi.
Thiền định chúng ta cũng từ ở trong cái thiền định mà ly dục, ly ác pháp, tức là thiền định thiện pháp, nó mới chuyển ra. Chứ còn nếu mà chúng ta ở trong ác pháp, mà chúng ta mà dùng thiền định chuyển, thì không bao giờ chuyển hết được, không bao giờ chuyển được đâu, đó là một cái thực tế và cụ thể.
Bởi vì cái luật nhân quả là luật công bằng và công lý nhất. Nó là một cái đạo luật, đạo đức của con người ở trên hành tinh này, không thể mà chúng ta trốn chạy được nó khi mà chúng ta làm điều ác. Cho nên chúng ta tin sâu cái nhân quả chừng nào, thì cuộc đời chúng ta hạnh phúc chừng nấy, vì chúng ta sẽ làm thiện không làm ác.
Còn chúng ta không tin nó, thì chúng ta tự làm thì chúng ta phải thọ lấy những cái quả khổ từ làm những hành động ác. Thì cái quả khổ đó là do cái chỗ hành động ác của chúng ta, sẽ không ai ban bố cho chúng ta, không phải ngẫu nhiên nó đem đến cái sự khổ cho chúng ta đâu. Mà chính chúng ta đã làm mà chúng ta phải gặt lấy.
Và người mà nhập được thiền định cũng phải đi từ cái đạo đức nhân quả, để nó chuyển được cái nhân quả của chúng ta mới nhập được thiền định. Cho nên nó gọi là ly dục, ly ác pháp mới nhập được định, chứ đâu phải là khi không mà chúng ta nhập được định. Cho nên chúng ta cứ ngồi ì ra mà chúng ta giữ cho mình nhập được định, thì làm sao mà định được. Vì cái nhân quả là cái thân của chúng ta, đâu phải là chuyện dễ, khó, rất là khó khăn chứ đâu phải dễ.
(48:13) Cho nên chúng ta phải thực hiện từ cái đạo đức nhân quả, thì tuần tự chúng ta sẽ nhập các định, chúng ta sẽ làm chủ được bốn cái đau khổ của kiếp người. Chứ không phải ngoài cái riêng cái pháp này mà còn có những pháp nào, mà làm chủ được bốn cái sự đau khổ của kiếp người được. Thầy nói ngoài bốn cái pháp thiền định này, không có pháp nào mà làm chủ được cái sự đau khổ của kiếp người.
Mà ngoài bốn cái thiền định này, thì không có ai mà đạt được Tam Minh. Nghĩa là cái người nào mà không nhập Tứ thiền-‘thân định trên tâm mà tâm định trên thân’, thì người đó không bao giờ người đó sẽ là hướng tâm đến Tam Minh được. Mà người nào mà nhập được Tứ thiền- ‘tâm định trên thân, mà thân định trên tâm’, thì người này sẽ thực hiện được Tam Minh. Nghĩa là cái người nhập Tứ thiền là người sẽ thực hiện được Tam Minh.
Còn người nào mà không nhập Tứ thiền mà nói gọi là thực hiện được Tam Minh, thì chỉ còn nói vọng ngữ mà thôi. Hoặc là một vài cái sự hiểu biết trong cái không gian và cái thời gian ngắn, gần, do cái tưởng thức của chúng ta giao cảm mà biết trong những cái chuyện đó, chứ nó là tà thiền, tà định. Cho nên nó có những cái thần thông, nhưng cái thần thông đó chỉ một thời gian sẽ mất đi.
Người đó ở trên núi tu hành một thời gian, hoặc là luyện tập đúng cách thì cái tưởng nó hoạt động, chúng ta biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng mà quá khứ vị lai rất ngắn, trong cái thời gian ngắn biết những chuyện mà xảy ra của gia đình của chúng ta hồi hôm qua, hồi hôm kia, hoặc một tháng, hai tháng, hoặc một năm, hai năm, hoặc hai, ba chục năm cũng có thể nói ra được.
Nhưng mà một đời, hai đời, ba đời thì không thể biết được. Bởi vì một đời, hai đời thì nó không thể nào cái tưởng, nó thu ngắn được cái thời gian đó trở lại được. Mà trong một đời chúng ta, nghĩa là lúc nhỏ chúng ta té, chúng ta như thế nào, thì cái người mà có cái tưởng thông đó, cái tha tưởng thông đó, họ sẽ biết được cái sự kiện xảy ra chúng ta hồi còn bé như thế nào, họ nói được.
(50:04) Nhưng mà cái đời nữa thì họ không biết, cái đời trước nữa thì họ không biết. Cái tưởng thông nó không có thể mà vượt cái thời gian quá khứ dài đó được, đó là có thần thông, nhưng mà thần thông đó thuộc về loại Mật tông bùa chú. Thuộc về loại người dùng thiền tưởng mà có thần thông đó, cho nên nó không phải là Chánh đạo.
Còn cái thần thông của đạo Phật do ly dục, ly ác pháp, cho nên cái tâm mà hết ham muốn rồi, thì cái thần thông đó hoàn toàn là không hại con người. Còn cái tâm mà còn ham muốn mà có thần thông như là những bậc mà A La Hán thì thế giới này họ là bá chủ hoàn toàn, bởi cái tâm dục họ còn.
Cho nên họ khi mà có thần thông như vậy, họ sẽ sử dụng thần thông đó, mà một cái nước nào mà không đầu hàng họ, họ tiêu diệt nước đó liền, họ giết sạch con người ở đó, để họ làm bá chủ ở đó. Thì đủ biết rằng cái tâm tham dục của chúng ta nguy hiểm lắm, khi mà nó đã có thần thông siêu việt đó.
Cho nên một cái người tu mà theo đạo Phật, nó có thần thông siêu việt đó, thì tức là cái tâm dục họ phải hết. Mà tâm dục họ hết, họ còn muốn làm bá chủ hoàn cầu không? Đâu còn. Nếu mà còn thì làm sao mà gọi là tâm siêu việt, họ chỉ còn có một tâm từ bi rất là thương xót chúng sanh.
Vì mọi con người đang sanh ra mang trong người bốn cái nỗi khổ, làm sao cho mọi người thoát ra nỗi khổ này? Đó là cái tâm niệm của một người mà tu đúng theo đạo Phật, lòng thương yêu của họ đối với tất cả mọi người đang khổ đau. Họ giải thoát rồi, họ sung sướng rồi, nhưng họ rất thương xót chúng sanh, mọi con người ở trên hành tinh này đang đau khổ.
(51:35) Cho nên Thầy suy ngẫm, cho nên vì vậy rồi tìm cách thức nào để làm cho mọi người thoát khổ. Chỉ duy nhất có đạo đức của đạo Phật- không làm khổ mình, khổ người. Bây giờ làm sao phổ biến được cái đạo đức này cho mọi người, đến với mọi người để giúp họ thoát khổ. Họ sống hạnh phúc trong gia đình của họ, anh em, cha mẹ, dòng họ, vợ chồng, con cái hòa thuận không bao giờ có tiếng to làm đau khổ với nhau. Thì đó là cái đạo đức của đạo Phật để giúp cho mọi mọi gia đình hạnh phúc, an vui.
Đạo đức của đạo Phật giúp cho xã hội, con người không chà đạp lên nhau vì sự sống. Biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau mà không giận dữ, không chửi mắng nhau, thì cái đạo Phật sẽ giúp được xã hội chúng ta. Con người đối xử con người với tình thương, mà không vì một ích kỷ cá nhân nào, thì cái đạo đức của đạo Phật thực tế và cụ thể sẽ giúp được con người.
Nhưng hiện giờ như chúng ta biết cái đạo đức đó nó chưa có, nó chưa có thành hình được, nó chưa có thành sách vở được. Lấy đâu mà quý vị đọc, lấy đâu quý vị nghiên cứu để thực hiện những hành động đó, đối xử với nhau, đem lại hạnh phúc cho nhau, không làm khổ nhau.
Thấy được, biết được, bây giờ làm sao? Chắc chắn là như Thầy dù là tuổi già sức yếu nhưng phải cố gắng, cố gắng hết mình, vì những sự đau khổ của con người. Cho nên cách đây mười lăm, mười sáu năm, thì khi ra thất rồi, tu xong Thầy ra thất. Rồi thời gian Thầy nghĩ đến một cái khu đất để thành lập một cái trung tâm an dưỡng, để giúp cho mọi người về đó được nghỉ ngơi và được học một cái đạo đức mà Thầy đã thấy, đem lại lợi ích cho muôn người, đem lại hạnh phúc cho mọi người, mong rằng cái sự thực hiện đó thành tựu.
(54:04) Nhưng nhìn trước, nhìn sau, kêu gọi mọi người giúp đỡ mình thì nhân sự chưa đủ. Thầy đào tạo một số người, đem hết sức lực mình mong cho họ thực hiện được đạo giải thoát như Thầy. Tâm đầy đủ những đức hạnh để cùng Thầy giúp cho mọi người học được những đạo đức.
Nhưng họ đã lạc lầm trong những cái pháp môn tu. Dạy một điều họ làm một ngả, vẫn nhắc đi, nhắc lại nhiều, họ chẳng nghe. Nhiều khi phải đuổi họ, phải nói nặng họ để rồi họ buồn, họ giận, họ bỏ, họ đi. Họ vào chùa khác ăn ngày ba bữa sướng hơn, ăn ngày một bữa cực khổ. Sống gì mà không cho nói chuyện, buồn gần chết, tu hành vậy sao nổi.
Thật sự ra Thầy tha thiết mong cho họ chỉ sống cần năm tháng, ba tháng, sáu tháng, một năm, mà sống cho đúng cái hạnh của người tu sĩ. Để rồi cùng Thầy đem cái sức lực này, mà đem cái đạo đức đó mà giúp cho mọi người thực hiện được cái sự nguồn vui cho họ.
Thế mà người ta cứ mãi chịu ảnh hưởng của những cái giáo pháp, mà người ta đè nén đạo Phật xuống, người ta cho rằng: "Cái giáo pháp của đạo Phật là Tiểu thừa, là ngoại đạo, là Phàm Phu Thiền", như hồi nãy Thầy đã nói. Cái danh từ đó hiện bây giờ ràng ràng là quý vị đọc ở trong kinh sách của Phật có hẳn hoi đàng hoàng. Người ta đã gán cho nó những cái danh từ quá thấp hèn.
Thầy xin nhắc lại, người ta còn xây dựng một đức Phật ở vị lai để thay thế Đức Bổn Sư Thích Ca. Lật đổ cái giáo pháp của đức Phật bằng một cái giáo pháp khác và bằng một giáo chủ khác đó là đức Phật Di Lặc.
Vừa rồi Thầy có nghe là một số người đem truyền cái đạo Di Lặc, chứ không phải không có. Họ lén lút, họ đưa cái đạo đó vào, họ tuyên bố rằng: "Thời mạt pháp và tận thế nó sắp đến rồi, đức Phật Di Lặc sẽ ra đời lập một cái đời mới, Phật giáo mới, không còn cũ nữa".
(56:07) Như vậy là có mục đích là cách mạng Phật giáo, thay thế đức giáo chủ là đức Phật Thích Ca. Người đã đưa ra một cái giáo pháp mà từ xưa đến giờ các tôn giáo không có cái đạo đức đó, không có giáo pháp mà làm chủ như Thầy đã giảng về thiền định như quý vị đã nghe.
Người ta còn muốn thay thế đức Phật Thích Ca, dìm mất cái đạo Phật Thích Ca và đồng thời kinh sách Nguyên Thủy. Khi mà đức Phật Di Lặc, nghĩa là có một vị nào thực hiện có thần thông, họ sẽ đưa cái vị đó lên làm đức Phật Di Lặc. Từ đó chúng ta đắm mình ở trong, say mê cái thần thông đó và quên đi tất cả các giáo pháp của đức Phật Thích Ca.
Từ đó người ta cho rằng giáo pháp đó là Tiểu thừa, là ngoại đạo. Chúng ta không có đọc, đốt phá sạch nó đi thì chúng ta chỉ còn thấy mờ mịt trong cái thần thông của cái vị giáo chủ gọi là Di Lặc đó. Thì lúc bấy giờ chúng ta xem như đức Phật Thích Ca là lỗi thời, không có hợp với thời đại, cho nên cái đạo Phật sẽ mất gốc ở trên thế gian này. Và từ đó cái đạo đức của đạo Phật không có phải như Thầy đã nhắc nhở quý Phật tử như ngày hôm nay.
Cho nên chúng ta thấy rằng ngoại đạo Bà La Môn giáo ngày xưa đã có cái mục đích đó rõ ràng, vì vậy kinh sách Đại thừa còn ghi lại hẳn hoi đàng hoàng những cái điều đó. Nếu ai đọc chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng và rất đau lòng cho Phật giáo.
Từ đó chúng ta biết rằng 2542 năm cho đến giờ biết bao nhiêu người đã tin Phật, đã theo Phật, đã Quy Y Tam Bảo, mà ai là người đã thực hiện được con đường giải thoát mà đạo Phật đã giải thoát. Một cái giáo pháp rất là rõ ràng, cụ thể, pháp hành cụ thể rất rõ ràng, giúp cho chúng ta bước vào tu là có giải thoát thật sự.
Vì chúng ta biết đời khổ, thì chúng ta đừng đắm mê cái dục lạc của thế gian này. Ăn, uống, ngủ nghỉ, quần áo, trang điểm, nhà cửa đẹp sang đều đưa chúng ta đi vào cái khổ đau, chứ không phải là đưa chúng ta thoát ra khổ đau. Nhưng sanh lên làm người chúng ta phải hoạt động, phải làm. Làm dư giả giúp đỡ cho những người khác, an ủi những sự đau khổ bất hạnh của những con người do nhân quả nặng, quá nặng.
(58:16) Cho nên ở đây chúng ta phải thấy được cái đúng, cái sai. Và Phật giáo sẽ bị mất đi nếu hôm nay không có tiếng nói của Thầy, không có lời của Thầy chỉ vạch rõ một cuộc cách mạng của Phật giáo sắp đến. Khi người ta tuyên bố rằng: "Tận thế, đời sẽ thay đổi và có một đức Phật Di Lặc ra đời làm lại Phật giáo".
Từ đó chúng ta sẽ còn có kinh sách Đại thừa, mà kinh sách Nguyên thủy sẽ không còn có nữa. Lời Phật Thích Ca năm xưa bây giờ chúng ta không tìm lại được nữa. Người ta đã dự định tiêu diệt lâu lắm rồi nhưng vì không tiêu diệt nổi, cái nhân duyên của chúng sanh còn có duyên với Phật pháp.
Cho đến cuối cùng cái thế kỷ này, may mắn Thầy đi từ cái giới luật của Phật mà trở lại, Thầy tìm thấy được cái đạo đức của đạo Phật giúp cho con người không làm khổ mình, khổ người. Thế mà bây giờ thì, cách đây mười mấy năm Thầy dự định xây dựng cái trung tâm an dưỡng từ thiện, nhưng không có người, đứng ra xin phép cũng không phải dễ. Chứ Thầy không nghĩ rằng phải xây cái chùa, xây cái hình ảnh của tôn giáo. Mà Thầy nghĩ rằng xây dựng những cái mái nhà nho nhỏ, gọn, để cho mọi người được nghỉ ngơi cái vùng khí hậu tốt ở nơi biển, như ở Phước Hải.
Khu đất ở đó Thầy có hai chục mẫu, đã mua ở đó để xây dựng cái trung tâm an dưỡng, để giúp cho mọi người, Phật tử, mọi người về được nghỉ. Thầy nuôi cơm ở đó, khỏi tốn hao, được tắm biển, được nghỉ ngơi khỏe khoắn trong một tuần, hoặc một tháng, hoặc hai tháng. Thầy sẵn sàng nuôi hết những cái điều sống đó cho Phật tử, để Phật tử được ở đó. Vừa nghe Thầy nói về đạo đức, giảng từ cái hành động đối xử nhau, để đem lại một cuộc hạnh phúc an vui cho kiếp sống của chúng ta quá khổ đau.
(01:00:03) Thế mà Thầy cố gắng hết sức mình cho đến bây giờ tuổi già, sức yếu mà chưa làm được. Thầy đã viết lại cái phương án đó để xin phép rất rõ ràng và cụ thể đến giờ này chưa thực hiện được. Nhưng cái hoài bão đó Thầy nghĩ rằng đệ tử của Thầy sẽ tiếp tục làm những cái điều này. Và để giúp cho con người trên hành tinh này, không riêng gì đất nước Việt Nam có một đạo đức tốt đẹp đó, mà cả mọi con người trên hành tinh này đều hưởng được cái đạo đức của đạo Phật.
Cho nên hôm nay quý Phật tử được duyên mà về nghe Thầy nói từ cái đạo đức của đạo Phật, cho đến thiền định của đạo Phật, thực tế và cụ thể, phải làm được như vậy. Nhưng tiếc vì không ai hiểu Thầy, không người tin tưởng Thầy cho nên sự làm việc rất là khó khăn.
Nhiều người ở trong Phật giáo thấy cái sai, tin tưởng nơi Thầy nói, nhưng cũng còn nghi ngờ chưa chắc Thầy đã là nhập được các định. Sự thật không phải nhập không được các định, nhưng không thể làm cái trò ảo thuật đó đối với quý Phật tử. Mà phải thực hiện được cái đạo đức cuộc sống của mình, thì nó mới thực tế, cụ thể.
Luôn luôn Thầy nghĩ rằng cuộc đời của Thầy, từ khi mà tu hành theo đạo Phật cho đến khi hoàn tất được tâm thanh tịnh của mình, Thầy không làm khổ một người nào hết. Luôn luôn sống tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Làm sao giúp được người giải thoát được như mình, đó là cái ao ước và nguyện vọng của Thầy nhất.
Nhưng đến giờ này Thầy chỉ nghĩ rằng, thầy Thông Vân khi về thăm Thầy cũng là có cái duyên với Phật tử ở Châu Đốc. Thầy về đây để mong đem lại những cái đạo đức, cái thiền định thật sự của đạo Phật đã bị chôn dập và vùi dập mất.
Người ta có bao giờ dạy chúng ta Tứ thiền bao giờ, người ta đâu có dạy chúng ta những đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người bao giờ. Quý Phật tử đã từng đi nghe thuyết pháp, mà có bao giờ nghe được những cái đạo đức này đâu. Mà có bao giờ nghe được cái sự thiền định làm chủ như vậy đâu.
(01:02:05) Hôm nay quý vị đã có duyên, đã nghe được Thầy nói, những cái thiền định thật là thần lực, làm chủ được sự sống chết của mình, làm chủ được bệnh tật, khổ đau mình như vậy thì còn một cái pháp gì mà quý giá bằng. Chúng ta lấy vàng bạc, châu báu mà chất ngập cả Tam Thiên, Đại Thiên này, mà đổi cái pháp đó có đổi được không?
Quý vị có thấy được không, hàng vạn, hàng triệu người ở trên đất nước Việt Nam này, ai đã được nghe những cái lời dạy như ngày hôm nay mà quý vị được nghe?
Quý vị là những người có duyên phước rất lớn, được nghe chánh giáo pháp của đức Phật, mà ngày xưa đức Phật cũng do từ pháp môn này đã thực hiện được. Do đó khi thực hiện được giáo pháp này, đức Phật đã đảnh lễ, đã quỳ xuống đảnh lễ: "Ta hãy đánh lễ giáo pháp này là Thầy của ta, dạy ta đã giải thoát".
Cho nên cái bài kinh đó, rõ ràng là đức Phật đã ghi lại cái lòng tôn kính của đức Phật đối với cái pháp mà đức Phật đã tự tìm ra, đã giúp mình thoát ra cái kiếp làm người khổ đau.
Cho nên khi Ngài tịch, Ngài lấy giáo pháp đó mà truyền lại cho chúng ta và Ngài di chúc lại: "Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật và giáo pháp ta làm Thầy. Đừng lấy ai làm Thầy, đừng lấy ai làm chỗ nương, mà hãy lấy giáo pháp và giới luật làm chỗ nương tựa, làm Thầy mình".
Lời di chúc đó mà đến hôm nay lời đó vẫn còn mãi mãi. Thế mà chúng ta có giữ gìn được giới luật, có giữ gìn được cái giáo pháp đúng đó mà tu hành không? Hay là chúng ta đã tu theo pháp của ngoại đạo?
Hiện giờ quý vị, có nhiều Phật tử đã tu thiền, đã tu, đã nghe pháp rất nhiều, hành động của quý vị có nghe đúng những cái lời dạy của đức Phật không? Có đúng cái lời giáo pháp này không?
Nếu đúng tức là của Phật, mà nếu quý vị không đúng, tức là đã thành ra giáo pháp của ngoại đạo. Đã thay thế, đã che đậy tất cả những giáo pháp của Phật và tính sắp sửa lật đổ Phật Thích Ca.
(01:04:08) Một ngày nào đó trong chùa chúng ta còn thờ Phật đức Di Lặc, mà Đức Phật Thích Ca chỉ để ở hàng, coi như là chúng ta thờ một vị Phật như chúng ta thờ quan thánh Đế Quân, như bà Chúa Xứ, bà Chúa Tiên, Chúa Ngãi nào đó. Đó là sau này chúng ta sẽ làm cái bàn thờ rất nhỏ để một bên, chỗ thờ đức Phật Thích Ca. Coi như là chúng ta nhớ cái hình ảnh đó cũng như cái di tích vậy thôi, chứ còn không phải là đấng giáo chủ, đấng bậc Thầy của chúng ta.
Đó là ngày mai chúng ta sẽ thấy nó đưa như vậy đó, trong chùa chúng ta sẽ đốn Người. Thì không phải gì, tại vì quý Thầy lầm lạc, quý Thầy tưởng như vậy, rồi quý Thầy cũng đặt như vậy mà thôi. Rồi đời này qua đời khác thì nó quên mất đi đức Phật Thích Ca.
Nếu không có Thầy nhắc đi, nhắc lại cái chánh pháp để thực hiện được như vậy, cái đạo đức được như vậy thì ngày mai này đức Phật Thích Ca sẽ mất. Vì quý vị có nghe đức Phật Di Lặc chứ đâu phải không nghe, mà kinh sách Đại thừa quý vị có tụng đọc về cái tên Di Lặc này chứ đâu phải không. Đó là cách thức người ta đã sắp đặt, để người ta lật đổ Phật giáo đó.
Hôm nay Thầy tuyên bố một cách thẳng thắn như vậy, chứ không phải còn một cái gì nữa. Lẽ ra một tôn giáo chỉ có một đấng giáo chủ, không phải hai, ba đấng giáo chủ. Thì phải hiểu được như vậy là cái thâm ý của những ngoại đạo, người ta đã biến Phật giáo chúng ta dần dần mất gốc rồi.
Nếu mà không có Thầy móc ra, thì kể như là người ta sẽ quên mất những cái giáo pháp này. Người ta chỉ đọc, nói Ba mươi Phẩm Trợ Đạo, Tứ Diệu Đế bằng cách này, bằng cách khác hời hợt, để nghe nó mà chơi, rồi chúng ta thực hiện những cái không phải của đạo Phật.
Vậy thì hôm nay quý Phật tử còn có thấy những gì mà không hiểu về Phật pháp, xin vui lòng mà hỏi Thầy. Vì ngày mai, ngày mốt thì Thầy có thể Thầy trở về trụ xứ của Thầy, không còn cái duyên mà tiếp tục tiếp xúc với quý Phật tử nữa.
Vì vậy mà Thầy ước mong có ngày nào có đủ duyên gặp lại, Thầy không còn thuyết giảng nữa. Mà Thầy sẽ chỉ dạy quý Phật tử sống như thế nào, thực hành như thế nào để đem lại nguồn an vui hạnh phúc, một cái đạo đức giải thoát cho quý Phật tử. Thì cái điều đó ngày mai quý Phật tử gặp Thầy, là Thầy dạy cái hành chứ không có lý thuyết. Bởi vì lý thuyết nó chẳng đi đến đâu hết, chỉ có hành nó mới giúp chúng ta được giải thoát mà thôi.
Đó thì hôm nay quý vị có duyên phước nghe Thầy, thì ai thì có cái gì thắc mắc cứ hỏi Thầy để cởi mở tâm hồn của mình, để cho mình hiểu được đạo Phật như thế nào đúng.
(01:06:37) Câu hỏi: Có một vị phật tử hỏi Thầy: Con người có bản ngã hay không?
Trả lời: Đúng là đạo Phật con người không có bản ngã. Do không có bản ngã cho nên nó mới tu giải thoát, có bản ngã là tu không giải thoát. Chúng ta vì chấp ngã cho nên người ta nói một lời nào đó mình giận, mình sân là vì mình chấp ngã, cho nên có bản ngã là không thể giải thoát. Vì vậy mà đức Phật đã thấy rõ được các pháp ở trong thế gian này do duyên hợp mà có, chứ không có cái bản ngã. Nó hợp lại rồi nó tan hoại, cho nên nó đâu có cái gì mà thường hằng mà gọi là bản ngã.
Đó là trả lời cái câu hỏi thứ nhất.
Câu hỏi: Nếu có thì làm sao diệt bản ngã.
Trả lời: Nếu có thì chúng ta không diệt được, bởi vì có một cái vật thường hằng. Vì chúng ta đây là chúng ta lầm chấp, lầm chấp nó là cái ngã, cho nên đức Phật chỉ vạch cho chúng ta hiểu để mà chúng ta hết lầm, chứ không phải nó nếu có thì diệt nó không được.
Sự thật nó có một cái bản ngã thật, thì không có pháp nào diệt nó được hết, nó không có diệt được. Mà vì nó không có, do chúng ta lầm hiểu nó có, chúng ta chấp lầm cho nên đức Phật mới chỉ cho chúng ta biết đây là, cái thân của chúng ta là cái ngũ uẩn, nó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm cái duyên này nó hợp lại, nó làm cái thân của chúng ta, chứ nó không có cái bản ngã trong đó, gọi là vô ngã.
Vì vậy mà chúng ta hiểu được, chúng ta thấu rõ được cái lý nó như vậy, chúng ta thấu suốt được, cho nên chúng ta không chấp ngã. Từ đó chúng ta không còn giận hờn nữa, nó không còn đau khổ nữa thì gọi là vô ngã, nó mới, còn nếu có ngã thì nó không có. Cho nên nếu mà nó có ngã, mà diệt ngã thì chúng ta diệt không hết được, chúng ta không làm sao diệt được, vì nó không ngã cho nên chúng ta mới có giải thoát.
(01:08:13) Câu hỏi: Còn không thì tu hết khổ được không?
Trả lời: Nếu mà nó không ngã thì tu hết khổ. Nghĩa là hoàn toàn là đức Phật xác định là nó không ngã, cho nên chúng ta sẽ tu hết khổ, coi như là chúng ta giải khổ hoàn toàn. Và cái người mà hết khổ, mà hết tham, sân, si, phiền não thì bằng chứng là Thầy đã làm được điều đó. Còn nói về thần thông thì Thầy làm không được gì hết. Nhưng mà cái mà hết giận hờn, phiền não, ai chọc ghẹo Thầy gì thì Thầy không giận hờn, thì cái đó Thầy làm được. Đó là Thầy biết rằng hỏi Thầy là câu này rất đúng đó: "Có hết khổ hay không?".
Nếu mà nó không ngã mà bây giờ chúng ta tu thì nó hết khổ. Hết, cái đó là hoàn toàn đúng là lời Phật nói không có ngã. Chúng ta đã hiểu biết thì chúng ta thực hiện như chúng ta nhắc, nhắc chúng ta: "Quán cái tâm vô ngã, hay hoặc là hít vô tôi biết tâm tôi vô ngã, hay hoặc là hít vô tôi biết thân tôi vô ngã". Là do mình nhấn mạnh, mình hướng tâm như vậy nó thành ra một cái lực của nó.
Thật sự nó không vô ngã là tại vì từ lâu mình lầm chấp nó thành một cái lực lầm chấp, là do đó nó dễ sanh giận hờn phiền não vì cứ lo cho mình là bị chấp cái ngã. Do khi mình hướng tâm mình nhắc thì lâu ngày nó thành một cái lực vô ngã. Vô ngã vì chính nó thật sự là vô ngã.
Mà bây giờ thì mình hiểu nhưng mà mình chưa thật sự đủ cái lực, để mình dẹp cái lực của mình đã lầm chấp vô ngã. Cho nên tu một thời gian sau thì cái lầm chấp này nó sẽ bị quét sạch đi, rồi từ đó thì mình thấy mình hết khổ. Mình không có ngã thì người ta chửi mắng mình hết giận rồi, đó là nó hết khổ.
Đó là Thầy trả lời cái câu của Phật tử hỏi. Kế đó có một người hỏi Thầy.
(01:09:44) Câu hỏi: Có một người phật tử hỏi: Đạo đức nhân quả có từ hồi nào?
Trả lời: Bởi vì cái đạo đức mà nhân quả nó sinh ra là do từ cái môi trường sống của chúng ta. Cho nên nó gồm môi trường sống của chúng ta là vô minh, bởi vì muốn hỏi cái này, là cái điểm cao nhất.
Bởi vậy thí dụ như nói bây giờ "có cái ngã", hỏi vậy chứ cái ngã đó "do ai sanh?". Rồi chúng ta hỏi hoài, thì cái người đó nói riết rồi không còn chỗ trả lời được, thành ra cái hỏi nó cũng đã sai. Bởi vì cái trí hữu hạn của chúng ta mà tìm hiểu cái vô hạn, thì chúng ta làm sao chúng ta hiểu được.
Cho nên hồi nãy Thầy nói, nếu mà chúng ta chấp thường thì có cái có, thì tức là nó sai, mà chấp đoạn thì nó cũng là sai, cho nên ở chỗ này rất là khó nói.
Bởi vì cái trí của chúng ta không thể hiểu cái mà chúng ta hiểu. Mà bây giờ buộc lòng chúng ta phải giải thích nó, để mà cái trí không hiểu mà để cho nó hiểu thì nó thành tưởng mất đi. Cho nên Phật nói chúng ta hiểu bây giờ những cái điều mà chúng ta không hiểu mà chúng ta hiểu, đó là tưởng tri chứ không phải liễu tri.
Cho nên ở đây Thầy muốn nói: "Đạo đức nhân quả nó có từ hồi nào?". Nghĩa là cái khi mà nó có cái nhân quả, thì cái con người chúng ta mới từ đó, nó mới xây dựng theo cái lộ trình của nhân quả mà chúng ta xây dựng để mà chặn đứng được những cái ác pháp. Để tạo được cái lộ trình thiện pháp, để đời sống chúng ta được hạnh phúc, được an vui.
Cho nên do đó chúng ta cũng phải theo cái lộ trình của nhân quả, mà chúng ta mới biết được cái đạo đức như thế nào. Bởi vì nói nhân quả thì có thiện, có ác chứ gì, cho nên con người chúng ta nó có cái trí tuệ, cái đầu óc của chúng ta nó có sự suy tư, bắt đầu chúng ta thấy khổ. Do đó chúng ta mới tìm hiểu ra được cái khổ đó.
Mà hỏi: “Nó từ ở đâu nó sanh ra?” thì rõ ràng là cái nhân quả này nó phải từ ở trong cái đống rác nó sanh ra, cho nên nói: vô minh. Cho nên nó, nếu mà nó có minh, thì nó sanh ra thì nó hoàn toàn thiện, thì nó đâu có khổ. Cho nên nó vô minh, nó mới có ác, có thiện, nó không hiểu, cho nên gọi là vô minh.
Vậy thì từ ở trong đống rác mà sinh ra rõ ràng là cái môi trường sống mà Thầy muốn nói đống rác. Bây giờ chúng ta đem một cái đống rác chúng ta đặt đó đi, rồi bắt đầu mưa hay nước mưa nó ẩm, nó rách, nó mục. Rồi một cái thời gian chúng ta lật ra, chúng ta thấy những cái loại mà côn trùng, nó ở từ ở trong đó nó sinh ra. Nó ở trong cái môi trường sống đó.
(01:12:09) Chẳng hạn bây giờ nếu mà cái môi trường sống của chúng ta, cái không khí này, cái bầu không khí này nó không phù hợp với cái cơ thể của chúng ta, thì chúng ta không sanh ra được. Cho nên nó có những cái hành tinh mà không có loài người sanh ra được, là tại vì cái môi trường sống ở đó không có. Cho nên tất cả những cái luật nhân quả này mà đức Phật gọi là vô minh.
"Vô minh sanh hành, hành sanh thức", do đó từ cái vô minh đó thì nó làm sao minh được. Chứ đâu phải nếu mà có một cái đấng nào đó, hoặc là có một cõi trời nào đó mà chúng ta thực hiện đây, thì tức là chúng ta phải minh rồi. Mà đã minh thì không bao giờ mà chúng ta vô minh được. Hễ minh mà nó làm sao vô minh được, nó không xen vô được, mà chỉ từ cái ở đống rác nó mới vô minh.
Cho nên từ cái trong đống rác, cái môi trường sống nó xuất hiện ra cái loài động vật, là cái môi trường sống nó có tạo ra được ra được cái sự sống. Cho nên nó mới sanh ra cỏ cây, mới sanh ra loài vật, do đó thì loài người cũng là một loài vật. Cho nên từ cái môi trường sống đó mà sanh ra. Mà sanh ra thì từ cái môi trường sống đó, thì nó phải có thiện, ác chứ không thể nào không.
Mà bây giờ mà muốn mà rõ được, thì như vậy là rõ ràng là đức Phật từ đó, từ trước tới bây giờ, trước đức Phật nó có cái đạo đức nhân quả rồi, nó có cái nhân quả rồi, chứ không phải là đợi đức Phật mới có. Nhưng mà đức Phật đã vạch ra cái nhân quả, cái đạo đức nhân quả, nó rõ ràng và cụ thể.
Nhưng các tôn giáo khác người ta cũng biết nhân quả, tức là thiện, ác người ta cũng biết hết rồi, nhưng mà nó không vạch ra được cái đạo đức. Đến đức Phật, Ông đã vạch ra được cái đạo đức, cho nên chúng ta mới thấy được đạo Phật, mới dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người, thì đó là nó đúng là từ đạo Phật. Chứ còn các tôn giáo khác thì không có dạy cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Như Khổng Tử dạy chúng ta Tam Cang Ngũ Thường - Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, chứ đâu dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Cho nên cái hành động mà đạo đức của Nho giáo là hành động quân tử. Vì vậy mà cái hành động của Quan Âm Thị Kính như Thầy đã nói đó là hành động của đạo đức Nho giáo, chứ không phải đạo đức của Phật giáo. Đối với đạo đức của Phật giáo, cái đạo đức của Nho giáo đó là phi nhân quả, phi đạo đức của đạo Phật.
(01:14:03) Bởi vì mình làm thinh, mình không nói, để cho người ta hiểu lầm, người ta đánh đập mình. Thì đức Phật nói để cho người ta hiểu, người ta không chửi, mạ nhục mình là: "Thầy tu hành mà Thầy còn những cái hành động như vậy. Hay hoặc là chú tu hành mà chú còn làm như vậy, chú đi tu làm gì, phải không ?".
Người ta chửi mắng Thị Kính như vậy. Thì lúc bấy giờ người ta chửi mắng, thì thứ nhất là Thị Kính làm thinh là tạo cho người ta làm điều ác. Mạ nhục mình như vậy, rồi người ta căng mình ra, người ta đánh mình nữa, người ta nói mình làm như vậy.
Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta thấy rằng, cái đạo đức của đạo Phật không chấp nhận. Là vì mình đã làm khổ mình mà làm khổ người, làm cho người làm ác, thì tức là ta sẽ vay trả cái quả ác đó. Cho nên cái đạo đức nhân quả không chấp nhận cái hành động của Quan Âm Thị Kính.
Thì ở đây chúng ta phải thấy rằng cái nhân quả nó từ cái đống rác mà nó sanh ra, cho nên nó phải có thiện, có ác. Không thể nào mà, có một cái người nào mà người ta là cái đấng Ngọc Hoàng, hay Thượng Đế, hay là một đấng Tạo Hóa nào mà sanh mình ra. Thì họ phải sanh con người mình tốt, chứ sao lại họ sanh con người mình như thế này. Thì như vậy là cái đấng Ngọc Hoàng mà đấng Tạo Hoá như vậy đó, thì nó không phải là cái con người.
Mình sanh con, quý vị mà đẻ sanh ra một đứa con, quý vị muốn nó thông minh hay là muốn nó ngu, quý vị nói đi. Thì ông Ngọc Hoàng, ông sanh chúng ta ra là con của Ngọc Hoàng thì phải là tốt chứ, sao lại con Ngọc Hoàng gì mà giận dữ vậy, gì mà như rắn độc vậy, phải không?
Quý vị thấy khi mà chúng ta giận dữ coi phải là như chúng ta dữ không? Giết người chúng ta cũng dám lắm chứ, phải không?
Đó cho nên không lẽ là con ông Ngọc Hoàng gì mà dữ vậy, mà ông sanh mình ra mà bây giờ ông để cho mình dữ tợn vậy, thì đâu phải. Mình sanh con mình ra thì mình cũng muốn con mình nó phải thông minh, nó phải hiền lành chứ. Mình đâu có muốn con mình như cọp, phải không?
Mình làm cha mẹ vậy thì ông Ngọc Hoàng là cha mẹ mình, hay là đấng Tạo Hóa nào mà gọi là cha mẹ mình, vạn năng mà sanh con người ra thì phải vậy. Phải thương con mình chứ, sanh con người ra mà muốn nó là con thú như vậy thì sanh nó làm gì?
Như vậy là Ngọc Hoàng gì? Thầy lôi xuống chứ Thầy đâu có cho ngồi cái ghế đó được, phải không? Phải nói mạnh như vậy đó mới là xác định được cái nghĩa lý của Ngọc Hoàng. Một ông cha mà chúng ta là con của Ngọc Hoàng mà chúng ta làm như vậy thì đâu được.
(01:16:07) Cũng như bây giờ chúng ta phải hiểu như vậy đó, thì do đó mà chúng ta từ cái chỗ mà cái môi trường sống đó sản sanh chúng ta ra, cho nên chúng ta vô minh. Do vô minh chúng ta mới lầm chấp, chúng ta mới không hiểu rõ, vì vậy mà chúng ta làm chấp tưởng cái thân mình là cái ngã. Tưởng mọi vật này xung quanh là những vật của mình, nhưng không ngờ mình có giữ nó được đâu.
Một cái nhà này cất, mai mốt thời gian nó hoại diệt, rồi mình lại cất nữa, và cứ như vậy mà nó làm khổ mình. Do như vậy mình lầm chấp, mình cho nó là cái thật có, mà cuối cùng thì nó không thật có. Cái gì nó cũng hoại diệt hết, trong thế gian này không có cái gì mà nó thường hằng được.
Cho nên đạo đức nhân quả phải nói rằng từ đức Phật mà có, chứ không phải có trước. Nhưng nhân quả có là phải có trước đức Phật.
Vì khi đức Phật tu rồi, thì ngài rõ ràng là Ngài thực hiện cái đạo đức nhân quả. Người ta muốn nghe Phật thuyết pháp rồi mà xin vào tu, thì đức Phật không cho đi. Cha mẹ không bằng lòng thì không nhận, mà cha mẹ bằng lòng thì nhận. Người có đôi bạn, có vợ chồng rồi mà chồng muốn đi tu thì vợ phải bằng lòng thì đức Phật nhận, mà vợ không bằng lòng thì đức Phật không nhận. Đó là cái đạo đức làm người hẳn hoi mà. Cái đạo đức nhân bản rõ ràng, không thể nào mà sai được. Đạo đức của đạo Phật ra đời, thì chúng ta thấy ngay từ khi mà đức Phật nhận người vào tu.
Mà chúng ta lại thấy đức Phật ngày xưa mà ngài đi tu, Ngài bỏ cha, bỏ mẹ, Ngài bỏ ngai vàng, cha mẹ rồi vợ con, vợ mới sanh Ngài bỏ, Ngài đi tu. Thì coi đương nhiên như đạo đức của đạo Phật không còn có.
Nhưng mà đến khi mà Ngài làm giáo chủ, cái đạo Phật có mặt trong thế gian thì bắt đầu có đạo đức rõ ràng. Ai đi tu mà làm khổ người khác là không được, phải không? Quý vị đọc lại kinh sách của Phật phải có không? Rõ ràng, rất rõ ràng. Cho nên vì vậy nó có cái đạo đức hẳn hoi.
Trước Phật có đạo Phật không? Không có. Có nhân quả chứ không có đạo Phật. Cho nên do đó đức Phật muốn tu, là cái ham muốn của mình mà, mình muốn giải thoát, cho nên bỏ cha, bỏ mẹ, khổ gì kệ, chừng mình tu xong rồi mình về mình độ, biết xong được không ?
Cũng như quý vị bây giờ, giận cha mẹ mình cái bỏ vô chùa tu, như vậy là mình làm khổ cha mẹ mình, mình phải làm sao cho nó xứng đáng chứ. Đó là những cái đạo đức của con người mà chúng ta chưa thực hiện được thì chúng ta đừng có mơ mộng một cái gì cao siêu.
Đó hôm nay Thầy trả lời để thấy rõ.
(01:18:30) Câu hỏi: Ai sáng tạo lập ?
Trả lời: Đó Thầy trả lời: Đạo đức nhân quả là do đức Phật đã sáng lập ra cái đạo đức đó.
Câu hỏi: Phát hiện về nhân quả ấy đem lại lợi ích như thế nào cho cộng đồng xã hội.
Trả lời: Ở đây đó thì cái sự mà, cái đạo đức nhân quả nó đã có, nhưng mà phát triển về cái đạo đức nhân quả của đạo Phật thì từ xưa đến giờ các Tổ không có phát triển cái này, cho nên chúng ta mờ mịt, chúng ta không biết. Nếu mà các Tổ đã có phát triển cái đạo đức nhân quả thì chúng ta đã có những sách đạo đức nhân quả rồi.
Cho nên một đống kinh sách này chúng ta có thể đọc mệt thì thôi mà chúng ta tìm thấy một cái đạo đức nhân quả thì không có, mà đạo đức nhân quả mê tín có.
Bây giờ đem cúng chùa, đem cúng bình bông này cho Phật đó, thì mai mốt mình sanh ra kiếp sau đó, thì cái mặt mình nó đẹp đẽ như là Tây Thi. Trời ơi ai không ham mà không cắt bông. Mà thử hỏi Thầy nói như thế này: Một cây bông nó đẹp là khi nó còn sống với cái gốc của nó, mà cắt chưng đó mình chỉ làm đẹp cho mình, chứ sự thật ra nó là mất cái đẹp của nó rồi. Thì thử cái nhân quả mình làm người ta chết mà mình muốn làm đẹp, mình thì đẹp ở chỗ nào đâu. Mà kinh sách nhân quả dạy vậy có đúng không? Quý vị có chấp nhận cái nhân quả đó không?
Làm chết cái cây bông này rồi đút vô đây để nước cho nó sống, để rồi ít bữa nó tàn rụi với cái đau khổ của nó, phải không? Nó có sung sướng gì đâu, nó đâu có còn tự nhiên với mẹ nó, với gốc của nó đâu. Mà quý vị vui là quý vị thấy đẹp mắt của quý vị, chứ cây bông này nó khóc, nó khóc nó lìa cành, phải không?
Mình đâu có nghĩ đến cái nỗi đau thương của nó đâu, như vậy là rõ ràng là mình thiếu đạo đức. Vì cái đẹp của mình, mình đem mình cúng Phật, Ông Phật, Ông khóc chứ: "Trời ơi đạo từ bi gì mà không thương xót".
(01:20:10) Ông cấm đệ tử của mình đi không được dẫm lên cỏ nữa mà, là đủ biết hồi thời đức Phật đi không được đạp lên cỏ. Vì cây cỏ nó đang tươi xanh, đang tốt mình đạp lên nó héo úa, thì đủ biết cái đạo của Phật như thế nào rồi, cái đạo đức như thế nào rồi. Đối với cây cỏ mà còn không đạp thì thử hỏi quý vị nghĩ sao đối với một con vật?
Cho nên trong Tứ Niệm Xứ mà khi mà hành cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà Thầy dạy trong giáo án rất rõ ràng. Là khi cái thân hành mà chúng ta bước đi, thì mặt chúng ta nhìn xuống, nhìn xuống dưới bước đi mà chúng ta hướng tâm nhắc: "Tâm phải nhớ vì dưới chân chúng ta côn trùng rất nhiều, đi hãy chú ý đừng đạp côn trùng". Do đó cái sức tỉnh chúng ta vô cùng, vì lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh, phải không?
Chúng ta đi mà chúng ta sợ đạp chết thì bắt đầu buộc chúng ta phải tập trung rồi, không tập trung thì không được. Còn nếu mà chúng ta nói: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành" mà không sử dụng cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm từ bi, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không bao giờ tỉnh thức được lâu. Vì cái lòng thương yêu chúng ta nó kéo dài cái sự tỉnh thức, để mà chúng ta tránh khỏi đạp côn trùng chết ở dưới chân.
Đó thì cái sự tu tập Thầy sẽ dạy ở trên Tứ Vô Lượng Tâm đó: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Do chúng ta thực hiện được cái tâm từ bi của chúng ta trên những cái hành động của chúng ta. Đó thì nó có lợi ích là vì cái đạo đức mà nhân quả, là vì nó lợi ích rất lớn cho xã hội, nghĩa là như thế nào?
Khi một cái người sống mà đã hành động đúng cái đạo đức nhân quả, thì họ không có làm khổ họ, họ không có làm khổ người. Mà mọi người đều thực hiện được như vậy thì cái cộng đồng xã hội chúng ta là thiên đàng rồi, nó lợi ích như vậy đó.
Thì thử hỏi khi mà chúng ta tu tập mà học được cái đạo đức nhân quả rồi, thì cuộc sống của chúng ta, mọi người sống, đi ngoài đường không bao giờ có thể xảy ra tai nạn. Nghĩa là tai nạn lưu thông đó, không bao giờ xảy ra. Còn bây giờ chúng ta, vì như thế nào mà chúng ta xảy ra tai nạn lưu thông.
(01:22:05) Khi chúng ta hiểu rằng mình cưỡi xe, mình lái xe như vậy là gây cái đau khổ cho người khác, không nên, cho nên cẩn thận từng cái lúc mà mình lái xe. Còn bây giờ chúng ta có chuyện gì lật đật, hay hoặc là uống rượu say là chúng ta nhào lên xe, là lạng một hơi, là bao nhiêu người gây ra bao nhiêu tai nạn, đó là chúng ta thiếu đạo đức đó.
Nếu một người có đạo đức rồi thì người ta cẩn thận từng cái hành động. Hành động thân, rồi cái ý của chúng ta, cái lời nói, thì cái hành động mà chúng ta lái xe đâu phải là thiếu cẩn thận được. Đó là những cái hành động đạo đức, cho nên nó đem lại cho cộng đồng xã hội, cho nhân loại này là một cái hạnh phúc vô cùng.
Đương nhiên là khi mà đã đạo đức của nhân quả mà đức Phật đã được truyền dạy, được phổ biến rộng cho mọi người rồi, thì cái xã hội chúng ta gọi là cái xã hội cực lạc, con người không còn khổ đau. Nhưng mà vì chưa có được cái đạo đức cho nên chúng ta còn tranh nhau từng để sống, giết nhau từng cái danh, cái lợi mà chúng ta lầm chấp là cái ngã. Vì cho mình, vì cho cá nhân cho mình mà mình quên đi cái sống của người khác.
Cũng như bây giờ mình ăn thịt chúng sanh, mình gọi ăn chay, ăn mặn đó, là vì mình lo cho mình mà mình quên cái sự đau khổ, cái sự chết chóc của chúng sanh. Cho nên mình nỡ tâm mình ăn thịt được, chứ sự thật ra mà khi học đạo đức rồi, thì không bao giờ mà ai mà có thể nuôi bò, nuôi heo mà để làm thịt. Không bao giờ mà ai nuôi gà nữa hết, bởi vì có ai mà thèm ăn nó nữa đâu. Vì mình ăn nó, mình không thấy cái sự đau khổ của nó sao? Cho nên cái người mà theo đạo Phật mà học đạo đức nhân quả, thì như vậy là cả xã hội này không có còn máu vây tanh, không còn ai xuống sông bắt cá nữa.
Đó sự thật ra là chúng ta sẽ thực hiện cái đạo đức của nó, sẽ đưa cho chúng ta đi đến cái chỗ mà rất là thiện, không còn làm đau khổ một con vật nhỏ. Thậm chí như con kiến đi dưới chân chúng ta, chúng ta còn nhìn để mà tránh, không bao giờ mà chúng ta làm chúng đau khổ, chúng chết.
(01:24:00) Thầy sẽ đọc câu hỏi rồi Thầy sẽ trả lời.
Câu hỏi: Đại thừa giáo là một nhánh trong Phật giáo và được lập ra sau Nguyên thủy Phật giáo. Nhưng đại đa số người tu theo Đại thừa lại kích bác Nguyên thủy chỉ là chấp giới tướng, cho Nguyên thủy là chấp giới tướng. Hiện tượng này là điều sáng sủa cho Phật giáo hay là nỗi hoang mang, là điều đi xuống của Phật giáo đương đại ở Việt Nam?
Trả lời: Thí dụ như đây là cái câu hỏi Thầy những cái điều mà kích bác hiện giờ, thì các Hòa thượng dung thông giữa Nguyên thủy và Đại thừa. Người ta cố gắng người ta dung hòa giữa cái Nguyên thủy và Đại thừa, nó không có để cho chống báng nhau. Và đồng thời thì người ta sẽ triển khai cái giáo pháp của Đại thừa hơn là cái Nguyên thủy. Nhưng người ta cho học cái Nguyên thủy nhưng mà ít có ai dạy cái sự tu tập về Nguyên thủy.
Nhưng người ta là hầu như là tất cả quý thầy, Hoà thượng bây giờ, ngay cả giáo hội chúng ta không triển khai cái đạo đức của đạo Phật, cho nên nó sẽ làm mất đạo Phật. Vì đạo đức của đạo Phật là cái nền tảng vững chắc cho cái thiền định của đạo Phật, chứ không phải là do thiền định đâu, mà chính là cái nền tảng đạo đức nhân quả đó. Mà bây giờ nền tảng đạo đức nhân quả không có, kinh sách không có cho nên vì vậy mà đạo Phật sẽ mất.
Do một ngày nào đó thì các kinh sách mà Đại thừa nó phát triển lý luận, đến cái mức độ và có một vị nào mà xuất hiện trong đời nay mà có thần thông, từ cái các pháp Đại thừa mà thực hiện ra thì từ đó là thay đổi toàn bộ, giáo lý của Nguyên thủy sẽ bị dẹp. Đó là cái hiểu biết và tiên đoán trước cái sự việc mà sẽ đến cho Phật giáo ở ngày mai.
Nhưng mà kịp thời chúng ta đã chấn chỉnh được Phật giáo, đem lại cái đạo đức cho mọi người, cho Phật tử. Đem lại hạnh phúc cho mọi người, thì không có một cái giáo pháp nào mà có thể diệt Phật giáo được.
Cho nên Thầy mong rằng ở Châu Đốc ngày nào quý Phật tử sẽ cùng nhau cố gắng mà tạo một cái môi trường sống, môi trường sống phù hợp với để mà thực tập những cái đạo đức của đạo Phật. Vì Thầy có dự định, cái chương trình như hồi nãy Thầy nói là Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện. Thì tất cả những người trong đất nước, không riêng gì ở tỉnh Châu Đốc, hoặc Tây Ninh. Không riêng gì ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội hoặc là Hải Phòng, mà tất cả những tỉnh khác ở trong đất nước, đều được về trung tâm của Thầy an dưỡng.
Người nào có duyên được về, được nghe dạy đạo đức, đó là một cái phổ cập cho rộng. Và từ đó nó được đưa vào cái giáo trình học tập của các trường học, để giúp cho trẻ em và giúp cho những người lớn người ta học tập.
Cho nên ở đây thì cái điều mà câu hỏi này, thì nếu mà giáo pháp hiện giờ nó gây những cái hoang mang, chứ không phải là sáng sủa cho Phật giáo đâu. Nó làm cho hoang mang, người ta không biết Phật giáo là thế nào. Cho nên đó là một cái sự hoang mang, chứ không phải là sự sáng sủa cho Phật giáo.
Đó thì nên đến bây giờ như Thầy đưa cái giáo pháp này ra, nó làm cho hoang mang. Từ nào chúng ta theo cái Đại thừa chúng ta tu học, kinh sách Đại thừa chúng ta học tập, chúng ta tụng niệm cúng bái theo cái lối Đại thừa. Rồi bây giờ Thầy nhắc đến Nguyên thủy, nói đến cái đạo đức của đạo Phật, thì nó làm hoang mang cho các vị hết. Nó làm cho các vị hoang mang, không biết là Phật giáo như thế nào mà bây giờ lại có những cái này, nó làm cho các vị dao động rất mạnh.
Từ lâu các vị tin tưởng là có cõi Cực Lạc Tây Phương, thế bây giờ Thầy lại nói là không có, thì nó hoang mang trong lòng các vị rồi. Cho nên nó đưa ra một cái là làm cho các vị như là sự sụp đổ cả một cái gì mà mình đã tin tưởng ở cái giáo pháp đó.
Nhưng mà quý vị nên cần suy nghĩ, đừng tin nơi lời Thầy nói đâu. Mà các vị suy nghĩ, từ xưa đến giờ người ta thực hiện Đại thừa người ta có kết quả gì? Hay là những bậc mà thực hiện Đại thừa đó, khi mà họ chết, họ để lại những cái đau khổ. Những cái bậc mà gọi là chân tu đó, họ lại để lại những cái đau khổ.
Chúng ta suy xét và chúng ta đừng có tin vào ở trong kinh sách huyền thoại. Cái người này tu là đã chứng đạo như thế này, chứng đạo như thế kia, chết tự tại như thế này, thế khác, đó là cái sự huyền thoại che đậy của họ. Chúng ta phải bằng mắt thấy cái người mà tu hành, cái thiền định đó nó sẽ làm chủ như thế nào khi chết, thì chúng ta mới tin, còn không thì chúng ta đừng tin.
(01:28:25) Câu hỏi: Ở đây câu hỏi. Trước cảnh Phật giáo muôn vàng pháp môn như vậy, muôn vẻ như vậy, chúng con chọn pháp môn nào để tu?
Trả lời: Thì ở đây Thầy xin trả lời, chúng ta nên chọn lấy cái giới luật mà để tu, vì đó là cái đạo đức, cái đạo đức của đạo Phật. Cho nên những nơi nào mà người ta thực hiện đạo đức, cái hạnh đạo đức, thì chúng ta nên chọn cái đó là chơn chánh, bởi vì cái đó dễ cho chúng ta nhận. Còn nếu mà chúng ta nhận ra những cái thần thông, những cái thiền định, là chúng ta sẽ bị những tà thần thông nó sẽ gạt chúng ta, nó sẽ dẫn dắt.
Cho nên có nhiều ông giáo chủ, có những thần thông nói chuyện quá khứ, bói khoa, làm chúng ta tin tưởng, làm chúng ta hy vọng. Nhưng mà cuối cùng chúng ta có thoát được cái nhân quả của chúng ta không, đâu có thoát được. Cho nên chúng ta tin tưởng, cúng dường, cúng bái các vị đó, thấy họ có những thần thông. Thì do đó, từ cái thần thông đó mà nó lường gạt chúng ta biết bao nhiêu sự khổ đau. Vì vậy mà chúng ta hãy chọn lấy những cái người đạo đức mà đúng là giới luật của Phật.
Vì vậy cho nên Phật tử muốn chọn lấy một bậc thầy, muốn nương vào một cái tôn giáo nào đó, thì phải xem cái đạo đức của tôn giáo đó có phù hợp với mình không. Và chọn lấy cái người mà tu tập có đạo đức và làm lợi ích cho Phật giáo. Thì làm lợi ích cho Phật giáo là phải chọn lấy cái nơi, cái nơi mà giữ gìn đạo đức, thì cái nơi đó mới là làm sáng tỏ Phật giáo. Còn cái nơi mà làm cảnh tham quan thì không phải là, chúng ta chọn cái đó, chúng ta đưa Phật giáo đi đến chỗ chết. Coi như mình nối giáo cho ngoại đạo để diệt Phật giáo mất.
Cho nên cái tốt nhất là quý Phật tử muốn đi đúng vào con đường Phật giáo và ủng hộ giáo pháp của Phật, thì cứ xem nơi đâu có đạo đức. Người đó có sống đầy đủ giới luật của Phật thì chúng ta sẽ thực hiện. Người nào mà không làm khổ mình, khổ người, thì người đó, chính đạo Phật đã dạy cho người đó.
Đó là một cái niềm tin của mình, phải lấy giới luật của Phật mà làm cái niềm tin sâu thì chúng ta mới có giải thoát được, mới có được hạnh phúc, được an vui cho cuộc sống của chúng ta.
(01:30:20) Câu hỏi: Trước sự đi lên của Phật giáo, chúng con có trách nhiệm và bổn phận hay không?
Trả lời: Trước cái sự chấn hưng Phật giáo thì người cư sĩ là cái người bổn phận gốc, người cư sĩ là bổn phận gốc.
Cái Phật giáo mà chúng ta hư từ lâu tới giờ, là tại vì chúng ta nghe cái lời lý luận của Đại thừa, rồi chúng ta không hiểu đúng sai cho nên chúng ta cúng dường, chúng ta làm theo cái kiểu của Đại thừa. Vì vậy mà lần lần nó dìm mất cái giáo pháp của đạo Phật, do Phật tử cái chính.
Nhưng mà cái lỗi nhất là cái người hướng dẫn của ông thầy đó, mà chúng ta là người Phật tử làm sao chúng ta hiểu hết kinh sách của Phật đâu. Cho nên nói sao chúng ta nghe hữu lý và nghe có lợi ích cho mình.
Cũng như hồi nãy Thầy nói là cắt cái bình bông này để đem cúng Phật thì sắc đẹp sẽ được, chúng ta nghe ham quá.
Bây giờ quý vị đem tiền bạc bỏ cúng dường để xây chùa thì quý vị sẽ được giàu sang, thì gợi cái tâm tham của quý vị chứ gì.
Tham cho mình đẹp thì cắt bông này chưng cúng Phật. Tham cho mình được giàu sang,cho nên vì vậy bỏ tiền ra cúng giường để xây chùa cho tốt. Thì do đó, là do gợi cái lòng tham của mình đúng cách mà, cho nên mình tham cho mình có tiền.
Vì vậy bây giờ mình bỏ ra một trăm, hai trăm, hay là một triệu đi nữa, chắc chắn là mình sẽ giàu sang sau này. Bây giờ cúng xây cái chùa như vậy, mình có công lao là mình có gieo được cái công đức như vậy. Thì chắc bây giờ đời này mình chưa có giàu được, chứ đời sau đây chắc là mình lên là mình làm quan, tiền bạc mình triệu triệu nữa. Bây giờ mình bỏ có một triệu mà sau này mình cả trăm triệu nữa.
Thì do đó ai không ham, do cái chỗ mà nhân quả cái kiểu này là nhân quả gạt người, lừa đảo người, chứ không thật là làm cái chuyện đó. Bởi vậy Thầy mới ví dụ cắt cây bông này, làm cho sự chết chóc đau khổ như vậy mà bây giờ đòi mình đẹp. Thầy nói thật sự cái bông này, nó vì do cắt nó mau tàn đó, do đó cái mặt của chúng ta mà muốn đẹp, chắc chắn là nữa nó méo xẹo à, nó không còn đẹp đẽ chút nào đâu.
(01:32:12) Bởi vì mình làm một cái nhân quả đó thì mình phải cái mặt như vậy chứ sao. Mình làm người ta chết đau khổ như vậy, mình bảo nó đẹp nữa, làm sao đẹp nữa được, nhân quả phải trả đúng thôi.
Đó thì như vậy cho nên bổn phận người cư sĩ thì trong cái giai đoạn này thì trách nhiệm bổn phận đó phải cúng dường đúng chánh pháp. Tìm đúng cái nơi mà vị trí giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, giới luật không vi phạm, những thầy đó chúng ta sẽ cúng dường.
Những thầy mà dù chùa cao tháp lớn, mà làm những chuyện mê tín như coi ngày tốt xấu, rồi cúng sao, cúng hạn, tạo những cái điều mê tín như vậy chúng ta không nên đến đó. Đó là thuộc về loại Ma Ba Tuần mà mang hình lốt của sắc của Phật, chúng ta không đến đó.
Thầy ở đây quý Phật tử đừng có chọc mấy cái chùa mà họ cúng sao đó, họ tìm Thầy họ diệt Thầy đó. Họ mất cái miếng ăn, họ giết Thầy chứ không phải không đâu. Cho nên Thầy nói để mà nghe, để mà biết mà mình tìm cái cách mình trùng hưng lại Phật giáo, để làm cho Phật giáo nó tốt lại. Chứ không phải là đến gặp mấy ông thầy đó nói: "À thầy Thông Lạc nói vậy đó, mai mốt là tôi lên tôi đốt cái rừng Trảng Bàng cho sạch đi, cho tiêu ổng luôn cho rồi". Thì coi như là họ xúm nhau họ lên, họ đốt cháy thật đó.
Nhưng mà sự thật ra Thầy không sợ đâu, Thầy nghĩ rằng cái điều mà Thầy làm đúng, thì không ai mà làm cháy nổi cái khu rừng của Thầy đâu. Họ vừa đốt cái mưa xuống cái tắt.
Cho nên cái công đức của cái người làm đức tin đúng mà, đâu có sợ đâu, cho nên Thầy mạnh miệng nói với Phật tử chứ Thầy không có sợ đâu. Nhưng mà Thầy nói rằng mình âm thầm chứ để không khéo nó làm cực khổ mình, nó hại mình không được nhưng mà làm mình vất vả. Chánh pháp thì đâu có sợ tà pháp đâu, nhưng mà nếu mà chúng ta không khéo, thì chúng ta lại làm Thầy vất vả và các Phật tử cũng vất vả hơn, có gì.
Đó cho nên vì vậy từ đây về sau quý vị cúng dường thì phải chọn những bậc chân tu, những cái người giới luật nghiêm chỉnh.
(01:34:05) Chứ không phải chân tu là người đó ngồi ba bốn bữa, có thần thông đó là chân tu, đó là tà ma nó ngồi cũng được nữa chứ đừng có nói. Thầy cố gắng mà Thầy gạt quý vị, Thầy ngồi cho được thiền ngồi một tháng. Rồi bắt đầu Thầy ngồi Thầy im lặng một tháng như vậy: "Trời ơi ông đó nhập định quá trời”, họ cúng dường. Đó thì Thầy tập ngồi như vậy thế nào cũng được à, bởi vì coi cái thân vậy chứ Thầy luyện riết, Thầy ngồi cũng được, cái đó không có quan trọng.
Nhưng mà cái đạo đức của Thầy mà có được, Thầy sống không phải chuyện dễ đâu. Mà cái người mà sống đạo đức thì phải làm được chứ sao không được, mà làm được đạo đức thì người ta đâu có gạt mình đâu, đã có đạo đức thì làm sao gạt. Không lẽ bây giờ tôi sống đạo đức như vậy để tôi gạt người ta, thì vậy là còn nghĩa lý gì đạo đức, phải không? Các con thấy nó phản đối trở lại ngay liền.
Một người có đạo đức thì không bao giờ gạt người, vì người ta sống đạo đức thì người ta không gạt. Mà cái người mà sống không được đạo đức thì họ gạt. Cho nên coi vậy chứ cái giả đạo đức nó cũng dễ biết lắm. Bởi vì hầu hết có một số thầy cũng giả đạo đức, cũng ăn ngày một bữa này kia, nhưng mà ban đêm họ ăn lén. Họ chơi cái kiểu đó thì thiệt là đạo đức thiệt! Nó còn thêm cái tội giả dối nữa chứ, phải không?
Họ thì họ làm một cái điều, trước mặt Phật tử họ làm một điều, sau lưng họ làm chuyện khác. Họ mang cái tội là đối với giới luật của Phật đó, là cái tội họ ăn phi thời, họ mang cái tội đó bởi vì họ ăn phi thời. Nhưng mà đối với Phật tử họ mang cái tội dối trá, phải không?
Ban ngày họ ăn có một bữa, chờ Phật tử về hết rồi bắt đầu họ ăn thêm bữa nữa, phải không? Mà họ ăn họ làm đủ thứ hết, ngon, béo, ngọt. Ban đầu, mới đầu có Phật tử thì ăn đơn giản lắm, rau cải, tương dưa đồ ăn chấm đơn giản, tối họ làm đậu hũ cục nào, cục nấy thật lớn, phải không? Cho nên họ cũng ăn lén mà, như vậy là họ đã tạo họ hai, ba cái phi đạo đức ở trong đó rất lớn.
Cho nên ở đây đối với Thầy thì thật là thật mà giả là giả. Do đó họ làm vậy, họ che đậy như vậy, chứ một thời gian sau chúng ta gần gũi thấy rõ lộ mặt hết, không có làm sao mà giấu được hết. Cho nên mỗi cái gì mà người ta giấu, thì không có ai giấu được hết, hễ giả là giả mà thật là thật.
Vì vậy mà hôm nay Thầy nói để cho quý vị Phật tử, có cái bổn phận mình cúng dường phải đúng chánh pháp. Cúng dường không đúng chánh pháp là mình nối giáo cho ma vương nó sẽ diệt Phật giáo mất.
(01:36:13) Trưởng lão: Bây giờ nó có những cái mê tín, mà chúng ta biến dần những cái mê tín đó thành đạo đức.
Đó bây giờ Thầy nói như thế này nè, đạo Phật đã xác định là chúng ta không có linh hồn. Vậy cha mẹ chúng ta rước ông Thầy đến cầu siêu, nó không có linh hồn thì cầu cái gì siêu đây? Hay là cái hình thức làm?
Chúng ta biết đó là cái mê tín, chúng ta hiểu rồi, Phật đã nói thì chắc chắn là ông Phật không nói dối rồi, cho nên nó là cái xác thực. Nhưng mà chúng ta biến cái hành động mà cái khi mà cha mẹ chúng ta qua phần, mà làm ma chay, rước ông thầy đến tụng. Chúng ta biến nó trở thành một cái hình thức, một cái hình thức đạo đức không phải mê tín.
Chúng tôi rước ông thầy đến đây tụng niệm là chứng tỏ cái lòng biết ơn sự sanh thành cha mẹ của chúng tôi. Trong cái đám ma hôm nay, thì chúng tôi không biết gì hơn là lấy những cái lời Phật dạy tụng niệm. Mặc dù là ông cha tôi không có cái gì mà siêu sanh được hết, nhưng mà nói rõ được cái lòng hiếu hạnh của chúng tôi. Làm cái đám ma của cha mẹ tôi ấm cúng, qua những cái lời kinh tiếng Phật cho nó đậy ấm cái chỗ mà đau khổ của chúng tôi mất cha, mất mẹ.
Thì mình biến dần cái chỗ mê tín này, nó trở thành cái tình cảm, cái tình đạo đức, phải không? Cho nên cái đám ma của mình, mình có hiểu được cái nghĩa nó khác.
Còn mình hiểu cái nghĩa là tôi rước mấy ông thầy chùa, ông tụng đi, linh hồn cha mẹ tôi siêu sanh được Cực Lạc. Mà sự thật ra nếu mà có thật linh hồn siêu sanh Cực Lạc, thì thử ông Phật, ông dám rước cha mẹ mình lên đó không? Đâu có dám. Bởi vì cha mẹ mình còn tham, sân, si, lên trên chửi lộn nữa. Lúc bây giờ ông là Phật mà ông làm ông toà để ông xử đó, thì cái chuyện đó thôi ông không dám rồi, phải không? Chắc chắn là cõi Cực Lạc người ta đâu có dám rước những cái linh hồn mà còn tham, sân, si đâu. Còn quý vị mà thật sự hết tham, sân, si rồi mà bây giờ không cần ông Phật Di Đà rước, thì mình cũng lên cõi đó à, có phải vậy không?
Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu đúng cái nghĩa, đúng cái nghĩa của nó. Chúng ta biến từ cái chỗ mê tín đó đó, nó trở thành một cái đúng nghĩa của nó, là cái lòng hiếu của chúng ta đối với cha mẹ. Cho nên cái việc ma chay chúng ta đâu có bỏ, nhưng mà cái hiểu của chúng ta nó đúng chánh hay hoặc là tà, phải không?
(01:38:16) Nếu mà chúng ta hiểu linh hồn mà sanh Cực Lạc như ông thầy mà ông tụng: Hồi hướng lại cho đức Phật Di Đà phóng hào quang tiếp độ vong hồn mình siêu sanh Cực Lạc, thì cái điều đó điều sai. Điều đó ông thầy đó gạt mình đó, ông nói láo đó, nó không có đâu. Nếu mà có vậy thì chắc chắn là cha mẹ ông cũng siêu sanh Cực Lạc hết rồi. Bởi vì không lẽ ông không độ cha mẹ ông. Do đó thì đó là cái láo của ông, cái bài đó là cái bài gạt của ông.
Hầu hết những cái bài đó không phải Phật dạy đâu, mà các Thầy chế ra, luận ra, để làm cho thỏa mãn cái lòng mà tín ngưỡng của quý vị đó. Cho nên nghe được mà Phật Di Đà phóng hào quang tiếp độ vong hồn, cái ông tên gì đó được siêu sanh Cực Lạc đó thì mình mừng rồi. Như vậy là ông nói đôi ba lần như vậy là mình khoái lắm rồi, chắc chắn là sinh Cực Lạc, phải không? Nó làm cho cái nguồn an ủi nhưng mà nó mê tín. Trái lại mình biến cái chỗ đó nó trở thành, mình rước ông thầy, một ông thầy đến tụng, không cần nhiều ông.
Đừng có nghe là nhờ nhiều cái công đức tu hành của quý thầy, rồi sẽ độ cha mình thoát ra địa ngục đâu. Cái điều đó là mình cúng tiền cho ông, để như vậy là mình lo lót cho ông để cha mình thoát ra khỏi địa ngục. Thì cái kiểu như là Mục Liên Thanh Đề, Thầy nói là phi đạo đức rồi, Thầy không chấp nhận điều đó.
Cho nên do vì mà học đạo đức mà thấy đúng đạo đức, thì chúng ta sẽ phục vụ đúng đạo Phật, vì đạo Phật xây dựng mình trên cái nền đạo đức. Cho nên những cái điều mà các Phật tử mà làm đúng, những cái điều mê tín như ở đây mình muốn làm sao cho đừng sai lạc ở trong cái mê tín và lãng phí, thì mình làm đúng.
Thay vì mình rước năm, mười ông thầy tụng kinh, mình chỉ rước một ông thì tốn ít, phải không? Do đó mình rước một ông để nói lên cái tượng trưng cái lòng hiếu của mình. Mình rước nhiều ông đến đó tốn tiền nhiều là lãng phí, nó có siêu sanh được đâu mà rước nhiều. Cho nên một ông kể cũng là ấm cúng rồi, mượn cái câu kinh, tiếng kệ ông ta cũng làm ấm cúng.
(01:40:01) Những cái bài kinh mà giả dối, thì mình biết mình nói: "Thầy tụng thôi, đừng có đọc những cái điều này, nó thành ra thầy gạt chúng sanh được, chứ thầy gạt Phật không có được", phải không? Nếu mà có Phật thật thì gạt không được đâu.
Nói như ông nói, ông biểu là: "Đức Phật phóng quang mà tiếp độ đó". Thì Ông Phật, Ông nói: "Ta làm sao ta tiếp độ được". Mà khi đức Phật còn sống đức Phật nói: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi, Ta là người hướng đạo chỉ đường thôi, chứ Ta đi đâu có được". Vậy thì làm sao mà tiếp độ được, ông phải hiểu cho rõ như vậy đó.
Đó thì như vậy là muốn không sai lầm, lãng phí, mê tín, thì chúng ta biến cái mê tín đó nó trở thành cái thực lòng hiếu hạnh của chúng ta. Thì đó là cái đạo đức, và không lãng phí chúng ta không rước nhiều. Đừng có nghĩ rằng mình trai tăng đó, mời hai ba chục ông thầy ngồi lên cái làm, nào là bao thơ tiền. Rồi tứ sự, nào là vải, xà bông, rồi bột ngọt, bàn chải, kem đánh răng gì đủ thứ hết. Mỗi ông một gói gói vậy, trời ông nào cũng đi trai tăng.
Cho nên mấy ông thầy chùa nói sao quý vị biết không? Nói: "Chỉ cần tôi móc một cái là, tôi mới Sa Di tôi móc hai chục. Mà mới thọ Tỳ kheo thì tôi móc một cái là được năm chục. Mà mấy ông lớn Hòa thượng thì móc từ hai trăm, ba trăm".
Móc cái gì? Cái y mà móc như thầy, cái y của thầy Thông Vân nè, đó gọi là móc. Cho nên mấy ông nói với thầy: "Trời ơi tôi chỉ cần móc một cái là có hai chục liền, mà đó là chú Sa Di", có không?
Cho nên quý vị trai tăng là quý vị phải bỏ tiền bạc ra làm này kia, để cầu siêu cha mẹ mình chứ gì, phải không? Do đó mới hai hàng thầy trai tăng mới ngồi hai bên. Rồi các vị mà lớn, Hoà thượng, những vị mà gọi là Hòa thượng, Thượng tọa, ngồi trên cái bàn lớn này. Thì cái gói đồ, tiền bạc nhiều ở trong đó, thơ nhiều nữa, bởi vì người ta lớn, công đức người ta to. Cho nên mình nhờ cái công đức của người ta để mà giải thoát cho cha mẹ, linh hồn cha mẹ mình chứ gì.
Do đó trai tăng, tưởng như vậy, đó là những cái điều kiện quý vị mê tín mà sai lạc, phi đạo đức đó. Mà mấy ông thầy người ta được tiền, mà người ta còn nói: "Cái y người ta móc lên có hai chục, ba chục rồi", thật sự ra chuyện nghe đau lòng lắm.
(01:42:01) Cũng từ cái chỗ sai lầm đó mà người ta chỉ lấy cái y của người ta mà tượng trưng ra người ta nói: "Cần móc cái là hai chục". Nghĩa là Sa Di, chú móc cái là chú được hai chục rồi. Có làm cái gì đâu, ăn no mà lại còn có tiền bỏ túi xài nữa, sướng quá cho nên họ sắm xe dream chạy là phải. Mà cái người ngu là ai? Phải quý Phật tử không? Phải không?
Tại vì mình ngu người ta mới móc cái người ta lấy tiền liền. Quý vị phải biết rằng Thầy nói thật sự hoàn toàn họ dám nói lời nói đó. Còn y của Thầy có móc được không? Đâu có móc, móc ai được. Bởi vì giới luật dạy quý vị cúng dường tiền đâu có lấy, đâu có nhận. Bởi vì người tu sĩ mà đâu có cầm tiền, giữ tiền, phải không?
Bây giờ quý vị, Thầy đói, Thầy xin cơm ăn, mà Thầy no thì thôi, cho dư không lấy. Cái đó là cái hạnh của người tu người ta mà, khất thực mà. Đó, cho nên bây giờ trong cái giai đoạn mà tổ chức được cái đường lối mà đi xin ăn như vậy, không bao giờ mà dạy Phật tử mê tín làm những điều đó. Quý vị không có tốn tiền lãng phí, nó đi vào đúng cái chánh đạo.
Đó như vậy gọi là những cái điều mà chúng ta làm đúng, là điều kiện chúng ta nhờ những bậc chân tu, giới đức người ta dạy cho mình đúng cách cúng dường, bố thí. Làm được cái đó là cái phước rất lớn của mình, mình không hao phí trong bậy bạ, phải không?
(01:43:16) Trưởng Lão: Bây giờ Thầy trả lời rồi cái phần này, bây giờ tới cái phần này.
Trong cái sự mà ngồi thiền, mà nó khi mình nương hơi thở, mình thấy hơi thở ra, vô mình biết mà nó đổ mồ hôi, nó ra mồ hôi, thì cái đó nó không quan trọng. Bởi vì đó là một cái sự khi mình ngồi yên lặng, mà một lúc rồi bắt đầu nó xuất mồ hôi ra, nó không phải bệnh đâu. Mà nó coi như cái thân trược của mình nó tống những cái mồ hôi, nó ra những cái trược, gọi là bài tiết đó. Mà nhờ cái sức mình ngồi sau thời gian nó sẽ hết, thì cái thân nó sẽ nhẹ nhàng lắm. Cho nên mình mới ngồi thiền hay đổ mồ hôi, tức là nó bài tiết ra những cái uế trược ở trong thân của mình, cho nên cái đó là cái tốt.
Còn ngồi thiền mà đúng, sai thì mình nên đến một cái vị Thiện hữu tri thức, người ta biết cách người ta dạy cho mình ngồi. Rồi về cái định niệm hơi thở mà ra vô, người ta dạy mình đúng cách chứ không khéo mình thở sai nó cũng sai nữa. Cho nên muốn tu thì nói chung là mình phải gần Thiện hữu tri thức, cái người có kinh nghiệm rồi, người ta dạy về cách thức mình tu thiền định, nó tốt nhất.
Thí dụ như có cái duyên mà trong một tuần lễ thì coi như là mình, có dù mình có về nhà mình tu đi nữa, thì trong một tuần lễ mình đến, mình cũng phải gặp vị thầy đó một lần. Để trong cái khoảng thời gian một tuần lễ mình tu nó có nhiều lắm, chứ không phải ít đâu. Thì cho nên cái trạng thái mà nó xảy ra, thì cái gì thầy đó khi đến kiểm tra, họ nắm được cái trạng thái xảy ra của mình đúng hay không, rồi cách thức của mình hành. Nhiều khi mình hiểu, mà mình hiểu chưa có rõ hết đâu, cho nên mình hành cái sai, rồi cái vị thầy đó người ta sửa lại cho đúng.
Từ đó bởi vậy tu phải có Thiện hữu tri thức, tu hành thì có bạn để mình thấy người ta tu mà mình lười biếng thì nó sách tấn mình, mình ráng, mình không có lười biếng được. Còn có thầy thì cái sai thầy sửa liền, nó không mất thời gian, chứ không khéo mình tu sai rồi nó không có thầy, cái mình mất thời gian. Đó là những cái tu
(01:45:08) Cho nên ở đây cái phần mà quý Phật tử hỏi Thầy, đó là cái phần thật sự là quý vị có tâm tha thiết hướng về Chánh pháp, muốn làm sao làm tốt lại Phật pháp. Như vậy rõ ràng là nãy giờ quý vị được nghe Thầy nói và như vậy cố gắng ở Châu Đốc, chúng ta tạo được một cái địa điểm tốt, để cho quý vị sinh hoạt đúng cái Phật giáo.
Chứ bây giờ đến chùa, bây giờ là nói ở Châu Đốc này có một cái người muốn cúng dường cho Thầy một cái chùa, thí dụ như vậy đó, Thầy không dám lãnh. Bởi vì Thầy lãnh cái chùa đó, thì Thầy phải thực hiện theo các cái giáo pháp của cái chùa rồi, chứ còn không phải là cái giáo pháp của đạo Phật nữa.
Cho nên vì vậy Thầy chỉ muốn chúng ta cất những cái túp lều tranh vách lá, rồi chúng ta cư ngụ trong cái cảnh mà người ta nói: "Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo", chúng ta xả cái giàu sang của chúng ta ra. Thì bây giờ lãnh cái chùa, tức là cái chùa đó vỡ lở có hư thì Thầy cũng phải trùng tu lại chứ. Nếu mà Thầy lãnh cái chùa mà Thầy không trùng tu, họ nói: "Ông Thầy này bộ ăn hết của Phật tử, rồi không có lo cất cái chùa, bây giờ chùa sập. Để ở nhà tranh vách lá vậy coi sao được".
Thà bây giờ Thầy kiếm cái khu đất nào đó, Thầy cất nhà tranh vách lá, Thầy giữ cái hạnh tu, thì nó hơn là Thầy ở trong cái chùa sang. Bởi vì một người tu sĩ, người ta xả cái giàu sang mà người ta đi tìm vào cái nghèo, cái tri túc thiểu dục. Người ta nghèo đến nỗi mà người ta có ba y, một bát mà. Quý vị nghĩ coi người ta không có được cái ly uống nước như vậy nữa.
Cái bát là cái để mà đựng cơm ăn, cái bát để mà uống nước, phải không? Rồi cái bộ quần áo của người ta gọi là y trung, y thượng, y hạ, nó có một bộ đồ. Có một bộ đồ chứ đâu phải là nhiều bộ đồ đâu. Cho nên cái đời sống của tu sĩ- thiểu dục tri túc tối đa, không có nhiều.
Cho nên đối với cái bộ đồ này, thí dụ đây là một cái, cái y trung là cái áo của Thầy mặc, còn cái quần mà Thầy mặc ở dưới đây là cái y hạ và cái y thượng là cái nơi mà Thầy tràng, đó là cái y thượng. Cho nên có một bộ đồ, đi đâu cũng có một bộ đồ, cứ mang kè kè như vậy đó. Với cái bát để đựng đồ ăn, xin cơm ăn đó thôi, cho nên nó có bao nhiêu đó thôi, cái gia tài nó không có nhiều.
Nó có một cái y cũ, cái y này mà rách cũ, thì cái vị đó mới xếp nó lại, mới để trong cái bát. Khi đến cái khu vực đó đó, mới trải nó ra để nằm, hoặc là trải nó ra làm cái toạ cụ, người ta gọi là tọa cụ, hay là họa cụ. Hễ trải cái y nó cũ, nó rách, cho nên nó không còn giống vậy nữa, cho nên lấy mới xếp lại, mới để trong cái bát của mình, chứ không có được mà mang chiếu, mang mền theo đâu.
Cho nên mới trải ra, trải ra rồi để nằm ở trên đất, ở trên cỏ, nói chung là ở trên đất, chứ không được nằm ở trên cỏ xếp nữa. Do đó mới trải ra, hoặc ngồi thiền thì xếp vuông nó lại rồi mới ngồi thiền, làm cái tọa cụ, trải ra rồi làm cái tọa cụ để mà nằm. Nó không có giường chõng, không có mền. Lấy cái y thượng này trời lạnh thì đắp, mà trời nực thì chỉ còn cái mặc cái y trung, y hạ mà thôi.
Đó là cách thức sống của một đời sống thiểu dục tri túc của một bậc đức hạnh, phạm hạnh của một người tu sĩ. Bây giờ thì chúng ta không thấy người nào làm cái điều đó. Cho nên Thầy cố gắng, Thầy trùng hưng lại cái đời sống, thì do đó cái đời sống du tăng, họ sẽ không ở một nơi nào đó.
(01:48:08) Thí dụ như bây giờ thầy Thông Vân, thầy ở Châu Đốc. Nhưng mà thành lập cái khu vực ở đây rồi, thì ít hôm quý Phật tử sẽ không thấy thầy Thông Vân. Vì thầy đã đi ở cái điểm khác, thầy sẽ thực hiện những cái gương hạnh tu. Thì có một vài thầy, hay năm ba thầy, người ta sẽ đến cái tụ điểm này người ta ở. Người ta không nói cái gì hết, người ta đến đó, người ta làm những cái lợi ích thọ Bát Quan Trai.
Rồi có một người, người ta đại diện, người ta chỉ cho cách thức cho quý vị tu thiền định như thế nào, thế nào. Rồi quý vị trong cái thọ Bát Quan Trai trong ngày đó, quý vị sẽ giữ im lặng như thế nào mà hành thiền, rồi người ta theo dõi, cái vị tu sĩ đó người ta theo dõi.
Cũng như thầy Thông Vân, thầy ở đây thầy làm những cái hành động đó giúp cho quý Phật tử. Rồi quý Phật tử thực hiện như vậy để tập tu, để cho thực hiện được cái đạo đức giải thoát. Làm cho gia đình mình hạnh phúc, làm cho cái cuộc sống xung quanh mình mọi người đều được an vui, đó là cách thức người ta hướng dẫn.
Rồi cái số thầy này, người ta ở một thời gian một tháng, hai tháng người ta đi. Cho nên đối với Phật tử thường là các bậc tu sĩ đều là thầy mình hết, chứ không có một vị thầy nào cả. Nhiều khi cái vị thầy ở lâu quá nó có cái tình cảm giữa nhau, thầy trò nó có tình cảm. Cho nên do đó, mặc dù cái tình cảm thầy trò chứ không phải là tình yêu đâu, nhưng mà nó vẫn có cái tình cảm. Cho nên vì vậy vị thầy này ở thời gian đi, thì cái tình cảm đó coi như chúng ta ban rải cho tất cả các thầy, chứ không phải tập trung cho một ông thầy.
Đó là một cái sự tu của đạo Phật, đã thực hiện được cái điều đó. Và đồng thời chúng ta ở chỗ này, rồi dời chỗ khác, chúng ta cũng không bị dính mắc những ngôi nhà này nữa. Còn nếu không chúng ta ở một chỗ, chúng ta dính mắc từ cái cây, cái cỏ chúng ta ở, rồi nó quen thân rồi đi nó buồn. Cái tình cảm của chúng ta nó bị, đối với cái cây cỏ mà chúng ta còn buồn.
Cái con người mà, đâu có phải là cái gộc cây hay sao mà nó cứng đơ, cứng ngắc đâu quý vị. Còn Phật tử ra vô mà cúng dường cho quý thầy, thấy cái đạo đức của cái hạnh của quý thầy, người ta rất mến, người ta kính trọng cái đạo đức. Cái tình cảm của quý vị là còn cái tình cảm của con người mà, thấy cái vị thầy rất mến.
(01:50:02) Đây là Thầy nói không có đi xuyên qua cái tình yêu đâu, mà cái tình người. Thấy cái hạnh của vị thầy đó rất mến, cho nên nhiều khi thầy đi mình buồn, mình khóc. Cho nên vì vậy mà vị thầy đó không có ở lâu, ở đây mình đến với vị thầy khác. Cho nên cái tình của mình nó cũng không có phải là thấm thía như đến nỗi như vậy, nhưng mà mình rất thương các thầy, các thầy người nào cũng sống cái hạnh thiểu dục.
Cho nên Thầy, Thầy muốn tạo ra được những cái gương hạnh đó, để cho quý Phật tử kính trọng các vị Tăng như là kính trọng đức Phật vì cái hạnh đó, mà cái tình cảm mình nó không bị len lỏi vào. Vị thầy nào mình cũng mến trọng, vị thầy nào cũng như là đức Phật hết. Đó là cách thức mà Thầy cố gắng, Thầy sẽ làm.
Và cái điểm ở Châu Đốc này, Thầy ước ao là ngày mai có thầy Thông Vân là cái người ở đây, có anh em ở đây, thì ngày mai thầy Thông Vân là cái người có thể nỗ lực thực hiện được cái này. Thì cũng nhờ quý Phật tử ủng hộ giúp đỡ rất nhiều để được thực hiện. Mà cũng ủng hộ giúp đỡ cho thầy Thông Vân thì là tạo cái chỗ cho mình thọ Bát Quan Trai, mình thực hiện được cái đạo đức của đạo Phật.
Chứ bây giờ vô chùa họ mình thực hiện kiểu này, chắc họ đuổi mình chạy ra, bởi vì mình làm nó không có đúng với họ. Thay vì ông thầy đó ăn ba bữa, mình vô mình chơi mình ăn một bữa, cái chuyện đó chắc họ chướng mắt quá rồi, không có được. "Cư sĩ gì mà ăn một bữa, mà mình ăn mấy bữa, cư sĩ gì mà giới luật hiểu rành hết, còn mình tu sĩ nhiều khi hỏi giới luật không biết nữa".
Đó cho nên vì vậy đó là những cái nó nghịch với nhau. Cho nên mình đến chùa người ta mình sinh hoạt là đã làm người ta khổ thì cũng không nên. Cho nên mình phải tìm cái nơi mình sinh hoạt để cho đúng đường.
Mình tạo… Bởi vì bây giờ thay vì nó cũng phải có những cái nơi sẵn tổ chức, nơi nó đã sẵn có như từ lâu, thì quý Phật tử ra đời trong cái giai đoạn này nó đã sẵn, thì nó đi vào trong cái khuôn khổ nó dễ. Bây giờ nó chưa có, mà làm cho có thì quý Phật tử phải cực khổ. Nhưng mà nếu mình không xây dựng thì ai xây dựng cho mình? Cho nên mình phải nỗ lực mình làm mới có chứ.
Thật sự là quý thầy phải chuẩn bị, như thầy Thông Vân bây giờ thầy cũng phải chuẩn bị cho mình những cái đạo đức. Những cái gì mình chưa đủ, mình sẽ chuẩn bị mình cho đủ để mình làm cái gương hạnh, để cho Phật tử đến đó mà sinh hoạt đúng cái môi trường của Phật giáo. Do đó vì vậy cho nên chuẩn bị hết mọi mặt, rồi từ đó mà nó thành hình ra thì cái gương hạnh của thầy Thông Vân là cái nơi mà có thể nói là quý Phật tử sẽ nương tựa.
(01:52:23) Và đồng thời thì cái thời gian mà thầy Thông Vân sẽ thực hiện được, thì ở trên Tu Viện Thầy sẽ đưa những người có thể đến đây để tạm thời. Thời gian một tháng, hoặc hai tháng đến đây để mà thực hiện những cái gương hạnh, thì mới thấy được những cái oai nghi tế hạnh của những bậc tu chứ. Chứ không bây giờ mình đi tìm những cái bậc đó không ra, không thấy được. Mà bây giờ khi không người ta ở đâu, người ta mang gói xuống đây, người ta thực hiện được sao? Đâu phải chuyện dễ đâu, phải hiểu.
Cho nên phải có một cái sự tổ chức, phải có một cái sự làm đúng. Và đồng thời mình không cất chùa, cất chiền thì nhà nước người ta đâu có nghĩ mình cái gì đâu. Mình chỉ thực hiện những cái đạo đức, cái dưỡng sinh của mình để thực hiện được cái tốt thôi. Còn bây giờ mình cất chùa, cất này kia, mình thờ Phật đồ đó là sai. Ông Phật hồi trước ông thờ ai bây giờ? Ổng đi, Ông có mang ông Phật Thích Ca theo không? Các con nghĩ.
Cho nên hồi đó mình thấy ổng cất cái chòi ở trong đó không có thờ ông Phật. Còn mình bây giờ vừa cất cái nhà cái đem ông Phật tưởng lên. Chính hằng ngày mình thực hiện được cái đạo đức, đó là đức Phật Thích Ca đã thể hiện. Cho nên đức Phật nói: "Ở đâu mà có giới luật thì đức Phật Thích Ca ở đó", đó là ông Phật, Ông nói mà.
Có một vị Tỳ kheo nói: "Con xa đức Phật quá, con nhớ đức Phật".
Thì đức Phật nói: "Nếu mà thầy thực hiện giới luật, thì ngay đó là đức Phật ở bên ngay bên rồi thì thầy còn nói gì mà xa Phật".
Mà mình thực hiện cái đạo đức đó là mình thực hiện được cái hình ảnh, cái hành động của đức Phật ở tại đó rồi. Chính thân mình là thực hiện được hành động Phật, thì Phật ở tại đó chứ đâu phải, cho nên đâu cần phải tượng trưng cái hình Phật đâu. Chỉ sợ mình ăn phi thời ngày ba bữa mà thấy ông Phật, thì ông Phật, Ông khóc ròng à, phải không, quý Phật tử thấy không?
Nếu mà mình là đệ tử của Phật, như vị Tỳ kheo như Thầy mà ăn ba bữa mà gặp đức Phật, đức Phật, Ông khóc liền, Ông nói: “Ngày xưa thì đức Phật dạy thừa tự pháp chứ không phải thừa tự thực phẩm. Thế mà con bây giờ, các thầy Tỳ kheo bây giờ thừa tự thực phẩm mà xa lìa pháp, thì đâu phải là đệ tử của ta nữa".
(01:54:17) Cho nên đức Phật mà gặp mấy thầy mà ăn ba bữa thì đức Phật khóc. Không phải đệ tử của mình mà để bây giờ mà nhận đệ tử của mình, mà bảo nhận được, làm sao nhận được, cho nên đức Phật phải khóc chứ làm sao. Thấy đệ tử của mình bây giờ nó sai trái quá rồi mà làm sao mà không đau lòng được.
Cũng như Thầy dạy năm, người người đệ tử, mà nó không nghe lời Thầy, Thầy đau lòng lắm chứ. Cái trách nhiệm của mình dẫn dắt nó đi đến nơi, đến chốn, mà nó không nghe thì làm sao dẫn dắt nó được. Thì cái trách nhiệm của mình như thế nào, phải khổ đau chứ, coi vậy chứ buồn lòng lắm chứ, thì Thầy nói như vậy là các con hiểu.
Do đó Thầy mong muốn ở Châu Đốc cũng có một cái nơi mà để cho Phật tử sinh hoạt đạo đức. Chúng ta tập đạo đức, đừng nghĩ rằng thiền định gì cả, mà phải xây dựng mình trên một cái nền đạo đức của đạo Phật, cái đạo đức nhân quả không làm khổ mình. Nam cũng vậy mà nữ cũng vậy, chúng ta thiếu đạo đức thì chúng ta tự làm khổ mình mà làm khổ người khác. Nói chung những người thân của mình, mình thiếu đạo đức là mình đã làm khổ những người thân mình trước tiên.
Đó thì hôm nay Thầy nói, bây giờ còn hỏi Thầy thêm gì nữa không? Thầy sẵn sàng để rồi mai mốt Thầy về rồi không có hỏi Thầy được.
Phật tử: Quý chú, quý cô muốn hỏi gì thì cứ mạnh dạn…
Bởi vì Thầy biết rằng các con có nhiều công việc làm. Đến như thế này, thay vì bây giờ giờ này nằm nghỉ, hay hoặc là nghỉ ngơi, mà được đến đây mà nghe là cũng phải là dành hết cái sức của mình ra, chứ không phải là đơn giản.
Thầy biết cái lòng các con tha thiết mới đến đây, chứ còn nếu không tha thiết thì không đến đâu. Do đó tha thiết như vậy mà rồi đây cũng đâu có phải là gặp Thầy được thường xuyên sao? Như Thầy ở đây thì các con: "Bây giờ ngày hôm nay mình rảnh, mình về mình thăm Thầy, mình hỏi Thầy thế này, thế khác". Nhưng mà Thầy ở xa, mấy con muốn đi gặp Thầy, một lần về Tây Ninh đâu phải chuyện dễ đâu, phải không?
(01:56:04) Cho nên hôm nay thì nghe Thầy nói thì nó, Thầy biết rằng các con cũng chưa có chuẩn bị mình để hỏi Thầy cái gì, để chỉ nghe thôi. Cho nên bây giờ muốn hỏi thì cũng chưa có biết hỏi làm sao hết. Nhưng mà một ngày nào đó mà có những câu hỏi, thì các con sẽ hỏi địa chỉ của Thầy gửi, Thầy sẵn sàng trả lời các con.
Phật tử ở miền Bắc, người ta xa xôi hơn ở Châu Đốc rất nhiều, thế mà thường xuyên người ta hỏi Thầy về đạo đức, về những cái gì người ta gửi thơ. Coi như là Thầy đi đây là Thầy nhân ra bao nhiêu thơ của phật tử gửi Thầy, về để trả lời những cái đạo đức cho họ thực hiện cuộc sống. Vì Thầy đã dạy họ, họ thực hiện họ thấy những kết quả đối xử trong gia đình họ rất thích, từ đó họ hỏi để đi sâu vào những cái đạo đức đó.
Cho nên đối với Thầy khi mà ra miền Bắc, Thầy đã đem tới cái đạo đức nhân quả, Thầy đã hướng dẫn họ. Họ đã thực hiện được những cái đạo đức rồi họ về, Thầy về rồi bắt đầu họ hỏi những cái chi tiết để mà thực hiện những cái đạo đức nhân quả. Chừng đó Thầy viết từng cái bức thơ, Thầy gửi đến cho những người Phật tử, coi như những đứa con của mình đang khổ đau, đang thiếu đạo đức, mình phải dạy nó từng cái đạo đức. Mình đem lại một cái tình của một người cha, một người thầy, để giúp cho nó được cái đời sống giải thoát. (01:57:12)
HẾT BĂNG
KẾT THÚC