00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

1998-GIỚI LUẬT 2-Ý THỨC-TÂM LINH

GIỚI LUẬT 2

Ý THỨC VÀ TÂM LINH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Thời gian: 1998

Thời lượng: [1:38:52]

1- LỜI NÓI ĐẦU ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 5

(0:03) Trưởng lão: Hôm nay thì tiếp tục cái buổi kiểm tra về cái phần mấy con, trả lời cho cô Diệu Thành và cô Cảnh cô có hỏi một số câu hỏi. Trước khi trả lời, Thầy sẽ kiểm tra, thì Thầy sẽ đọc lại cái lời nói đầu trong cái tập Đường về xứ Phật - tập năm. Thầy soạn và đã viết ra cái lời nói đầu của cuốn sách. Bắt đầu cái lời nói đầu.

“Từ nay về sau trong cái phần vấn đạo để trả lời mọi câu hỏi, chúng tôi sẽ giải đáp một bài pháp chỉ thẳng những pháp nào của đạo Phật và những pháp nào không phải của đạo Phật. Bằng cách chứng minh cụ thể, xác thực qua những bài kinh Nguyên Thủy của đạo Phật để quý vị tránh khỏi bị tà giáo ngoại đạo mạo danh Phật giáo.

Ngoài đời, trên thương trường, có biết bao nhiêu mặt hàng giả, mạo danh bằng bao bì, nhãn hiệu nhưng bên trong toàn là đồ dỏm. Trong tôn giáo cũng thế, chắc chắn phải có pháp môn giả. Tại sao chúng ta biết như vậy? Vì trải qua nhiều thời gian năm tháng. Trước kia, chúng ta chỉ nghe các bậc Tôn túc thuật lại sự tu chứng đắc của các Tổ, mà không trực tiếp thấy. Còn hiện giờ, chúng ta thấy biết rất rõ. Với thời gian hơn thế kỷ nay, thầy tổ chúng ta từ người này đến người khác qua đời, viên tịch, không để lại cho chúng ta một niềm tin sâu trước Phật pháp. Khi còn sống, các Ngài thuyết pháp rất hay: Nào là các pháp như mộng, như huyễn; Nào là sáu trần như hoa đốm giữa hư không; Nào là chết biết ngày, biết giờ, biết khắc, biết được tánh linh; Nào là làm chủ sự sống chết. Nhưng đến giờ phút cuối cùng chúng ta chỉ thấy một hình ảnh đau thương, nằm trên giường bệnh, mệt nhọc, khổ sở, đau đớn, trăn trở và có lúc lại mê man chẳng biết gì cả trước khi viên tịch. Thầy Tổ chúng ta, họ đều là những bậc chơn tu, tinh cần, siêng năng, thức khuya dậy sớm, xâu chuỗi không rời tay, lúc nào cũng thấy ngồi thiền, niệm Phật, công phu, bái sám. Không thời nào không có mặt. Trừ khi làm Phật sự và bệnh đau.

(02:56) Từ lúc bé, tám tuổi chúng tôi được vào chùa tu học với các thầy tổ. Đến ở chùa nào cũng mang dòng phái Thiền tông Lâm tế, Tào động, Liễu quán, Thái thượng.v.v. Nhưng không thấy thầy Tổ tu thiền mà lại thấy tu Tịnh độ. Sau những năm tháng theo thầy tu học, lòng tin tưởng pháp môn Tịnh độ, noi theo gương hạnh của thầy tu tập nuôi hy vọng niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương. Bỗng dưng làn gió Thiền tông thổi đến, kinh sách thiền rộ nở như hoa mùa xuân. Nào là Pháp Bảo Đàn kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Kim Cang kinh. Nào là nguồn thiền luận Tối Thượng Thừa. Sáu cửa vào động thiếu thất thiền ngữ.v.v.

Càng đọc những kinh sách này chúng tôi càng say mê và tưởng mình như được của báu. Chúng tôi được theo tu học thiền lớp học đầu tiên tại Tu viện Chơn Không, do Hòa thượng Thích Thanh Từ đảm trách. Sau ba tháng an cư tu học ở đó, chúng tôi liền rời khỏi Tu viện về và về Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh nhập thất tu tập suốt chín năm trời, chuyên cần tu tập pháp môn Tri vọng. Thấy các pháp như mộng, như huyễn. Thấy lục trần như hoa đốm giữa hư không. Gần chín năm mài miệt tu hành, chúng tôi ngộ tất cả công án Thiền tông. Ngồi thiền không vọng tưởng; Trạng thái tâm hồn yên lặng như hòa mình trong vũ trụ. Lúc bây giờ chúng tôi tỉnh thức rất rõ. Nhưng xét lại không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tâm mình cũng vẫn còn phiền não, tham, sân, si. Biết rằng gặp những việc bất toại nguyện thì thấy các pháp như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa hư không. Dù biết vậy nhưng tâm vẫn còn phiền não, chưa thật sạch, phải đợi có thời gian. Đối với các pháp Đại thừa. Từ Tịnh độ, Mật tông đến Thiền tông. Sự tu tập đối với chúng tôi gần như mất hy vọng. Vì chính Ông thân của chúng tôi là một tu sĩ Mật tông. Chú thực của ông có nhiều thần lực lạ kỳ, nhưng lại để trị bệnh, bói toán như một phù thủy. Bùa chú tuy linh hiển nhưng tôi không thấy nó làm chủ sự sống chết, tự tại, an vui trong cuộc sống. Mà chỉ làm chuyện lợi danh như các nghề khác trong thế gian. Tôi tư duy suy nghĩ và khắc khoải, trong lòng nghĩ đến mình tu hành đến giờ này đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Nếu bây giờ tôi trở ra đời thì quá muộn màng. Tuổi đã bốn mươi bốn rồi còn gì nữa? Ở trong đạo thì biết pháp nào tu cho đến nơi đến chốn?

(06:06) “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm! Độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Những điều kinh sách đã dạy tôi điều siêng năng, tinh cần, tinh tấn tu hành không dám biếng trễ. Thế mà xét lại tâm mình chưa được làm chủ. Cuộc sống còn nhiều bất toại nguyện. Tâm vẫn còn tham muốn: danh lợi, ăn ngủ còn thích, thấy nữ sắt còn muốn nhìn. Gần suốt chín năm trời sự tu hành dường như tránh né các pháp thế gian. Chẳng niệm thiện, niệm ác, thấy các pháp như mộng như huyễn, thấy sáu trần như hoa đốm giữa hư không. Chúng tôi đã thực hiện những câu này đã nằm lòng. Hễ có các pháp đến thì những câu này xuất hiện nhanh chóng đuổi chúng đi, một lúc nó tan biến. Đuổi mãi chúng thời gian gần chín năm mà tâm chúng tôi vẫn chưa an, cảm thấy như tôi là kẻ trốn chạy các pháp, tránh né sáu trần. Và cuối cùng, xét lại các pháp này tu không thể giải thoát được. Không biết giờ này các bạn đồng tu của tôi tu hành ra sao?

Riêng tôi lúc này năm 1980, tôi rất ngao ngán với số phận làm thầy tu. Một hình ảnh đen tối đến với tôi: Tôi tự nghĩ hay mình tìm nơi đâu trong rừng hoang vắng rồi tự tử cho xong đời, kiếp đời tu sĩ. Nhưng một hình ảnh hiện lên trong tôi một người mẹ già yếu đuối, lưng còm, hằng ngày nấu cơm bưng vào thất giúp tôi sống tu hành. Nhờ hình ảnh ấy, nếu không có mẹ tôi, chắc tôi không thể sống vì con đường giải thoát của đạo Phật đã trở thành mây khói. Trong lúc tâm hồn tôi chán nản, trước mặt là bước đường cùng. Bỗng nhiên tôi nhớ đến…​

(08:00) Càng nhìn chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà-la-môn đã dùng danh từ Tiểu thừa để gán vào những lời dạy thực sự Nguyên Thủy của đức Phật, và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng nhìn càng thấy rõ dụng tâm hiểm…​

Mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Nhớ đến đây tôi vô tình nhìn được kinh Nguyên Thủy Pali được dấu kín để trên tủ sách.

Bắt đầu tôi nghiên cứu lại bộ kinh sách này. Sống và tu tập đúng theo lời dạy của đức Phật: Giới, Định, Tuệ. Theo lộ trình Tam vô lậu học; Sống đúng giới hạnh; Lấy giới luật phòng hộ sáu căn; Đời sống thiểu dục ít muốn biết đủ; Luôn theo pháp Định Tư Cụ ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Nhờ đó kết quả tâm hồn thanh thản, an lạc. Tâm thường quay vô, không phóng dật, biết rõ những hoạt động trong nội thân tâm. Luôn không để ý sáu trần, nên thấy rõ thân tâm có một sự sống giải thoát an lạc, vô sự. Càng giữ gìn giới luật, càng tu tập Tứ chánh cần. Thì kết quả thân tâm giải thoát rất rõ ràng và cụ thể. Càng tu lại càng ham thích. Tự tâm siêng năng và tinh tấn không cần cố gắng. Nhờ sự nghiên cứu và tu tập này tôi rất am tường thông hiểu kinh sách Nguyên Thủy và có kinh nghiệm.

(09:48) Vì vừa nghiên cứu lý thuyết vừa thực hành lời dạy của đức Phật nên từng bài kinh, từng câu, từng chữ trong tạng kinh Pali này. Cho dù phần kinh sách Đại thừa và Thiền đông độ tôi đã bỏ công tu tập chín năm trời, nên những trạng thái ức chế tâm, tu tập các pháp hành của Thiền đông độ và Đại thừa tôi đều biết rất rõ. Vì vậy khi được hỏi điều gì đến những trạng thái định có liên quan đến Phật giáo dù ở bộ kinh nào Đại thừa, Thiền tông và Nguyên Thủy, tùy cơ đối đáp để làm sáng tỏ lại Phật giáo. Còn nếu không có ai hỏi thì thôi đối với tôi ai tu sao cũng được. Có giải thoát hay không giải thoát là quý vị được nhờ và chịu lấy. Chuyện Phật pháp không phải chuyện riêng của tôi mà của chung của mọi người. Tôi trả lời đây vì duyên của quý vị hỏi chớ không phải tự tôi đặt ra câu hỏi để trả lời nhằm có mục đích chống báng ngoại đạo Đại thừa và Thiền tông. Mặc dù tôi biết Đại thừa đã truyền vào đất nước Việt Nam đầu thế kỷ thứ III cuối thế kỷ thứ II và Thiền tông thì vào thế kỷ thứ V thành một truyền thống dân tộc của đất nước này, muốn xóa nó không phải là một chuyện dễ làm. Nhưng tôi nghĩ đến số phận những người tu như tôi nên tôi nói. Ai có tin thì tin không tin thì thôi. Tu hành có được thì quý vị nhờ, không được thì quý vị chịu. Giải thoát của quý vị đâu có liên quan gì đến tôi. Câu trả lời vì sự bắt buộc ở câu hỏi của quý vị, nếu không trả lời tôi phụ lòng quý vị. Mà trả lời cho quý vị thì phải nói thẳng nói đúng nói cái sai không đúng của đạo Phật; Nói cái sai tu hành sanh bệnh tật điên khùng; Nói cái sai để quý vị không bị lừa đảo bởi những pháp môn mê tín, phi đạo đức, lừa gạt để làm tiền, làm danh, xưng danh tôn giáo. Do nói cái sai để quý vị không uổng phí một đời tu hành, thì quý vị lại cho rằng tôi bài bác các Tổ, tôi chống, trái kinh sách Đại thừa. Thưa quý vị, tôi chống, trái để làm gì? Khi tôi cũng là một nạn nhân của các pháp môn này! Tôi nói ra vì quý vị, quý vị có hiểu chăng?

(12:27) Tôi là chiếc xe đã lọt hố, muốn cho các xe sau đừng lọt hố nữa, nên cảm thông những câu hỏi của quý vị mà tôi trả lời. Biết như thế nào tôi nói như thế nấy. Đúng sai quý vị còn suy nghĩ. Khi tôi trả lời chỉ mong quý vị suy ngẫm kỹ lời tôi nói và lời kinh Nguyên Thủy dạy. Có tương ưng, có phù hợp, có đúng nghĩa hay không. Đúng thì quý vị tin tôi, bằng không đúng thì quý vị đừng tin và cũng đừng cười chê vì tôi cũng chỉ là con người như quý vị.

Tôi cũng là một trong người phàm phu như quý vị. Nhờ sống đúng giới hạnh và giới đức tu tập đúng các pháp Phật đã dạy. Từ đó tôi sống đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Hằng tu tập tỉnh thức trong mọi oai nghi, tế hạnh. Cả niệm hơi thở tôi điều hướng tâm ly tham, sân, si và ái dục. Nhờ thế tôi thấy được tâm mình giải thoát. Đó cũng là mãn nguyện lắm rồi. Vì đã không làm khổ mình, khổ người tôi thấy rất rõ là tâm tôi đã ly dục, ly ác pháp. Ly dục, ly ác pháp tức là tôi đã làm chủ được sự sống của tôi. Làm chủ cuộc sống tức là làm chủ được sanh như trong kinh Phật đã dạy: “sanh là một trong bốn cái khổ của kiếp người”. Tôi trở về với pháp môn Nguyên Thủy tu tập chỉ trong vòng sáu tháng làm chủ được tâm không còn thấy các pháp như mộng, như huyễn sáu trần như hoa đốm giữa hư không.

Nhờ tu tập có kinh nghiệm và nghiên cứu toàn bộ kinh Nguyên Thủy nên lập trường trả lời của chúng tôi đều dựa vào đó. Dựng lại Phật giáo trong lúc giáo pháp của Phật bị dìm mất ít có người biết đến. Vì vậy, chúng tôi trả lời quý vị không ngoài lời Phật dạy, tin hay không tin đó là quyền của quý vị. Tôi thì nói thẳng nói thật mà thôi, chớ không có tâm phỉ báng ai hết. Xin thưa quý vị, chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng. Nhưng vì bị hỏi chúng tôi phải nói toạc móng heo để cho một số người không bị tà giáo, ngoại đạo lừa đảo và những người đang tu hành không lầm lạc pháp môn của ngoại đạo tu dở chết dở sống, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo giống như tôi tu hành lúc năm 1980. Tôi cảm thông với những người tu sĩ ấy có nhiệt tâm quyết tìm đường giải thoát trong đạo Phật. Chúng tôi chỉ ước mong những câu trả lời của chúng tôi sẽ làm sáng tỏ những gì của đạo Phật, đang bị che mờ bởi giáo pháp của Bà-la-môn.

(15:31) Với thanh ý của chúng tôi không muốn chống trái ai hết, ai có duyên tu pháp nào cũng được. Nhưng có tu được giải thoát thì dạy người, bằng tu chưa có kết quả thì đừng dùng lý thuyết suông lừa đảo, gạt người gây mê tín dị đoan, khiến cho mọi người khổ sở phí hết kiếp người. Và cũng đừng vì quyền, lợi ích nhỏ mọn mà gán cho các pháp môn đó là của Phật giáo thì tôi rất đau lòng. Vì Phật giáo không có các pháp môn tưởng đó, mê tín, trừu tượng, mơ hồ. Buộc lòng chúng tôi phải nói thẳng để cho người đời sau đừng lầm lạc đáng thương. Chúng tôi tu hành theo Phật giáo đã bị lầm lạc pháp môn của ngoại đạo nhiều khi chúng tôi muốn chết hơn là sống. Vì sống làm gì đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Sống bằng ba tất lưỡi gạt người bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình, vợ con. bỏ cả thân bằng quyến thuộc. Bỏ cả của cải, tài sản, sự nghiệp, nhà cửa để đi tu mong tìm đường giải thoát thân tâm mình. Chớ đâu phải để thành tên lừa đảo có sách vở.

Vì cảm thông nỗi khổ đau của những người đồng bệnh nên tôi nói thẳng chẳng hề sợ hãi trước thế lực quyền uy của kẻ khác. Dù tôi có ra sao và như thế nào tôi cũng vui mừng vì đã nói một sự thật có lợi ích cho muôn người, không phải vì cá nhân của mình. Tôi trả lời thẳng vì tín đồ Phật giáo khắp năm châu, bốn biển đang hướng về Phật giáo chơn chánh. Tôi trả lời thẳng vì đạo đức của đạo Phật đã bị đánh mất bởi giáo pháp của ngoại đạo, Đại thừa. Thay vào một đạo đức mê tín làm cho nhân loại mất đi một nền đạo đức sống thực. Một nguồn hạnh phúc an vui của mọi người. Tôi trả lời thẳng chỉ vì con người trên hành tinh này đang cần một nền đạo đức nhân bản, không làm khổ mình khổ người.

Trên cuộc đời này duy chỉ đạo Phật mới có nên đạo đức công lý và công bằng mà thôi. Tôi nói thẳng vì lợi ích chung cho con người trên hành tinh này dù ai có nghĩ sao về tôi, cho tôi là điên khùng, dốt nát, không thông suốt kinh sách Phật giáo. Không hiểu giới luật Phật là gì, nói bậy bạ không trúng vào đâu. Tôi vui lòng chấp nhận cả. Nhưng xin mọi người hãy theo đúng giáo pháp Nguyên Thủy của đức Phật mà tu tập và sửa những gì sai để xây dựng cho mình một tâm hồn thấm nhuần nhân quả của đạo Phật, không làm khổ mình khổ người, thì tôi đã mãn nguyện lắm rồi. Trải qua thời gian tu tập tôi biết rất rõ con đường nào tu tập đi đến kết quả làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật. Con đường ấy không phải để cho những người tu hành phạm giới, bẻ vụn giới, phá giới như các vị Tỳ kheo của Phật giáo Đại thừa, Thiền đông độ và Phật giáo Nam tông. Phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới sống không đúng giới đức giới hạnh đời sống không thiểu dục tri túc, không lấy giới bổn phòng hộ sáu căn. Ăn uống ngủ nghỉ phi thời, không sống độc cư. Dù họ có tu trăm ngàn kiếp vẫn không đến đâu. Chỉ uổng cho một đời tu mà thôi!

(19:08) Trả lời những câu hỏi của quý vị, nói thẳng sẽ đụng chạm rất nhiều. Mong quý vị vui lòng tha thứ cho và quý vị hãy suy ngẫm những lời chúng tôi nói nếu sai xin quý vị bỏ qua cho, còn đúng xin cầu chúc quý vị may mắn gặp Thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn tu tập đến nơi đến chốn. Tu hành giải thoát làm chủ thân tâm không phải việc dễ làm. Nếu tu tập một mình giống như người đi biển không có la bàn, vào rừng không có người hướng đạo. Nếu chúng tôi có trả lời điều chi sai sót xin các bậc Cao minh, Chơn tu, Thạc đức chỉ giáo chúng tôi thành kính tri ân. Kính ghi! ”

(19:52) Trên đây là cái lời tựa của cái tập năm của Đường về xứ Phật, Thầy đã ghi và đã đánh vi tính trong file. Rồi sau sẽ thu nhỏ lại thành trang sách. Đây là cái phần hôm nay Thầy nói để cho các con biết rằng trong cái cuộc đời tu tập của Thầy rất là vất vả, vì pháp môn không nắm vững. Còn hôm nay, có Thầy dạy, có kinh nghiệm của Thầy, cái gì sai có Thầy sửa, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, các con không giữ đúng. Nhất là Thầy đã từng tuyên bố với các con bí quyết thành công của thiền định là độc cư. Các con không có giữ được trọn vẹn cho nên trên cái con đường tu hành còn bấp bênh, còn xa. Cuối cùng chỉ còn một mình Thầy.

Thậm chí như các con nhớ rằng năm 1991, cái hạ năm đó xong Thầy vào thất. Lúc bây giờ đó thì số người đã tu thì quyết định là khép chặt giới luật không có cho sống ba bữa, một ngày một bữa và độc cư. Thì chỉ chọn lại một số rất ít, bao nhiêu điều rút lui hết. Do đó trong những ngày đó thì Thầy cố gắng Thầy hướng dẫn cho Mật Hạnh tu trọn vẹn trong suốt ba năm mà Thầy nhập thất. Cái kết quả rất tốt là vì giữ gìn cái độc cư trọn vẹn như vậy, cho nên tâm quay vào, không cần phải ngồi thiền nhập định nhiều, không cần phải nhiếp hơi thở cho hết vọng tưởng. Mà tới chừng tâm quay vào thì nó không còn có vọng tưởng.

Đó là cái kết quả thật sự mà Thầy đã biết được con đường đi theo kinh Nguyên Thủy trong sáu tháng cuối cùng của năm 90 thì Thầy đã thấy kết quả như vậy. Và Thầy cố gắng chỉ tập trung hướng dẫn cho mình Mật Hạnh. Thì cuối cùng thì Mật Hạnh cũng đạt được cái kết quả như vậy và rất tốt. Đầu tiên thì khắc phục cho nó phá được hôn trầm. Sống độc cư phá hôn trầm. Phá hôn trầm thì Thầy bắt nó ngồi với Thầy rồi Thầy điều khiển cho nó suốt đêm để cho nó phá cho được cái hôn trầm. Từ đó giờ giấc nghiêm chỉnh, giờ nào ra giờ nấy không có bê trễ nữa. Rồi bắt buộc sống độc cư không được tiếp duyên. Cho nên tâm tuôn trào, từ tuôn trào chuyện này đến chuyện khác cuối cùng thì không còn tuôn trào nữa. Cho nên tâm quay vào không phóng dật ra ngoài. Do đó lúc bây giờ nó thấy thiền định rất tốt.

Thì các con thấy rằng cái kinh nghiệm tu hành của Thầy và cố gắng hướng dẫn cho Mật Hạnh. Mật Hạnh là một cái người u tối nhất, khó khăn nhất không có như cái người khác có học thức giỏi, hiểu biết nhiều nó chỉ dốt nát như ông Bàn Đặc. Do đó, chỉ có sự cố gắng sống cho đúng thật đúng là có kết quả. Mà chẳng có một cái bệnh đau nào mà xảy ra cho nó hết chỉ có một cái bệnh tưởng của nó mà thôi. Nhưng vì nó không nghe lời Thầy cho nên nó phá độc cư mà đi ra, cho nên vì vậy mà cái thời gian nó còn kéo dài, còn nếu mà nó đừng phá độc cư, đừng có sợ hãi của cái bệnh tưởng chắc chắn nó đã thành tựu lâu lắm rồi. Nghĩa là làm chủ được sự sống chết lâu lắm rồi, chớ không phải mới bây giờ.

Thì hôm nay thì các con thấy trên cái bước đường tu tập, cái gì mà Thầy dạy các con giữ đúng đó, các con nhanh; các con giữ không đúng, các con lâu. Chẳng hạn Thầy bảo các con, như tai sao Cô Út không có dạy các con ngồi, nhưng mà Thầy thì Thầy tùy thuận ở các con nhiều hơn. Không nên gán ép người khác, từ từ bẻ dần. Cô Út thì đập phá để cho xả tâm được mà thôi. Riêng Thầy thì nhẹ nhàng an ủi. Sợ e đập phá mạnh thì làm cho các con rối tâm không có tu tập được. Giúp cho các con được vui vẻ theo cái ý muốn của mình. Lần lượt rồi bẻ dần lái dần. Cho đến khi mà các con đi vào cái quỹ đạo của (không nghe rõ).

Cũng như các con biết như Minh Tông theo Thầy tu học nay là bốn năm rồi. Cũng như các con đã theo Thầy, thì bên nữ các con đã theo Thầy kể như là ai cũng là bốn năm rồi. Nhưng mà tại sao các con không có kết quả được? Thì bằng chứng là các con thiếu độc cư. Nhưng mà tại sao Minh Tông lại có độc cư mà không có kết quả? Độc cư chưa trọn vẹn đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai đó thì nó có độc cư hơn các người khác, nhưng vì nó đã tu từ Tịnh Độ rồi đến Mật Tông rồi sau khi Thiền tông đến hơi thở Thầy dạy thì nó có sức ức chế tâm rất là vĩ đại.

Hít thở nương vào hơi thở hay hoặc niệm Phật từ một ngàn hai ngàn câu cho đến một ngàn hai ngàn hơi thở không có một niệm vọng tưởng xen vào. Khi mà sổ tức như vậy thì các con biết ức chế tâm đến cái mức. Và cái sự gom tâm của nó thì các con không có thể nào lường được cái sự gom tâm. Nhưng mà cuối cùng thì các con biết tại sao không kết quả không? Tại vì cái tâm không xả! Cho nên đến gần bước vào Tứ Thiền thì đứng lại. Bởi vì đi tới nữa để mà để mà dừng hơi thở mà dùng pháp hướng đó thì nó sẽ dừng hơi thở mà trong cái pháp hướng để điều khiển thì nhắc nó để mà dừng hơi thở đó thì cái cơ thể sẽ bị bệnh tật liền tức khắc.

Cho nên nó có bị thời gian bị ra máu, bị ra máu là do bị ức chế hơi thở. Do tâm và cũng là do cơ ức chế gần như là nín coi như là nín thở đó, không thở đó thì tai hại rất lớn. Mà may là phát giác kịp chứ không khéo thì sẽ thành bệnh rất nặng, không thể lường được. Mà Thầy gọi là Thọ hành hay là Hành thọ. Nghĩa là mình tu hành mình tạo ra cái thọ đó chớ không phải là từ cái thân mình có cái bệnh đó. Gọi là Hành thọ. Do cái Hành thọ một phần đó thì nếu mà cái người mà không có dụng cơ mà ức chế đó, mà cái Hành thọ xảy ra thì đó là Tưởng thọ.

Còn cái người do các cơ mà ức chế, cũng như bây giờ nói Tịnh Chỉ Hơi Thở thì các con lại hiểu lầm, hiểu lầm cái danh từ Tịnh Chỉ như Thầy đã nhắc Tịnh Chỉ là nó Thanh tịnh cái hơi thở rồi từng tự nó chỉ nó ngưng. Chớ không phải chúng ta ức chế nó tập thở chậm nhẹ chậm nhẹ lần lần rồi ngưng hơi thở tự mình nín hơi thở lại. Thì cái đó là cái sai nó không phải Tịnh Chỉ mà nó là Đình chỉ hơi thở. Thì cái đó là cái sai của các con tu tập.

(27:05) Cho nên chúng ta muốn mau mà thành chậm. Chúng ta phải biết là cái tâm thanh tịnh là cái tâm không tham, sân, si. Thì nó là tịnh. Mà khi tịnh thì nó mới chỉ được hơi thở. Nó mới ngưng được hơi thở. Tức là cái hơi thở nó phải theo cái thân thanh tịnh mà nó mới thanh tịnh được cái hơi thở. Nó thanh tịnh được cái hơi thở thì nó mới chỉ được cái hơi thở. Còn nếu không thanh tịnh thì không chỉ được hơi thở. Cho nên không thể nào mà nhập vào Tứ thiền.

Cho nên Minh Tông hỏi Thầy như trong kinh Phật dạy đó thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh nhập Tứ thiền chứ Phật đâu có dạy Tịnh Chỉ Hơi Thở mà nhập Tứ thiền. Đó thì rõ ràng là trong những cái bài kinh phần nhiều thì Phật nói xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh nhập Tứ thiền. Nhưng các con nên nhớ rằng có một bài kinh Phật dạy đó trong thân chúng ta có ba hành. Thân hành, khẩu hành và ý hành. Khẩu hành là tầm tứ. Mà thân hành là hơi thở. Ý hành là thọ tưởng. Do đó một cái người mà nhập Nhị thiền đó, thì Tịnh Chỉ tầm tứ tức là Tịnh Chỉ khẩu hành. Mà nhập Tứ thiền thì Tịnh Chỉ thân hành, thân hành tức là hơi thở.

Cho nên trong cái bài kinh nhập tức xuất tức đó. Ở trong kinh Trung Bộ mà cái bài kinh Nhập tức xuất tức thì Phật dạy: hơi thở tức là thân. Cho nên do vì vậy mà khi hơi thở mà dừng thì thân dừng mà tâm dừng, mà tâm dừng thì cái thức nó dừng nó đâu còn biết. Cho nên ở đây chúng ta muốn biết được tại sao nhập Tứ thiền mà lại cái thức, vậy cái thức nào mà còn? mà cái thức nào lại dừng? Đó là cách thức mà Thầy sẽ giảng dạy trong những cái buổi vấn đạo những lời hỏi của các con.

Đó thì hôm nay chúng ta thấy được cái điều kiện do các con tu sai mà ức chế. Như Thầy không có kiểm tra các con chớ sự thật ra các con biết khi mà chúng ta ngồi như thế này, kiết già xong rồi bắt đầu chúng ta ngồi chúng ta hít thở đó để mà gom tâm thì các con biết như thế nào hay cái vai các con gồng lên liền tức khắc. Nếu mà các con không có chịu thư giãn xả xuống như thế này thì các con sẽ bị gồng. Sẽ bị gồng hai cái vai và thấy nó gom nó tập chung nhưng mà bị gồng bị dừng cơ mà gom tâm ở hai cái vai rất là cảm giác rất rõ ràng. Cho nên khi chúng ta gom lại một hơi thở chậm rồi bắt đầu thở hơi thở bình thường đó thì chúng ta nương vào hơi thở bình thường thì chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc, các cơ trong thân phải xả xuống, buông xuống thư giãn. Thì lúc bây giờ các con nhắc thả xuống thì các con nghe cái vai các con buông xuống cái vầy thì các con nghe nó nhẹ nhàng chứ nó không còn gồng nữa. Đó là cách thức chúng ta thư giãn lại cho cơ thể nó thư giãn hoàn toàn không bị ức chế các cơ mà gom tâm mà chúng ta tu tập bằng cách xả tâm. Cho nên vì vậy mà khi nương vào hơi thở thì chúng ta thường theo pháp như lý tác ý mà quán “quán ly tham tôi biết tôi đang thở vô, quán ly tham tôi biết tôi đang thở ra”. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta nương vào cái tỉnh thức của hơi thở để mà chúng ta xả cái tâm, khắc phục tham ưu như trong Tứ Niệm Xứ đã dạy. Chứ còn nếu mà chúng ta cứ ngồi để mà lặng lẽ không có niệm vọng tưởng biết hơi thở ra biết hơi thở vô, rồi chúng ta hướng tâm nhắc: “hơi thở phải mất đi để tầm tứ diệt, nhập Nhị thiền” thì một lúc hơi thở chúng ta sẽ xả bỏ không chú ý hơi thở nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta không thấy hơi thở thì chỉ có một trạng thái an lạc của định sanh hỷ lạc của Nhị thiền. Tức là của diệt tầm tứ. Thường thường là các con sẽ thấy thích thú ở trạng thái này rất nhiều. Nhưng đó là cái sai không đúng.

2- Ý THỨC

Bây giờ để tiếp tục trả lời câu hỏi của Cô Diệp Thành tức là Cô Minh Cảnh hỏi:

(Trưởng lão đọc câu hỏi)

(30:58) Kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ: “Nhà khoa học cho rằng thân con người nhờ bộ não điều khiển hoạt động, một em bé lấy đồ chơi ra chơi rồi sắp xếp trở lại, khoa học cho đó là bộ não điều khiển chứ em bé không biết gì”.

Đáp: Bộ não của con người là ý căn. Cái bộ não của chúng ta là ý căn. Nhưng cũng có những kinh sách cho rằng cái ý căn đó là trái tim của chúng ta thì đó là sai. Bởi vì tất cả những cái sự hoạt động trong thên của chúng ta điều do thần kinh và tất cả những cái phần ở trên óc của chúng ta thì đó là cái ý căn của chúng ta. Bộ não của con người là ý căn. Ý căn hoạt động sinh ra Ý thức. Nghĩa là khi mà cái bộ não chúng ta nó hoạt động thì ngay đó là cái ý thức. Cho nên chúng ta thấy cái nhãn thức, cái nhãn căn là con mắt chúng ta đó. Ngay trong khi cái nhãn căn nó hoạt động thì nó tiếp xúc với một cái vật thì ngay đó nó có cái Nhãn thức liền. Chớ không phải cái ý thức nó nhảy đến để mà làm việc với cái nhãn căn đâu. Mà ở tại con mắt chúng ta nó có cái nhãn thức. Ở lỗ tai chúng ta nè có cái âm thanh tác động vào nè thì tác động vào cái nhĩ căn của chúng ta nguyên cái nhĩ thức nó phân biệt tiếng đó là tiếng gió, tiếng chó sủa, tiếng người đi, tiếng xe chạy nó phân biệt được đó là cái nhĩ thức của chúng ta nó phân biệt. Chớ không phải là Ý thức nó làm việc chỗ đó đâu. Ý thức nó làm việc ở chỗ bộ óc của nó là Ý căn của nó mà thôi. Các con hiểu vậy cho nên ở đây chúng ta mới có sáu cái thức đó Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý thức. Còn sáu cái căn là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn, Ý căn. Nó đó là những cái phần của cái căn của nó. Khoa học bảo rằng bộ não điều khiển chớ em bé không biết là sai! Nghĩa là lúc bây giờ em bé, tuy rằng nó bé nó không nói ra nhưng mà nó có sự biết khi mà cái bộ não nó hoạt động thì ngay đó nó có cái biết của nó chớ không phải. Cho nên nó biết mở cái hộp đồ chơi ra nó chơi. Sau đó nó biết sắp xếp trở lại. Đó là một đứa bé thông minh. Còn một đứa bé mà không thông minh đó, thì nó mở ra nó chơi nó quăng bừa bãi rồi bắt đầu nó nằm xuống ngủ chứ nó không sắp xếp lại tức là đứa bé không thông minh. Cho nên các Nhà khoa học cho rằng một bộ não mà đặc sệt thì thông minh một bộ não nhão và lỏng lẽo trong đó thì người ít thông minh. Thì cũng đúng bởi vì nó đặc nó phải nhiều, nó có phần nhiều những cái tế bào não trong đó nhiều tức là nó hoạt động nó phải thông minh hơn một cái người mà cái tế bào não ít. Bộ não là Ý căn hoạt động sinh ra ý thức tức là em bé biết việc làm của em bé chớ không phải không biết.

(33:47) Cái ý thức tức là sự hiểu biết của con người. Nhưng ý thức chỉ là cái biết của thân chớ không phải cái biết của tưởng, của tâm. Cái biết của tưởng là khi chúng ta nằm ngủ chiêm bao. Cái biết của tâm là khi chúng ta nhập định. Chúng ta phải phân biệt bởi vì trong cái bộ não chúng ta nó có, nó chia ra làm nhiều cái tế bào não. Cái phần mà tế bào não mà làm việc cho cái ý thức đó, cho cái ý thức chúng ta hiện giờ biết trong cái ý thức mà có sự hiểu biết hữu hạn này đó. Thì cái phần mà tế bào não đó nó hoạt động. Như bây giờ chúng ta đang sống có cái phần tế bào não nó hoạt động. Còn một số tế bào não hoàn toàn không hoạt động, nó đang nằm đó. Cho nên khi mà cái số tế bào não mà hoạt động, cái ý thức chúng ta ban ngày đó. Khi chúng ta ngủ thì cái số tế bào não đó nó cũng nghĩ. Nó nhường lại cho cái số tế bào não khác làm việc thì trong lúc đó chúng ta chiêm bao. Đó là mà Thầy gọi là tưởng thức. Mà khi mà tất cả các tế bào não của tưởng thức và của ý thức đó nó ngưng hoàn toàn nó không làm việc, nó ngưng nghĩ đó. Thì cái tế bào của tâm thức chúng ta mới trỗi dậy làm việc. Do đó mà chúng ta gọi là trí tuệ Tam Minh hay là tâm thức của chúng ta khi chúng ta nhập định. Ba cái biết này đều do bộ não hoạt động. Nghĩa là ba cái biết từ cái ý thức biết này, tưởng thức biết này và cái tâm thức này đều là do bộ não của chúng ta hoạt động. Nếu bộ não chúng ta hủy diệt, hoại diệt thì ba cái thức này không còn.

Khi thân hoạt động bình thường như mọi người thì một số tế bào não bộ làm việc còn các tế bào não bộ khác thì ngưng nghĩ. Khi chúng ta ngủ các tế bào não làm việc bình thường ngưng nghĩ nhường lại cho các tế bào não khác hoạt động tạo thành giấc mộng. Trong giấc mộng chúng ta cũng nghe thấy biết rõ ràng, cái nghe thấy biết đó gọi là tưởng thức. Nó không phải nghe bằng lỗ tai, cũng không phải thấy bằng con mắt nữa. Mà nó nghe thấy bằng tưởng thức. Cho nên trong chiêm bao các con cũng nghe cũng thấy, cũng nói chuyện, cũng này kia, cũng vui cười, cũng sợ hãi, cũng như là mình sống ở trong cái cuộc sống ban ngày của mình như vậy. Khi chúng ta nhập định số tế bào não làm việc lúc bình thường cũng như lúc chiêm bao đều ngưng nghĩ, nhường lại cho nhóm tế bào não tâm thức làm việc. Do đó ta nhập định tịnh chỉ hơi thở mà không chết.

Nhờ cái chỗ mà chúng ta đánh thức cái nhóm tế bào này nó trỗi dậy làm việc do đó nó không cần khí oxy. Cho nên chúng ta tịnh chỉ hơi thở mà chúng ta không chết. Còn bây giờ các con đang ở trong cái ý thức này, mà các con lại muốn cho hơi thở tịnh chỉ cơ thể các con đang cần cái khi oxy để nuôi sống nó, thì lúc bây giờ các con nín thở thì coi chừng các con chết. Như trường hợp của một bác sĩ mà Thầy có nhắc. Ở ngoài Quy Nhơn mà Minh Tâm có nói là chú Phòng vào đây nghe Thầy nói về cái hơi thở thì chú về ngoài đó chú cũng dạy người ta nín thở cái kiểu hiểu lầm gọi là tịnh chỉ hơi thở, thì chú về ngoải gọi là đình chỉ hơi thở, nín hơi thở. Rồi ông bác sĩ ổng cũng nghe theo ổng tu rồi ổng cũng nín thở rồi ổng chết luôn. Đó là một cái trường hợp rất là oan uổng.

Bởi vậy cái gì tu, cho nên cái lời tựa hồi nãy trong cái cuốn tập 5 - Đường về xứ Phật đó thì Thầy đã nhắc, cái gì mình tu mình biết được chính xác mình làm chủ được sanh tử thì mình dạy người ta. Mà không biết thì đừng có dạy bằng cái lý thuyết suông như vậy khi mình tu chưa tới. Mình tu chưa có làm được mình dạy như vậy mình gạt người ta, rồi bao nhiêu người đi theo mình tưởng là đúng, nhưng cuối cùng mình cũng chưa xong mà người khác cũng chưa xong. Bây giờ nó mới là chết trùm với nhau cả đám.

(37:46) Tóm lại ý căn tức là não bộ rất quan trọng cho cuộc sống của con người. Mà người tu hành sử dụng nó được lại càng quan trọng hơn nhiều. Nghĩa là chúng ta tu hành sử dụng cái não bộ chúng ta đó, chứ không phải là cái gì khác. Gọi là hướng tâm về Tam Minh Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh đều là do não bộ của chúng ta đánh thức cho nó hoạt động vậy chớ không có gì hết. Đây là cái lời tựa của cái câu hỏi này đó Thầy đặt nó gọi là ý thức.

3- TÂM LINH

(38:16) Bây giờ đến một câu hỏi thứ hai của Cô Diệu Thành. Cô hỏi thì Thầy đặt cái câu hỏi của Cô có cái tên riêng của nó gọi là Tâm Linh.

(Trưởng lão đọc câu hỏi) Hỏi: Khoa học chưa tìm ra Tâm Linh vi diệu của con người, chỉ biết con người do bộ não điều khiển và còn biết một số tế bào não chưa làm việc có phải vậy không thưa Thầy?

Đó là qua cái ý của cô Diệu Thành hỏi Thầy đó thì Thầy tóm lược lại cái câu hỏi của cô để cho nó rõ ràng cái ý để mà trả lời, cho nên cái tên của cái câu trả lời này tên là Tâm Linh. Bởi vì bây giờ những câu hỏi và đáp đều trở thành cái bài học và cái bài kinh để mà chúng ta hiểu biết cho nó rõ ràng cụ thể.

Đáp: Đúng vậy! Nếu khoa học tìm cách đánh thức số tế bào não chưa hoạt động để được hoạt động thì sẽ thấy được Tâm linh vi diệu của con người hoạt động siêu việt. Nghĩa là các nhà khoa học bây giờ nó không có làm sao mà đánh thức cái số tế bào não đang nghỉ ngơi, đang nằm nghỉ đó, đang không hoạt động đó. Nó chưa có cách thức nào đánh thức được. Cho nên nó chưa có tìm thấy được Tâm linh. Chúng ta nhờ tu thiền định cho nên chúng ta đánh thức cái số tế bào não đó. Chúng ta làm chủ được sinh tử, chúng ta làm chủ được sự sống chết do cái chỗ mà chúng ta đánh thức cái số tế bào não đang nghỉ ngơi đó. Nói tâm linh nhưng thực sự ra nó chẳng linh hiển gì cả. Chỉ vì nó hoạt động ở trí vô hạn.

Nghĩa là bây giờ mình đánh thức cái số tế bào não đó nó hoạt động ở chỗ cái trí vô hạn của chúng ta. Bởi vì cái sự hiểu biết vô hạn cho nên chúng ta thấy cái linh hiển chứ nó không có linh hiển gì hết. Nên nó không có không gian và thời gian chi phối, nó không bị không gian và thời gian, không gian là nó không bị ngăn cách, cách sông cách núi, cách một khoảng dài nó không bị ngăn cách. Cho nên khi mà chúng ta đánh thức được cái trí vô hạn thì nó không còn bị không gian và thời gian. Cho nên cái thời gian quá khứ nó không còn là quá khứ nữa. Nó không chi phối chúng ta. Đó cũng là do tế bào não hoạt động điều khiển, chứ chúng ta có hay giỏi gì đâu. Cũng do cái bộ óc của chúng ta mà thôi. Hiện giờ tế bào não hoạt động trong trí hữu hạn. Nghĩa là bây giờ chúng ta đang sống đó thì cái số tế bào não mà chúng ta đang hoạt động thì nó nằm ở trong cái trí hữu hạn, nó có hạn. Cho nên nó bị cái ảnh hưởng của không gian và thời gian. Cho nên khi mà không gian thì nó trải dài quá chúng ta không thấy được và nó bị ngăn sông cách núi thì chúng ta không thấy được. Và cái thời gian thì nó chia cắt, nó có hiện tại, quá khứ và vị lai. Mà chúng ta gọi là ý thức. Nghĩa là khi mà chúng ta cái tế bào não hoạt động trong cái trí hữu hạn chúng ta thì đó là ý thức.

(41:10) Ý thức là sự hiểu biết bị hạn lượng trong không gian và thời gian. Nên con người sống không nhìn rõ sự vật và các pháp nên lầm chấp. Bởi vì chúng ta sống trong cái ý thức cái trí mà hữu hạn này đó nó bị hạn lượng của không gian và thời gian cho nên chúng ta nhìn các pháp nhìn sự vật đó thì chúng ta lầm tưởng là thật. Như bây giờ ta nhìn thấy cái bàn, cái nhà cửa này mình cho thật. Thấy người này, người kia ngồi mình cho thật. Chứ thật đó là mình tưởng chứ không phải thật.

Cho nên ở cái bài kinh mà pháp môn căn bản Phật nói: Con người sống ở trong cái thế giới tưởng mà tưởng tri chứ không phải liễu tri mà cái gì con người hiện giờ đang sống ở trong cái trí thức hữu hạn này đó thì hoàn toàn là phải nói sống tưởng, sống tưởng chứ không có. Cho nên cái thế giới siêu hình cũng là cái thế giới tưởng của các người chứ không phải có thật cái thế giới siêu hình. Vì chính các người sống trong trí hữu hạn thì các người chỉ còn dùng tưởng để mà hiểu mà thôi. Bởi vì bàn ghế, nhà cửa nó là do duyên hợp mà có. Thế mà chúng ta thấy cái bàn này là thật. Rồi thấy ngay cả cái thân này đó, chúng ta thấy có người này chết người kia chết thì chúng ta cho cái thân này nó giả đi, thì chúng ta nghĩ rằng ở trong cái thân này có cái biết cái linh hồn, cái thần thức nó còn nó thường hằng hay hoặc cái Phật tánh ở trong đó nó thường hằng. Đó là chúng ta tưởng ra thôi. Cái gì chúng ta không thực tế thì chúng ta lại tưởng nó ra thôi. Cho nên cả cái thân này đó hiện bây giờ đức Phật nói nó là vô thường nó là ngũ duyên hợp lại, nó là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành ,Thức hợp lại mà thành cái thân này. Nó không có một cái gì thật, thế mà hở một chút là chúng ta có giận, có hờn phiền não. Cái gì của ta đâu mà chúng ta giận? Thế mà ai động chạm đến mình cái gì cứ nghe nó phiền não, nghe nó buồn bã. May là theo tu với Thầy, chứ không theo tu với Thầy rồi các con thấy sự giận hờn đó như thế nào. Rồi hở một chút gì hơi hơi đau cái ngón chân hà, đi vấp cục gạch, cục đá thôi hà mà ổng thiếu điều ông muốn đi nằm nhà thương nữa. Sợ cái ngã chúng ta nó chết hay sao. Có cái gì là cái ngã chúng ta đâu?

Cho nên ở đây thật sự ra các con đã lầm tưởng, sống trong cái tưởng. Rồi chó đó là cái thân của mình, cái ngã rồi quý nó, rồi mến nó. Sự thật Phật đã nói nó là cái thân bất tịnh hôi thối, bẩn thỉu do tứ đại mà tạo thành. Nó không phải là cái gì của mình cả. Thế mà hằng ngày Thầy bảo các con tu tập các con quán vô ngã. Ví dụ như bây giờ “quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra”. Vô ngã là cái gì? Là thân của chúng ta là các pháp vô ngã. Đó thì các con đã học đạo, đã nghe như vậy mà hở chút gì cái nghe rên la. Ôi thôi nó nhức cái vai này quá trời. Cái gì nhức? Có cái gì đâu nhức. Cái thọ là nó nhức. Chứ ai mà nhức. Vì vậy mà chúng ta hiểu biết tâm không dao động thì nó sẽ không có đau khổ. Mà tâm dao động thì cái đau khổ nó lại thành đau khổ nhiều. Cho nên các con thấy như Thầy ho Thầy có cần gì nó đâu. Mặc nó, nó thọ là nó ho, nó ho nó có chết Thầy bao giờ đâu mà sợ. Bởi chết là chết lâu đời rồi. Đâu tới bây giờ. Cho nên đối với Thầy không quan trọng vấn đề gì hết. Thậm chí như Thầy thấy nó không quan trọng tức là nó không có đau không nhức, chứ cở đau nhức đó thì tức là mình sẽ dùng pháp hướng ra lệnh nó sẽ tịnh chỉ được tức khắc liền. Có cần gì. Bởi vì mang cái thân này là mang cái thân nghiệp nhân quả.

(44:30) Có một lần Thầy trả lời với Minh Tâm. Minh Tâm hỏi một người tu hành đó còn bị nhân quả hay không? Theo như là Bách tượng giả hồ câu chuyện như vậy. Thì nó thấy một lần Thầy bị cây sắt sóc trong cái tay thì nó nghĩ rằng một người tu hành biết được những chuyện xảy ra thì làm gì để cho cây sắt mà chóng mà ấy trong tay mình như vậy. Cái ý nó muốn nói như vậy. Thì Thầy mới nói như thế này: Đã mang thân nhân quả thì cái sự việc xảy ra trong nhân quả thì chúng ta đều phải chấp nhận nhân quả chứ không thể nào gọi là tránh né nhân quả, trốn tránh né nhân quả. Nhưng có làm chủ được cái tai họa, cái tai nạn xảy ra ở trong cái vết thương đó không. Có sợ hãi không. Nếu mà chúng ta sợ hãi chúng ta biết rằng một lát nữa là mình chặt cái cây sắt đó nó sẽ chóng trong tay mình nó sẽ thành vết thương đó, thì mình không chặt thì nó đâu có chớ gì. Thì nó sẽ đó là tránh né. Tức là mình sợ cái vết thương. Mình sợ cái quả. Thì nó không phải. Người tu sĩ đạo Phật mang thân này là thân nhân quả. Thì phải có trường hợp mà phải xảy ra những cái vết thương, hoặc là những cái bệnh đau ở trong cơ thể này đó là một dĩ nhiên của thân nhân quả. Nhưng chúng ta có làm chủ được nó không? Nếu làm chủ được nó thì chúng ta chẳng có dao động tâm, chẳng có hề sợ hãi, chẳng có đi nhà thương, chẳng có sợ gì cả. Chết thì bỏ nó có gì của mình đâu mình tiếc. Tứ đại nó chết thì trả nó về đất, nước, gió, lửa. Có gì đâu của mình mà mình giữ. Các con thấy đó là cái thấm nhuần được cái lý của đạo là tâm hồn chúng ta giải thoát.

Thì cái nhân quả mà chúng ta chết. Bây giờ cỡ đau sơ sơ nó chết nó cũng dễ dàng. Đó cái thân của chúng ta nó rất giòn bở. Còn nếu mà không chết bây giờ chúng ta đau cái gì nó cũng không chết hết. Như cô Diệu Thành nếu mà con đã chết bao nhiêu lần bệnh đau nó đã chết lâu rồi. Nó không chết thì bây giờ nó có chết gì đâu. Nhưng mà hồi nào tới giờ hể hơi nhức xương, rung xương là lo chạy bay đi xuống thành phố để mà đi bác sĩ. Thì thử hỏi cái đó là cái mình sợ hãi. Chấp cái thân của mình chứ gì. Cái hành động đó là hành động chấp ngã. Cho nên vì vậy mà từng đó cái tâm bị dao động, dao động trước các đối tượng, dao động trước các pháp.

Do cái chỗ mà trí hữu hạn của chúng ta cái ý thức của chúng ta đang sống và hiểu biết đó nó đều là tưởng tri chứ không phải là liễu tri. Do cái tưởng tri đó mà chúng ta lầm chấp các pháp. Như Thầy đã nói sống với tưởng tri cho thế giới hữu hình và vô hình là có thật. Vì thế mới đắm đuối chạy theo cái bóng giả tạo này cho là đúng sai, phải trái, tốt xấu, sanh ra ham thích, dính mắc rồi giận hờn, thương ghét, đau khổ, phiền não. Cũng chỉ vì tưởng tri cái thế giới này có thật, con người này có cái vĩnh hằng, linh hồn, Phật tánh. Sanh ra chấp ngã vĩ đại làm cái gì cũng tích lũy cho nó, thậm chí tu hành cũng cho nó. Nghĩa là bây giờ các con tu hành cũng cho cái ngã của các con chớ đâu phải cho người khác. Các con hiểu điều đó. Cho nên nếu mà cho người khác thì người ta chửi mình mình đừng có giận. Tại vì mình tu hành người ta chửi mình mà mình giận mình nói người ta thì làm người ta khổ. Tức là mình đâu phải tu cho người ta. Mình tu cho mình. Cho nên ở đây Thầy nói thậm chí tu hành cũng chỉ tu cho cái ngã của mình. Do mình tu cho cái ngã của mình cho nên mình không giải thoát. Vì vậy đó mà mình, tự mình đã làm khổ lấy mình. Mà làm khổ lấy người làm sao gọi là tu giải thoát. Các con hiểu được cái câu này thì chắc chắn là các con biết rằng, cái câu mà Thầy nói: “Không làm khổ mình, khổ người” nó mang đầy đủ tính chất giải thoát của con người trong đó có sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Nếu các con hiểu được câu đó thì các con sẽ thấy xả bỏ được tâm mình thì các con sẽ thấy giải thoát rất là cụ thể. Làm chủ được lúc nào muốn sống chết lúc nào. Các con không cần tập ngồi thiền mà chỉ cần ra lệnh muốn nó mấy ngày thì nó sẽ làm y như mấy ngày.

(48:32) Thầy nhớ năm 1991, sau cái mùa an cư kiết hạ đó. Mùng một tháng tám Thầy vào thất với một số quý thầy còn ở lại đây. Quyết sống giới luật ngày một bữa. Và đồng thời trong thời gian ấy được rảnh rang nhiều hơn. Thầy nhập thất bắt đầu từ bảy ngày không ăn không uống suốt bảy ngày. Nhập thất như thế nào mà biết bảy ngày ra mà bảy ngày vào. Chỉ có ra lệnh hướng tâm nhắc khi mà ngồi thiền, hướng tâm nhắc. Bây giờ đó tâm phải tịnh chỉ hơi thở bảy ngày đêm nhập tứ thiền bảy ngày đêm đúng giờ này ngày thứ bảy phải xuất định. Thì trong khi đó tâm từ từ lặn mất dần không còn biết gì nữa hết cuối cùng ở trong một trạng thái của tứ thiền, thì lúc bây giờ đúng tới bảy ngày. Chúng ta không có thấy cái thời gian ở trong đó là bảy ngày, mà tới chừng đó tự động thì chúng ta lại thấy nó bung ra tức là hơi thở bắt đầu thở trở lại. Nghĩa là cái thức tới đó nó sẽ biết được cái hơi thở của nó và đồng thời nó hướng tâm lần lượt xả lần ra. Thì đứng vậy đi bình thường không có tê không nhức không đau gì hết chứ không phải. Và đồng thời trong thời gian đó Thầy sẽ ngồi suốt chỉ có được mười lăm ngày. Còn hoàn toàn dự định trong ba tháng trong cái mùa hạ đó, trong ba năm đó thì Thầy định Thầy ngồi ba tháng chưa dám ngồi một năm.

Tại sao vậy? Tại vì không có thời gian hướng dẫn chúng. Nếu mà không có ai tức là Thầy sẽ ngồi nhiều. Nhưng mà vì có mọi thầy tu hành, sợ người ta tu sai mình nhập định thì có những cái gì thì làm sao giải quyết được cho họ. Rồi sao đó Thầy kèm cho mật hạnh tu tập cho nên không còn thời gian nữa. Do vì vậy mà những năm đó Thầy chỉ nhập được khoảng thời gian bảy ngày cho đến mười lăm ngày thay vì một tháng nhưng mà không dám ở lâu trong một tháng. Khi mà tăng lên một tháng thì nhìn trước nhìn sau không có ai chăm sóc cho chúng. Cho nên đành phải mười lăm ngày rồi tiếp tục hướng dẫn chúng đi theo con đường của mình. Khi Thầy tu tập mà nhập cái thời gian mà nhập định đó thì Thầy nhập suốt hai tháng, hai tháng định. Mà người ta đồn thì Thầy nhập ba tháng chứ thật ra Thầy nhập có hai tháng, trong khi Thầy cũng vào định rồi cũng nhắc tâm của mình rồi vào định trong khi mà tu tập về pháp môn của Phật. Thì các con thấy rằng trong cái sự tu tập nó cái sự làm chủ rất rõ ràng cụ thể, chứ không phải tập ngồi từng giờ từng phút tăng lên, rồi bỏ cái ngồi lại không được. Còn đằng này đâu có gì đâu, rất dễ. Khi nào muốn ngồi thì bảo nó tịnh chỉ ngưng thì còn thấy đau thấy nhức cái gì đâu. Đã hơi thở Phật đã nói: Hơi thở là thân, là thọ, là tâm, là pháp mà hơi thở ngưng…​

(51:31) Nhưng mà chất chứa tham, sân, si chất chứa nó. Chất chứa những điều ác điều thiện ở trong đó. Thì bây giờ đó từ cái chỗ mà chúng ta có cái thức, kế nữa bắt đầu chúng ta tiếp tục như chúng ta có cái thân thứ hai. Bây giờ bỏ cái thân này cái thức này nó mất đi cho nên nó còn cái nghiệp nó đi đầu thai. Tiếp tục tái sanh do cái khối, khối nghiệp thiện ác đó mà Thầy nói là nhân quả tái sanh luân hồi đó. Thì cái khối đó nó đi tái sanh, mà khi nó đi tái sanh thì nó có cái thức chớ không phải. Nó mang cái thức đi theo. Cho nên gọi là A-lái-da thức, cái thức đó cái A-lại-da thức thì nó không đúng. Mà nó là cái nghiệp lực cái kho nó đúng. Bởi vì nó chứa chất, chất chứa những cái ham thích, cái ác, cái thiện của nó nó thành một cái nơi mà chất chứa thành một cái thùng, thành một cái nhà kho chưa đó, cái đó nó thành cái khối. Thì cái khối đó bây giờ chúng ta sanh lên một kiếp nữa thì chúng ta chất chứa thêm do cái thức mới của chúng ta chất chứa thêm những cái này. Từ cái kho này nó mới thúc đẩy cho chúng ta chạy theo những cái thức mới đó, nó ham thích theo vì cái kho này nó đã tích trữ cái tham, cái sân, cái si của nó sẵn rồi. Bây giờ nó có cái thức, thay vì nó không có cái kho mà tham, sân, si này thì cái thức kia nó không có tham, sân, si. Giờ cái kho này nó lại cái tham, sân, si nó lại mạnh hơn nó nhanh hơn cho nên khi mà cái này đi tái sanh luân hồi nó mang cái thân mới thì nó có cái thức mới của nó ở trong cái thân ngũ uẩn mới. Chớ không thể nào mà cái thức này đi vào trong cái thân ngũ uẩn mới có thêm một cái thức nữa được. Phải hiểu như vậy. Theo kinh Nguyên Thủy nghiệp lực không có thức tức là không có cái biết. Do sự vô minh theo lực của nghiệp đi tái sanh chớ không có cái thức đi tái sanh. Các nhà duy thức học chỉ tưởng ra mà thôi. Tưởng ra cái thức mà thôi. Nên có người giữ kho và cái kho đi tái sanh Mạc-na thức và A-lai-da thức tái sanh. Sự thật trong kinh Nguyên Thủy dạy không có thức nào đi tái sanh luân hồi. Chỉ có nghiệp thiện ác đi tái sanh luân hồi mà thôi. Nghiệp thiện ác tức là nhân quả thiện ác. Đó thì nghiệp thiện ác tức là cái kho chứa chứ không có cái gì. Tức là mình huân vô thành cái khối nghiệp. Khối nghiệp đó nó có cái lực rất mạnh, cho nên khi mà chúng ta chết rồi nó tùy duyên tương ưng với cái nơi nào hợp với cái nhân quả đó thì nó đến đó nó làm con cái của cái nhân quả, của cái nhân quả kia mà tiếp tục có cái thân mới.

4- TU SAI HAY TU ĐÚNG

(54:07) Ở câu kế nữa cô Diệu thành hỏi tu sai hay tu đúng.

(Trưởng lão đọc câu hỏi) Hỏi: Cứ theo lời Thầy dạy con tu như vậy thời gian sao Thầy bảo rằng con tu sai, con hơi buồn.

Đáp: Đúng như lời Thầy dạy thì các con chỉ tu đúng được một nữa còn một nữa thì tu chưa đúng. Nghĩa là các con xét lại cái lời Thầy dạy, nếu mà các con tu đúng đó thì giờ này các con không còn lận đận ở trên sự tu tập nữa. Tại vì các con không giữ đúng theo lời Thầy dạy cho nên các con sẽ còn lận đận, còn lận đận trên cái bước đường tu tập. Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy mà giữ gìn cho đúng thì thời gian rất ngắn. Thầy nói rằng đức Phật nói ở trong kinh cũng như Thầy nói, Thầy nói sáu tháng các con sẽ làm xong. Còn đức Phật nói sáng chúng ta nghe chiều đã giải thoát rồi. Đó là cái tối thiểu ở trong đức Phật. Đức Phật nói từ khi mà nghe pháp mà tu tập đó thì cái người lâu nhất là bảy năm, rồi bảy tháng, rồi bảy ngày, rồi sáng nghe chiều giải thoát. Đó thì cái người mà nhanh nhất sáng nghe chiều giải thoát. Rồi bảy tháng, rồi bảy ngày. Cái người mà chậm hơn cái người sáng nghe chiều giải thoát thì bảy ngày. Mà người chậm hơn nữa chậm hơn bảy ngày là bảy tháng. Mà cái người mà bảy tháng đó chậm hơn nữa thì nó là bảy năm. Thì cái số bảy năm đó là cái số tối đa. Mà cái số sáng nghe chiều giải thoát đó là cái số tối thiểu, cái thời gian tối thiểu. Mà khi nghe Thầy nói rồi mà các con cứ mãi cố chấp ở trong lòng, ôm cái tham, sân, si làm gì. Nó có cái gì đâu là của mình đâu mà tham mà giận mà hờn mà đau khổ. Nhắc đi nhắc lại mãi để mà xả cái tâm mà các con cũng xả chưa sạch. Thì Thầy cũng không biết làm sao cho nó hết được. Bởi vì mỗi người đều đi cho mình chứ không thể nào mà đi cho các con được. Nếu mà cở đi được đó Thầy đi giùm cho các con, đi giùm cho. Cho nên các con không có còn giận hờn. Trái lại đó Thầy đi không có được thấy mà thấy mỗi lần mà cô Út la hét thấy tụi nó sao đi không có nỗi vậy, phải chi mình đi được đi giùm, này đi không có được giùm. Cho nên cái tu sao tu giùm không có được. Chớ phải tu được thì Thầy tu giùm cho các con. Thầy ráng Thầy tu. Bây giờ ở đây là mấy đứa nè chín người nè Thầy tu giùm cho mỗi người Thầy tu một ngày cho thử coi nó hết không. Chắc chắn là nếu mà Thầy tu giùm được đó thì trong vòng chừng ba bữa là mấy con sẽ hết sạch không còn tham, sân, si nữa. Ngặt tu không được cho nên Thầy chỉ được giải thoát cho mình mà không có được cho mấy con. Các con cũng biết rằng sống gần bên Thầy các con cũng biết rằng có những phong ba bão táp chớ, chớ đâu phải không. Nhưng mà Thầy có hề hấn gì đối với Thầy đâu. Các con thấy đó tại sao các con không bắt chước Thầy? Thế mà các con lại âm thầm đau khổ rồi có khi buồn giận rồi có khi nói ra lời nói trách móc đồ đủ thứ hết. Tại sao vậy?

(57:20) Đó là những cái sai! Cho nên ở đây Thầy muốn nhắc để cho các con biết rằng con đường tu đó thì không thể ai đi cho ai được. Chớ cở mà đi được chắc Phật đi giùm cho chúng sanh để giải thoát hết rồi. Chớ không cần tới Thầy nữa. Cho nên các con nghe những cái nỗi mà đau đớn, những cái nỗi khắc khoải trong lòng khi mà tu không được. Thì Thầy biết các con cũng vậy, tâm trạng của các con cũng vậy. Nhiều khi dở khóc dở cười trong cuộc đời tu hành chớ đâu phải thường. Đã lỡ tu rồi thà là mình ở ngoài đời, mình không biết gì Phật pháp hết. Ba cái Phật pháp này nhiều khi nó ghẹo gan mình tức thật. Ham tu mà vô tu thì tu không được rồi đi ra, ra cũng không được. Nó dính đó nó kẹt. Nó khổ sở. Đi ra thì sợ người ta cười, người ta chê rồi thế này thế khác. Mà tu thì không biết pháp nào mà tu cho được. Trời ơi nó khổ sở. Mà trong lúc đó các con còn được Thầy chỉ dẫn như vậy chứ còn ngày xưa Thầy bơ vơ, nghĩa là dở chết dở sống chớ không phải. Mà may là được hồi đó được nghe những cái lời hòa thượng Minh Châu dạy ở trong kinh Nguyên Thủy. Rồi được đọc ở trong kinh sách Nguyên Thủy, trực nhớ như vậy. Chứ còn không đó thì như quý thầy bây giờ chưa có được mà học về kình Nguyên Thủy. Chưa có được mà nghiên cứu kinh sách. Kinh Nguyên Thủy đó chớ mà thật sự ra các con kỳ lắm các con lại đọc cái cuốn kinh Nguyên Thủy nghe cái bài kinh nó nhạo đi nhạo lại lát các con thôi quăng cuốn sách đọc nghe không khoái chút nào hết. Có không? Các con cứ nghĩ có không? Thầy nói có không?

Nhưng mà sự thật ra một cái ý thâm sâu ở trong đó ghê gớm. Mà đọc rồi các con sẽ chán chứ không phải đâu. Cho nên được nghe, được đọc rồi mới may mắn cho cái đời tu hành của mình. Mới thấy được cái đường lối của Phật. Chứ còn không khéo chắc là dễ chết lắm. Nghĩa là nói chung nếu mà Thầy chỉ thêm chừng vài tháng nữa thì mẹ Thầy qua phần, thì chắc chắn Thầy cũng bỏ Thầy tìm cái chết cho nó yên cái thân chớ còn, may là tìm được cái pháp, rồi tu được, làm chủ được cái sự sống chết của mình. Rồi ra thất rồi mẹ Thầy mất. Chớ cở kéo dài thêm chừng một năm nữa thì mẹ Thầy mất trước khi Thầy xong, thì chắc chắn mà chưa có được gì thì Thầy là con người gan dạ nhất các con. Thầy lên trên hòn sơn ở một mình Thầy không sợ mà. Thầy là con người có thể nói là sống chết Thầy coi thường lắm. Thầy có thể là hủy hoại cái đời sống của mình rất dễ. Cho nên trong cái lúc nó khắc khoải nó đường cùng rồi. Nó không có muốn sống nó không có muốn ham thích gì nữa. Đó là những cái mà Thầy đã viết cái tâm trạng của mình ở trong cái lời nói đầu của cái cuốn Đường Về Xứ Phật tập năm. Sau này các con sẽ nghe những cái câu trả lời của Thầy ở trong tập này nó thành ra những cái bài pháp. Nó không như là những cái câu trả lời trước kia nữa. Như nãy giờ các con thấy mỗi một câu hỏi đó các con cái bài pháp ngắn để mà trả lời các con.

(01:00:22) Ở đây cô Diệu Thành hỏi Thầy tu đúng, tu sai hay tu đúng. Thật sự ra thì Thầy xác định các con chỉ tu được phân nữa cái lời dạy của Thầy. Còn Phân nữa các con chưa đúng, tu chưa đúng. Thứ nhất là cái hoàn cảnh nó chưa phù hợp. Mà nó có phù hợp đi nữa các con tu cũng chịu không nỗi. Bởi vì Thầy biết độc cư nó không phải là chuyện dễ. Chuyện của bậc thánh rồi. Chớ không phải là chuyện của phàm phu làm. Các con sống còn tới còn lui còn lao động còn này kia, các con còn chịu nổi chớ mà khép mình các con ngồi trong thất tu không thì ráng lắm thì một tháng, cao lắm là ba tháng rồi thì các con cũng phải đi một vòng rồi mới trở về ngồi mới được. Chớ còn các con ngồi không được. Không có thể nào mà khép chặt ba năm mà chặt ở trong đó. Các con thấy thầy Chơn Trí không. Vô trong này chừng trong một tháng là đi về Hà Nội chứ còn ở nữa thì chịu không nỗi. Rồi về Hà Nội đi tới đi lui vậy chớ cờn ở lì một chỗ cũng chịu không nỗi đâu. Thầy nói đâu có phải chuyện dễ đâu, rất khó các con. Đó là những cái khó khăn của độc cư. Nhưng mà chính độc cư là bí quyết của thành công. Tâm nó quay vô nó không phóng dật. Nó tạo cho chúng ta một cái định rất là có một cái lực rất là vĩ đại. Thầy bảo các con ăn ngủ và độc cư cho nghiêm chỉnh thì các con lại không sống đúng. Ăn ngủ thì còn tạm được. Độc cư thì không trọn. Cứ sống phóng tâm hết chuyện này đến chuyện khác. Dạy xả tâm ly dục, ly ác pháp thì các con lại ngồi thiền nhiếp tâm ức chế tâm. Như vậy có tu theo đúng lời dạy của Thầy hay không?!?

Cô Út đập phá để xả tâm thì lại hờn giận oán trách nói xấu khiến cho cô Út bất mãn không muốn dạy ai nữa. Nghĩa là trước cô Út rất là mạnh bạo đập nhưng bây giờ coi như là cô Út mười phần cô Út chỉ còn nhẹ nhẹ mấy con chỉ còn chừng khoảng năm, ba chứ chưa phải như lúc trước đâu, lúc trước mấy đứa chịu không nỗi đâu. Chỉ có người mà xả tâm. Lúc trước các con biết cứ mỗi lần bị đập là có Thầy đến an ủi liền. Nghĩa là có Thầy đến trong cái buổi học liền. Như mấy đứa tụi nó ở đây biết như cô Diệu Thành cũng biết. Ví dụ như cô Út đập rồi thì ngay đó thì buổi sau thì có cái buổi học thì Thầy giảng Thầy dạy Thầy an ủi cho thấy tinh thần nó trở lại bình thường. Chớ còn nếu mà cở như bây giờ Thầy bỏ phế như thế này mà đập đó thì lúc mà các con mới chân ướt chân ráo vào mà đập chừng vài lần như lúc trước cô Út kể như các con bay cũng như là bồ câu vậy chớ không còn mà đáp được.

(01:03:00) Còn về cái phần mà cô Diệu Thành hỏi về Ý thức phân biệt và tỉnh giác. Thì đây Thầy chưa có trả lời nhưng mà Thầy sẽ mượn những cái câu của cô Diệu Thành sẽ ghi lại trả lời chung cho sau này thành một cái bài pháp cho người ta hiểu thêm. Bởi vì cái sự hiểu của các con là phần nhiều là Thầy nói bởi vì cái trí của các con hiện giờ là cái trí hữu hạn cho nên không thể nào hiểu được ở cái trí vô hạn được. Cho nên nó thường là hiểu bằng cái tưởng của mình hiểu mà thôi. Cho nên ở đây cô muốn hỏi cái ý căn tức là não bộ cộng với cái thức bởi vì cái ý căn, ý căn là muốn chỉ cho cái nơi phần vật chất của nó, phần vật chất làm việc của nó là cái ý căn. Còn cái ý thức đó thì khi mà làm việc của cái não bộ thì cái ý thức nó phải có ngay trong đó rồi, chớ không phải là cái ý thức với cái ý căn đó hai cái nó tách rời ra không có. Cũng như cái lỗ tai của chúng ta nghe thì nó nghe thì nó là cái nhĩ , nhĩ thức nó ngay liên ở đó nó có rồi. Chớ không phải là cái nhĩ thức ở ngoài kia rồi nó hợp với cái lỗ tai chúng ta là cái nhĩ căn hai cái nó hợp lại rồi nó mới làm việc không phải, đừng hiểu vậy. Nó cái nhĩ thức, cũng như cái ý thức và cái ý căn đó nó chỉ là một chớ không phải hai. Nhưng một cái phần chỉ vật chất và một cái phần chỉ về tinh thần. Các con hiểu vậy. Nó là một chớ không phải hai. Do vì vậy mà chúng ta ở đây thì con lại hiểu qua cái tưởng, tưởng là nó có hai cho nên nó cộng với cái thức rồi để kiểm soát nó sanh ra nó điều khiển mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không phải. Đối với cái thân của nó là cái ý thức đó nó chỉ điều khiển ở chỗ cái ý thức mà thôi. Cũng như bây giờ chúng ta ngồi đây mà chúng ta điều khiển cái ý thức của chúng ta, chúng ta tác ý ra: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô nè, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Đó là ý thức chúng ta điều khiển pháp hướng gọi là ý thức. Còn bây giờ đó cái vọng tưởng khởi lên ở trong đầu của chúng ta đó thì cái đó là cái ý, cái tưởng thức của chúng ta khởi lên rồi cái ý thức của chúng ta mới nó phân biệt, phân biệt cái tưỏng của chúng ta đó là cái gì. Chẳng hạn bây giờ chúng ta nhớ lại cái điều gì. Nhớ cha nhớ mẹ hay nhớ anh chị em mình ở nơi quê hoặc ở chùa bạn bè gì mình đó. Thì cái niệm đó nó khởi ra cái niệm đó gọi là vọng tưởng hay là tưởng thức, Các con hiểu? Cái niệm đó khởi ra cái tưởng như vậy thì bắt đầu cái ý thức chúng ta mới quan sát lại cái niệm đó để rồi mới tìm hiểu cái niệm đó. Thì cái ý thức của chúng ta nó làm việc để chúng ta biết được cái niệm đó là thiện ác để mà chúng ta xả nó ra.

Chớ không phải, còn cái âm thanh ở ngoài mà tác động vào lỗ tai chúng ta thì cái âm thanh đó nó là nó thanh trần, nó tác động vào thì lúc bây giờ cái lỗ tai chúng ta cái nhĩ căn đó là cái lỗ tai nó tiếp cái âm thanh đó. Thì cái nhĩ thức nó biết rằng cái đó là tiếng gì nó phân biệt được tiếng gì. Chớ không phải là cái ý thức nhảy xuống đó mới phân biệt. À mày nghe như vậy đó là tiếng con chó chứ không phải tiếng xe chạy, mày nói cái tiếng xe chạy con chó sủa mà nói tiếng xe chạy là trật. Cho nên cái ý thức không có lẽ nó ở chỗ cái ý căn của nó là cái bộ não đó nó chạy xuống nó báo dưới cái lỗ tai. Nó nói mày nghe như vậy màu trật, con chó sủa mà mày nói xe chạy thì không đúng. Hiểu không? Nó không phải như vậy. Mà tại nơi cái chỗ mà cái nhĩ căn đó thì nó có cái nhĩ thức, cái nhĩ thức nó phân biệt nó báo rằng đó là tiếng chó sủa chớ không phải là tiếng xe chạy. Con hiểu đây chưa? Chớ không phải cái ý thức nó chạy xuống đó nó điều khiển nó làm việc, không phải. Nhưng mà trong cái điều khiển đó là trên cái não bộ đó, nó có những cái tế bào, ở trong những cái tế bào đó nó có những cái thần kinh. Bây giờ cái âm thanh tác động vào, đụng vào cái thần kinh mà nhĩ căn của nó đó là cái lỗ tai. Cái thần kinh nó báo về trên óc thì cho nên ở trên óc nó mới nhận ra thì nó nhận ra bên cái tế bào mà chỗ nhĩ căn đó của nhĩ thức đó. Nó báo cho cái tế bào nhĩ thức đó biết rằng đó là tiếng con chó chứ không phải tiếng xe. Cho nên cái nhĩ thức nó biết. Chớ không phải báo qua cái tế bào của ý thức được. Cái phận sự nào nó, bởi gì nó nhiều cái loại tế bào, cũng như bây giờ một cái phần nào Thầy ví dụ:

Như một cái phần nào ở trong cái máy vi tính mình bấm một cái nút nó hiện ra một cái thực đơn tức là một số những cái điều kiện. Bây giờ mình muốn sử dụng một cái điều kiện gì, mình phải bấm cái nút để cho cái điều kiện đó nó hiện ra thì nó mới hiện ra cái đó. Thì cái tế bào và thần kinh ở trên đầu của chúng ta nó rất nhiều. Cho nên khi mà cái tiếng động đó nó đập vô cái nhĩ căn vì vậy cái thần kinh đó nó báo ở trên cái tế bào ma nhĩ thức đó, chớ không phải báo trên cái tế bào của ý thức. Con hiểu chưa? Bởi vì ở trên đó nó li chi cũng như là cái máy vi tính của chúng ta hiện giờ vậy. Mà cái máy vi tính mà người ta chế ra thì người ta cũng nghiên cứu qua cái bộ óc của con người, người ta chế ra thì cách thức nó như vậy. Cho nên ở đây thì nó không phải là do cái não bộ với ý thức mà điều khiển mắt, tay, mũi, miệng, thân, ý. Mà đức Phật nói nó có sáu cái thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức nó rõ ràng. Cho nên đối với thân chúng ta nó có một cái ý thức mà nó có sáu cái thức, chớ không phải là một. Còn đối với cái tưởng đó thì nó chỉ có một cái tưởng thức mà thôi chớ không có nhiều.

(01:08:58) Phần 2: Tỉnh giác trong mọi công việc làm. Tỉnh giác là cái ý thức tỉnh như hồi nãy Thầy nói. Bây giờ chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nè: “ Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Đó là ý thức chúng ta điều khiển pháp hướng. Cái ý thức, con hiểu không?

Bây giờ có một cái niệm, cái niệm khởi đó gọi là vọng tưởng. Tức là tưởng thức đó nó phát khởi ra cái niệm. Thì bắt đầu chúng ta dùng cái ý thức mà phân tích hay là quán xét cái niệm đó để chúng ta biết cái niệm nó thiện ác chúng ta xả ly. Thì cái đó gọi là ý thức con hiểu chưa? Đó thì tỉnh giác là sống ý thức. Cho nên chúng ta sống với ý thức chớ không phải chúng ta sống với tưởng thức. Hiểu chưa? Mà chúng ta sống trong cái ý thức thì chúng ta sống trong cái hành động tỉnh. Như bây giờ chúng ta biết hơi thở ra hơi thở vô đó là ý thức. Mà có một cái niệm khác khởi ra thì đó là tưởng thức. Cho nên gọi là vọng tưởng chớ ai gọi là vọng thức bao giờ. Phải không con hiểu không?

Gọi là vọng tưởng vì cái tưởng đó là cái tưởng thức nó hiện ra nó hồi tưởng lại những cái sự kiện xảy ra trong quá khứ. Đó, thì ở đây để phân biệt được như vậy để thấy được cái chỗ đúng chỗ sai. Cho nên khi mà chúng ta tu là chúng ta lấy cái ý thức chúng ta trở về với sự hiện tại mà chúng ta tu tập để làm cho cái sức tỉnh. Sức tỉnh thức này nó sẽ không có niệm thiện niệm ác thì nó đi vào cái sự tĩnh lặng. Nó đi vào tĩnh lặng đó thì nó biến vào một cái trạng thái của định tưởng. Nó biến vào cái trạng thái của định tưởng, thì khi mà nó thành cái định tưởng đó thì nó bắt đầu từ cái Không Vô Biên Xứ Tưởng cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Cho nên nó là những cái định mà không có làm chủ sự sống chết.

Cho nên trong cái bài Tiêu Không thì đức Phật dạy: “ Khi một người mà nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định rồi thì phải trở về nhập cái định, cái định là Tứ thiền đó. Bốn cái định gọi là định Hữu sắc”. Cho nên khi mà tu tập cái định Vô sắc rồi thì chúng ta phải trở về cái định Bất Động Tâm Định. Thì trở về cái định Hữu sắc chớ không phải định Vô sắc được. Định Vô sắc không làm chủ sinh tử được. Trong cái bài kinh Tiểu Không thì Phật có giải thích cho chúng ta biết cách tu từ cái định Không Vô Biên Xứ Tưởng cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Rồi phải muốn làm chủ sự sống chết đó thì phải vượt qua cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định để mà nhập vào cái định mà Bất Động Tâm định giải thoát thì nó mới có Lậu hoặc nó mới diệt sạch. Thì cách thức đó khi mà chúng ta nhập các định tưởng thì chúng ta cũng trở về với cái định, cái định Hữu sắc. Chớ không thể nào mà cái định Vô sắc mà làm chủ được. Cho nên nói tuy rằng thấy cái định Vô sắc tưởng là nó cao nhưng sự thật đó là không cao. Bởi vì ngoại đạo đã là dạy đức Phật tu những cái định này nhưng mà cuối cùng thì đức Phật không có tu thấy kết quả được.

(01:11:57) Cho nên trong cái bài kinh Saccaka thì đức Phật có thuật lại trong cuộc đời tu của mình đức Phật đã tu về hơi thở đã nín thở, năm cái triệu chứng nín thở của đức Phật đã là đưa đến đức Phật mà sắp chết đó. Rồi sau đó đức Phật khổ hạnh ăn ít quá ít cho nên cuối cùng thì cơ thể đức Phật đi không nỗi, đứng dậy không nỗi. Do vì vậy mà sau đó thì nhờ cái người mà chăn dê họ đổ cho đức Phật sữa dê rồi đức Phật mới tỉnh dậy. Rồi sau đó đức Phật mới suy ngẫm cái lộ trình này, đã khổ hạnh đến mức độ như thế này, ức chế thân tâm đến cái độ như thế này mà không tìm được sự giải thoát cho chính bản thân mình. Thì đức Phật cũng rất là đau khổ ở trong lúc bây giờ tìm hết các pháp. Thì bây giờ chỉ có hai vị thầy mà cao nhất trong thời đại này là Ngài Alara-Kalama với Ngài Uất-đầu-lam-phất. Hai người thì đã dạy cho đức Phật đã nhập được những cái định tưởng này rất là cao. Thế mà cuối cùng thì không thấy giải thoát. Không còn cái vị thầy nào mà dạy cao hơn nữa.

Cho nên lúc bây giờ đức Phật mới thọ cái bát sữa dê mới tỉnh lại, tỉnh lại cái cơ thể rất yếu. Cho nên tỉnh lại suy ngẫm cái đạo lộ này không thể giải thoát được. Vậy thì cái đạo lộ nào mà đưa con người đi đến giải thoát này?

Rồi đức Phật mới hồi tưởng lại, nhớ lại trong lúc mình còn bé tám chín tuổi đi theo Vua cha trong cái buổi lễ hạ điền. Tức là Vua cha đi xuống ruộng cày trong cái buổi lễ mà cày ruộng đầu tiên để nông dân bắt đầu từ đó mà cày ruộng đó. Thì Vua cha cày ruộng thì đức Phật ngồi dưới cái cây mà Râm-pia, cây râm-pia tức là cây Diêm phù đề đó. Ngồi ở dưới đó mà đức Phật ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền. Đức Phật mới nhớ lại hồi nhỏ mình đã có một cái trạng thái tu như vậy. Thì đức Phật mới nhớ lại, nhớ lại đức Phật mới nói đạo lộ này có thể nói rằng giải thoát. Nhưng mà sao lại còn dục? Bởi vì ly dục ly bất thiện pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, cho nên còn cái hỷ lạc, đức Phật mới nói còn hỷ lạc làm sao mà giải thoát được. Nhưng đức Phật lại lập trở lại một lần nữa đức Phật nói ly dục, do ly dục sanh hỷ lạc. Do ly dục mới sanh hỷ lạc. Cái dục lạc này phải cho ly. Còn cái dục lạc kia là mình chạy theo dục lạc, nó có cái dục đó nữa. Còn cái này do ly dục mà nó có cái dục lạc. Thì cái này có lẽ đạo lộ này là giải thoát.

Đức Phật suy ngẫm như vậy. Nhưng đức Phật suy nghĩ đến cơ thể của mình bây giờ suy yếu quá đứng dậy không nổi thì làm sao tu nổi cái pháp môn này. Cho nên đức Phật mới nói thôi bây giờ ta trở lại đời sống ăn thô thực. Tức là ăn ngày một bữa, rồi ăn có đồ ăn đồ uống, đức Phật gọi là thô thực. Còn ăn mà ví dụ như ăn bảy hạt mè hoặc là ăn cháo đậu xanh đậu đen đò này kia mà ăn một muỗng một ngày ăn một muỗng vậy đó. Cho nên ăn ít quá cho nên vì vậy mà cơ thể đức Phật suy yếu. Và bây giờ suy yếu như vậy thì làm sao? Cho nên đức Phật mới xin mấy cái chú mà chăn dê, chăn bò mấy chú cúng dường cho đức Phật để đức Phật hồi tỉnh lại mà tu tập. Mấy chú đó sẵn sàng giúp đỡ cho đức Phật. Nên khi đức Phật ăn uống lại mạnh khỏe thì các vị tỳ kheo năm anh em Kiều Trần Như thấy đức Phật đã ăn uống như vậy, ăn uống trở lại như vậy. Thì do đó ông này hết khổ hạnh rồi, choi nên ông này không có chứng đạo được. Thôi mình bỏ đi không có chơi chung với ông này nữa.

Cho nên bây giờ còn một mình đức Phật, không có ai giúp đỡ cho mình chỉ nhờ mấy cái chú chăn bò chăn dê này giúp đỡ thôi. Sau đó đức Phật được khỏe rồi đức Phật mới ôm bình bát đi xin. Đi xin mới đi đến cội Bồ đề, từ ở cội Bồ đề đó đức Phật chọn lấy cái chỗ yên tịnh đó mà tu tập. Chỉ có một mình mình mà thôi. Cho nên đến cội Bồ đề đức Phật mới thầy là chỗ này là chỗ lý tưởng có thể ngồi đây tu và mình có thể dùng cái đạo lộ từ cái Sơ thiền này đi đến Tứ thiền từ nay có thể có lẽ là mình sẽ giải thoát được. Từ đó đức Phật mới đến chỗ đó mà chọn cái chỗ ngồi. Rồi chọn chỗ ngồi rồi, rồi mới cái số mà mấy chú chăn bò chăn trâu này đó mới giúp đỡ cho đức Phật. Đức Phật mới phát nguyện: “ Nếu ta không thành đạo, nguyện nát xương dưới cội Bồ đề chớ không đứng dậy”.

(01:16:20) Thì sau khi bình phục được sức khoẻ rồi đức Phật mới bắt đầu, bắt đầu tức là bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề. Trong bốn mươi chín ngày đó có bảy ngày liên tục đức Phật nhập từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền rồi hướng tâm đến Tam Minh mà thành tựu đạo giải thoát.

Đó thì một cái bài kinh rất rõ ràng là đức Phật hồi tưởng lại cái đạo lộ trong lúc bé bảy tám tuổi phát giác ra được cái đường đi giải thoát. Và chúng ta bây giờ Thầy cũng từ cái chỗ mà quá là trên bước đường tu tập đường cùng của mình rồi cũng được Hòa thượng Minh Châu nói làm cho Thầy thức tỉnh. Chớ còn lúc bấy giờ thì rất là trách cái Đại thừa là cái pháp mà lớn vĩ đại mà tu không được thì Tiểu thừa mà tu ra cái thứ gì. Cho nên đâu có nghĩ tới cái đều đó. Nhưng mà khi nhớ cái lời của Hòa thượng Minh Châu đó nói rằng nó dìm đạo Phật, nói rằng nó đặt cái tên Tiểu thừa để mà làm cho cái đạo Phật này nó tiêu đi. Do cái nhớ lại những cái lời mà giảng dạy năm xưa của Hòa thượng Minh Châu đó thì làm Thầy tỉnh lại. Biết chừng đâu chừng cái đạo lộ này có thể đưa mình đến cái giải thoát chính chăng. Cho nên cũng là một cái trường hợp như đức Phật ngày xưa, nhưng mà đức Phật khác. Còn Thầy thì trở về với đạo Phật.

Cho nên cái cuộn băng mà Thầy gửi cho Hòa thượng Thanh Từ đó thì các con thấy Thầy đặt cái tên là “Trở về”. Có không các con? Đó thì “Phật Môn Bảo Huấn” là cái cuộn băng đầu. Còn cái “Trở về đạo Phật” là Thầy so sánh giữa Thiền Đông độ với Bốn thiền. Để cho Hòa thượng tỉnh thức được ở cái đường đi mà Thầy đã khoắc khoải trong nội tâm của Thầy rất lớn. Nhưng Hòa thượng không có hiểu được Thầy. Cho nên do vì vậy mà khi mà Hòa thượng viết trong cái cuốn mà “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu hành của tôi” đó thì đức Phật có bài bát ở trong Bốn thiền là đức Phật đã tu nhập Bốn thiền. Nhập Sơ thiền do ly ngũ dục nhập được cái Sơ thiền thấy không có kết quả giải thoát cho nên đức Phật bỏ không có tu hành. Mà chính bài kinh Saccaka đức Phật đã hồi tưởng lại cái pháp môn đó. Rồi mình thực hiện để mà giải thoát. Cho đến bây giờ chúng ta cũng đi trở về con đường đó mà thấy được sự làm chủ. Và đồng thời chúng ta thấy cái đường lối mà đức Phật đã tu dạy lại mình thì cái pháp hướng tâm rất là tuyệt vời.

5- NHƯ LÝ TÁC Ý

(01:18:59) Và cái phần mà cô ở đây Thầy chưa có trả lời hết vì quá nhiều. Cho nên Thầy chỉ trả lời những cái quan trọng.

Cô Minh Cảnh hỏi Thầy về cái phần pháp hướng. Pháp hướng tâm ở chỗ mà đức Phật dùng đó là Như Lý Tác Ý. Các con thấy Như Lý Tác Ý. Còn ngoại đạo nó dùng pháp hướng tâm đó như các con thấy các nhà thôi miên. Vậy thì cái pháp hướng tâm của nó, nó sử dụng bằng tưởng chớ không phải bằng ý. Còn Phật dạy thì Như Lý Tác Ý. Cho nên do chỗ xả tâm của chúng ta vì vậy mà tâm tưởng chúng ta nó không còn tưởng dục. Cho nên nó mới thuộc về cái pháp Như Lý Tác Ý nó chơn chánh. Còn không khéo chúng ta không xả tâm mà chúng ta lại dùng cái pháp hướng nó cũng vi diệu, nó cũng có hiệu quả nhưng nó sẽ đưa chúng ta đi bậy. Nó làm chúng ta rối ren cơ thể, nó làm chúng ta muốn chết luôn không phải vừa. Hễ bảo nó nhắc nó cái bắt đầu nó làm theo. Nó làm theo rồi quýnh rồi cái chúng ta nhắc nó nó làm nữa. Nó làm riết rồi chúng ta lúc hơi chúng ta chỉ còn có nước mà chết thôi chứ còn không có còn.

Cho nên thầy Thiện Thuận về đây đó được Thầy dạy cho cái pháp hướng tâm thì ông đã nhập vào cái định tưởng, rồi thì ông ở trong định tưởng ông lại nhắc cái tâm của mình. Ôi thôi cái cơ thể ông sôi lụp bụp lên cũng như là cái nồi cơm sôi, ông hoảng hồn hoảng vía ông không biết làm sao. Cho nên trong lúc đó thì ông còn nước có la làng thôi chứ có gì. Nhờ la mà Thầy xả cho ông ấy. Đó thì các con thấy trong vấn đề dùng pháp hướng nó có tai hại chứ không phải không tai hại. Mà vì nó có hiệu quả chứ không phải không hiệu quả. Ở ngoài đời người ta gọi là pháp ám thị. Ám thị Tự kỷ ám thị. Trong đạo thì đức Phật dạy Như Lý Tác Ý. Chữ Như Lý Tác Ý thì các con biết Tác Ý là cái ý tứ của chúng ta chớ không phải tưởng. Còn nếu không khéo các con dùng tưởng các con sử dụng nó là tiêu. Cho nên ở đây chúng ta sử dụng để mà xả tâm chớ chưa đi vào định được. Khi nào mà xả tâm hết thì chúng ta dùng nó vào định rất dễ. Đó là những cái phần sau này nó sẽ trở thành những cái câu trả lời nó Thầy viết thành văn để cho nó thực tế và cụ thể những cái bài cho nó có cái giá trị sau này. Để giúp cho người ta tu tập. Cũng như trả lời Minh Tông về cái chỗ mà Tịnh Chỉ Hơi Thở với cái hiểu là đình chỉ hơi thở. Tất cả những cái này những cái nguy hiểm rất là nguy hiểm cho cái con đường tu tập theo đạo Phật.

6- LỜI RĂN NHẮC TU SINH

(01:21:37) Bây giờ thì còn những cái phần mà cô Diệu Thành hỏi Thầy đó lần lượt Thầy sẽ trả lời sau vì cái thời gian thì chúng ta cũng không còn có nhiều và hằng ngày thì chúng ta đến gặp thì chúng ta chỉ nói lý thuyết chứ còn cái thực hành thì không có. Cho nên Thầy chỉ muốn cái thì giờ mà gặp các con đó là chỉ dạy cái thực hành hơn là cái lý thuyết suông như thế này. Để ghi lại trong băng để nghe chơi cho nó vui hoặc là viết lại thành sách để cho nó vui chớ nó không có cái thực tế. Còn nếu mà nó cái thực tế thì chúng ta phải đi vào cái thực hành chẳng hạn nào như mỗi ngày mà các con được mà sự hướng dẫn thực hành thì chắc chắn là tiến bộ rất nhanh. Là vì Thầy thì cũng không có thì giờ các con thì cũng không có ai mà kèm để mà hướng dẫn. Cũng như bây giờ mình là người học trò mà được mời cái ông giáo ông đến ổng kèm cho mình học sinh ngữ hoặc toán, thì mình sẽ học giỏi hơn là mình đến nhà trường mình học rồi về đó cứ tự mình làm. Thì đứa nào thông minh thì nó mau đứa nào không thông minh thì nhiều khi nó làm trật nó không đúng. Thì tất cả những cái này là những cái sơ sót rất lớn.

Nhưng mà vì Thầy cũng mong các con đứa nào tu được đỡ giúp giùm Thầy biết bao nhiêu công việc. Vì các con biết hiện giờ đó với cái số thư mà gửi cho Thầy để trả lời đó coi như là gần hai ba chục bức thư mà Thầy mới trả lời được năm mười bức thôi, còn một số rất nhiều. Hỏi đủ thứ chuyện ở trong cái pháp Đại thừa rất nhiều thứ mê tín có, phi đạo đức có, rồi các pháp hành, tu hành cũng rất nhiều. Làm sao mà Thầy trả lời hết. Như cô Diệu Thành hỏi Thầy tu tập thì trong đó có những câu để mà trả lời, nhưng mà những cái câu đó nó cũng nhằm để giúp chúng ta đủ cái niềm tin và cũng giúp chúng ta con đường tu hành cho nó chững chạc hơn, cho nó rõ ràng hơn. Để bước đường đi chúng ta mau hơn. Mà các con nghe những cái gì mà Thầy dạy mà các con cố gắng mà xả được cái tâm luôn lúc nào cũng có một cái tâm hồn vui tươi và an lạc, thanh thản thì lúc bấy giờ mới thấy được cái đạo Phật là thực tế. Mọi cái nó đều là, mọi vật mọi sự kiện ở trên thế gian này đâu có gì mà quý nữa, mà ham mà thích nữa. Mà lại giận hờn phiền não mà phải suy tư lo lắng. Chúng ta chỉ còn có duy nhất là một con đường tu mà thôi.

(01:24:21) Tóm lại nếu các con thấy rằng cái sức tu hành, bởi vì Phật pháp là dành riêng cho những cái người, cái người có ý chí, có nghị lực, có quyết tâm quyết thành bậc thánh. Không phải là những pháp của Phật mà để dành cho những người phàm phu. Vì vậy mà từ cái hạnh sống cho đến những cái thiền định đều là những bậc thánh chớ không thể là bậc phàm phu. Cho nên đọc qua giới luật của Phật các con sẽ thấy đó là tất cả những cái hạnh thánh. Mà muốn làm thánh thì các con đừng có mang tính chất phàm phu ở trong người. Phải bỏ ra thì nó mới làm thánh được. Còn nếu mà thấy mình không thể bỏ cái bản chất phàm phu được thì các con đừng tu cực khổ rồi suốt cuộc đời cũng chẳng ra gì. Chúng ta hãy trở về mà lo lấy cuộc sống nó chưa có muộn với chiếc áo của cư sĩ như cô Thanh Tịnh nè cô Diệu Thành nè, cô Huệ Ân nè, cô Duyên Minh nè. Mấy con đã lỡ xuất gia rồi thì bây giờ dù muốn dù không thì các con cũng phải ráng đi theo con đường này thôi.

Còn riêng các con còn cư sĩ các con thấy rằng cái sức của mình quyết định là chỉ có một đời nay để mà thực hiện cho được cái đạo giải thoát. Nó không khó đâu. Thì các con sẽ bám cho chặt. Nghe lời Thầy dạy cho kỹ xả tâm đừng có giận hờn ai hết, ai nói gì nói, chuyện của ai mình đừng có để ý đến ai làm gì làm, miễn là mình sống làm sao cho tâm thanh thản, an ổn, an lạc không có để một cái gì trong tâm mình dính mắc hết. Thì rất nhanh trong cái thời gian ngắn thì các con sẽ phụ giúp Thầy được rất nhiều việc lợi ích rất lớn. Để Thầy rảnh rang mà Thầy viết cái đạo đức nhân quả. Cái đạo đức không làm khổ mình. Còn ngồi lại soạn cái này. Còn bây giờ ngồi đây mà trả lời ba cái vấn đạo này mãi chắc là mất thời giờ rất lớn không viết được không soạn được cái đạo đức, cái đạo đức rất quý của con người trong hiện tại.

Các con thấy mình không đủ sức thì các con nên trở về gia đình sớm chừng nào tốt chừng nấy, để làm gì? Để mình sống một cuộc sống người cư sĩ có đạo đức tốt hơn là tu sĩ, vì tu sĩ khó lắm không phải dễ. Mà chiếc áo cư sĩ của các con nó không có khó khăn gì, không ai cười. Bởi vì các con chưa có cạo đầu. Tôi chỉ là thực nhân đến để tập thử được thì tôi tiến tới tu mà thấy khó quá thì tôi lùi, có gì đâu. Nhưng mà lỡ các con đã cạo tóc rồi. Mà bây giờ để tóc trở lại thì người ta cười các con thế này thế khác thì các con hãy ráng cố gắng. Đó là cái bắt buộc các con phải gắng. Còn cái người cư sĩ như các cư sĩ các con thì nó không có, không có sợ hãi gì. Được thì tôi tiến tới. Đừng có lỡ dở dở chết dở sống như Thầy. Đời bây giờ ra thì cũng không được, mà đạo thì cũng không biết pháp nào mà tu. Còn bây giờ đời thì ra nó cũng muộn mà đạo thì nó khó lắm. Vì đời sống rất khó. Đời sống thánh mà. Ai chửi không giận mới là thánh chớ. Thánh gì mà một chút mình cũng rên cũng la. Như cô An tịnh chẳng hạn té một chút có chết đâu mà rên mà la. Đừng có sợ. Ôi thôi cái thân này thân uyển giả, cái thân này là thân tứ đại vô thường chết bỏ, nếu mà bỏ cái thân này thì tao có cái thân thánh, không phải sướng sao? Chấp chi cái thân này phải khổ sở về cái té cái đau nhức. Mặc đau nhức gì đau nhức cái thân này là thân bất tịnh. Thân này là cái thân, khi mà mình bị cái trường hợp vậy thân này là thân bất tịnh nè, thân này là thân đất nước gió lửa hợp lại nè, hợp thành nè có cái gì mà của mình đâu mà sợ. Chết sớm chừng nào tao thành thánh chừng nấy. bỏ cái thân này thì tao tiếp nhận cái thân mới. Cái thân thánh là thân thánh nào? Thân thánh là tâm bất động, tâm không dao động trước các thọ thì đó là thân thánh chứ thân thánh nào. Các con thấy rõ.

(01:28:37) Bởi vì giải thoát nó đâu có phải là các con hô phong hoán võ hoặc là các con ngồi thiền nhập định, nín hơi thở không thở là gọi là thánh. Đâu phải thánh cái chỗ đó. Thánh là cái chỗ không dao động tâm của mình. Thì cái thân thánh là cái thân không dao động.

Thì bây giờ cái thân này đâu phải thân thánh. Cho nên khi gặp trường hợp nào chúng ta xem thường nó, chết bỏ. Có ai ở trên đời này sanh ra có mang cái thân này không chết bao giờ đâu. Thì vừa nghe cái đám ma ở phía dưới, vừa kèn trống vừa ngưng thì chỉ có một đêm sáng hôm sau thì chiều thì lại nghe cái kèn trống, mấy ông thầy chùa tụng niệm ở đầu trên. Rồi đây không biết đầu trên xong rồi không biết đầu nào. Thì như vậy rõ ràng là mang cái thân này là đâu có người nào mà khỏi chết đâu. Thế mà chúng ta sợ là sợ cái gì? Mạng này chết là khỏe. Thầy cũng mong rằng bỏ cái thân tứ đại của Thầy đi thì Thầy có một cái thân thánh. Bởi vì tâm Thầy có dao động đâu không phải có cái thân thánh sao? Cái thân thánh nó sẵn sàng nó chờ, bỏ cái này thì nó tiếp nhận cái kia. Vậy mà mình tiếp nhận cái thân thánh lại không ham. Lại đi còn ham cái thân phàm phu này làm gì? Các con hiểu không?

Đó như bây giờ con thấy như cô Huệ Ân đó già yếu tám mươi tám mươi mấy tuổi rồi. Đi đứng nó không vững vàng, sức khỏe nó không nhiều. Quét một chút xíu là nghe mệt. Rồi nghe tức lói nữa nó khổ sở ghê gớm không. Vậy thì bỏ đại cái thân này đi để rồi chúng ta có cái thân thánh nó không đau không bệnh, không tật gì hết. Như vậy không phải sung sướng sao?!?

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ các con hở chút nào đừng có lo gì. Ví dụ như ai có thấy hỏi. Bữa đó bị bệnh, bị đau, bị ho, bị gì đó. Thì nói sơ sơ mà có gì đâu. Thì ai có lòng tốt thì chạy mua thuốc, thì cũng vì tình, cái lòng tốt đó mình uống cho người ta vui chớ sự thật ra mình có cần thiết gì cái thân này. Các con hiểu chỗ đó không?

Cho nên đối với Thầy vì cái tình của cô Út phải chạy đi mua thuốc cho Thầy không lẽ bây giờ bỏ cái lòng, chớ Thầy đâu có bao giờ mà Thầy nói cô Út mua cho Thầy cái viên thuốc đó không. Không bao giờ Thầy bảo, cảm thọ mặc thọ kệ nó. Nhưng mà Thầy có chết chỗ nào đâu. Nợ thế gian nó còn mà làm gì chết. Lỡ nó chết nó cũng chết lâu rồi. Nhưng mà cái nghiệp nợ của mình nó còn thì mang cái thân này đi đến phút cuối cùng.

(01:31:04) Như cô Diệu Thành hỏi: Như Thầy không ngồi thiền nhập định rồi tới chừng chết rồi làm sao Thầy ngồi thiền nhập định được?

À như vậy rõ ràng là cô Diệu Thành cô Minh Cảnh không có hiểu thiền định. Tưởng là bây giờ ngồi thiền nhập định đừng có bỏ ngày nào hết chừng mình chết mình cũng ngồi mới được. Chớ còn mình bỏ mình không ngồi chắc chắn là mình ngồi lại nó đau nhức chân chịu sao cho nỗi. Chắc chắn là chết làm sao ngồi nỗi. Hiểu như vậy là sai!

Bởi vì cái đạo lực nó không phải ở chỗ ngồi thiền. Mà ở chỗ cái ý của chúng ta nè. Điều khiển nó. Bảo cái thân ngồi chết là nó chết. Bảo cái thân sống là nó sống. Cái chỗ đó là cái chỗ đạo lực của chúng ta rồi. Mà tu có cái đạo lực thì cần gì phải ngồi. Muốn ngồi mấy tháng thì nó ngồi, muốn ngồi mấy năm nó ngồi. Mà không muốn ngồi thì bây giờ không gì hết nó đâu có sao. Cho nên ở đây cần thiết ở chỗ đạo lực là chúng ta luyện được cái đạo lực. Chúng ta có pháp luyện, tức là chúng ta có pháp hướng Như Lý Tác Ý. Để tạo thành cái lực đó. Chúng ta ra lệnh nó. Thì bắt đầu các con thấy, tại sao các con hướng tâm nhắc nó có hiệu quả, nó không phải lực sao? Nếu nó không hiệu quả làm sao có lực?

Vậy thì cái lực này nó do tưởng hay hoặc là do ý thức của chúng ta? Nếu do ý thức thì chúng ta làm chủ theo ý của chúng ta. Mà do tưởng thì lúc chúng ta bảo được lúc chúng ta bảo không. Các con thấy rõ cái đạo lực của tưởng đó thì lúc nó được lúc nó không. Còn cái đạo lực của ý thức đó thì lúc nào cũng được. mà cái người đã làm chủ thì phải làm chủ lúc nào cũng được. Chớ đâu phải là làm chủ không được.

Còn riêng về phần cô Út thì cô Minh Cảnh không thấy cô Út ngồi thiền Thầy có khuyên cô Út cố gắng ngồi thiền, cô Út nói con tu mà xả được tâm thì con cũng an ổn rồi, chết sống thì mặc nó con chẳng cần lo, nó chết thì con chết mà nó sống thì con sống, khỏi cần lo gì hết. Nghĩa là con làm sao con sống ở đời con làm sao cho cái tâm mình cho tốt biết giúp người làm tất cả những cái việc gì cho mọi con vật, mọi cái con đều thương yêu như mọi cái, là con thấy con mãn nguyện con rồi. Còn cái làm chủ sanh tử con không có cần thiết cái điều đó. Tới chừng nó chết thì cái lòng tốt của con, con cũng sẽ được cái thân thánh như Thầy khỏi cần. Còn bây giờ Thầy có làm chủ thì Thầy cũng được như vậy thôi. Chứ Thầy có hơn con được đâu, bây giờ con ngồi thiền làm gì? Phải không? Con hiểu không? Bây giờ cái tâm con tốt thì tức là cái thân thánh của con nó sẵn rồi. Thì con cần gì mà phải làm chủ cái này. Tới chừng con chết thì con cũng có thân kia. Mà Thầy có làm chủ nó đi rồi Thầy cũng có cái thân kia chứ Thầy mang được cái thân khác nữa sao. Phải không? Cho nên tu chi cho mắc công. Ở đây mình xả cái tâm cho nó sạch thiệt sạch. Thì tức là mình biết được cái tâm thánh của mình rồi. Thì cái thân thánh mình sẽ có.

Cái luận của cô Út cái luận vậy thì Thầy đâu có cãi chỗ nào được. Các con thấy không? Cho nên cô đâu có cần phải làm chủ sinh tử đâu. Nhưng mà vì Thầy vì cái duyên Phật pháp, Phật đã làm chủ được cái sống chết thì Thầy cũng phải nói làm chủ chứ cái này đâu có cần gì. Chỉ có cái tâm của chúng ta mà thôi. Cho nên trong cái lời tựa này Thầy nói đạt được cái tâm là mãn nguyện rồi. Tâm không giận hờn phiền não ai hết. Tâm không tham ăn tham uống không tham tiền tham của. Thì cái tâm này là tâm thánh rồi. Mà tâm thánh rồi thì khỏe. Thì cái này quá dễ rồi các con nhận xét quá dễ rồi chứ có gì đâu. Chỉ cần cái mà người ta chửi mắng, mà người ta nói gì nói mình như cục đất là được rồi. Có bây nhiêu đó là các con đã thành thánh rồi. Thì cái thân thánh của các con nó sẽ ở bên đó. Bỏ cái thân này là các con sẽ nhập vào thân thánh. Thầy nói như vậy bây giờ các con có cần gì, các con chỉ biết cái tâm các con không dao động thì các con đã biết rằng đã ở trong cái thân thánh rồi chứ còn cái gì đâu. Nó là một cái chỗ giải thoát hoàn toàn các con. Chớ còn đòi hỏi ở cái gì nữa. Người ta nói gì nói mình không giận, không hờn không phiền não hết. Thì cái đó là thánh rồi, tâm thánh rồi mới được như vậy chứ còn phàm phu được như vậy sao.

(01:34:55) Đó, thì hôm nay nói hết để rồi trên cái bước đường tu tập để cho các con biết. Vậy thì bây giờ các con chia ra. Bây giờ đó đứa nào mà tu được nỗ lực tu, mà tu không được thì các con chuẩn bị sửa soạn mình về một cái đời sống cư sĩ hẳn hoi, Thầy sẽ gửi cho những cái bộ đạo đức giải thoát để mà sống cuộc đời sống có đạo đức. Còn những người nào quyết làm thánh. Thánh thì không phải khó mà cũng không phải dễ. Mà chỉ có quyết tâm thì sẽ làm thánh được. Bởi vì một ông thánh không thể nào mà sống như phàm phu được. Còn các con mà lỡ cạo tóc rồi thì các con chỉ còn con đường duy nhất là các con phải đi đến. Chớ các con lùi thì các con trở về mà để tóc lại thì người ta cười lắm đó. Thầy nói chịu không nỗi đâu tâm bởi vì tâm phàm phu các con không phải thánh. Người ta cười các con chỉ còn nước mà trốn đi xứ khác đó. Thầy nói như vậy…​..

(01:35:51) Cạo tóc để làm gì? Để các con còn nước đi tới chứ không đi lui. Còn Thầy ở đây rộng rãi có đường lui mà có đường tới. Cho nên Thầy nói tu được thì cứ tu mà không được thôi đừng ép. Bởi vì con đường này nó lỡ thì các con phải nỗ lực tới tận cùng. Thầy tin rằng ví dụ như bây giờ cô Huệ Ân bây giờ cô không làm chủ được sự sống chết đi mà cái tâm cô tâm thánh. Thì cô bỏ thân này cô sẽ ở trong thân thánh. Cô sẽ thành thánh. Không có chạy đường nào hết, không có trật đường nào. Nghĩa là cô không giận, không lo, không thương, không biết đứa nào. Cô thản nhiên khỏe thì xách cây chổi quét chơi, mệt thì ngồi nghĩ, đau nhức thì cô Út cho thuốc uống khỏi cần lo gì hết. Kệ mặc đau mặc tình nó làm gì làm. Không có lo gì hết. Chỉ các con đừng có lo giận hờn, phiền não, tham muốn cái gì hết. Xả hết tất cả hết thì đó là mình…​

Các con thấy dễ lắm có nhiêu đó thôi. Bây giờ ví dụ bây giờ nhìn chung coi đứa nào thánh mà đứa nào không thánh thì biết chớ. Nghĩa là tâm mấy con không còn giận hờn nữa thì thành thánh. Dễ dàng. Thì thánh đâu còn tham sân si, đâu còn giận hờn. Còn phàm phu thì còn giận hờn, tham sân si. Còn thích ăn thích uống, còn thích ngủ chứ còn thánh đâu có. Thì Thầy nói như vậy để cho các con biết. Ví dụ như bây giờ Thầy làm việc nhiều Thầy mệt nhọc. Thầy chỉ cần ngồi lại trong mười phút, một giờ đồng hồ là phục hồi cái sự mệt nhọc của cơ thể của Thầy. Để cho lấy lại sức khỏe làm việc tiếp tục tới. Cho nên cái tâm mà nó an ổn rồi. Như các con biết cô Út đâu có ngồi thiền cô gì đâu. Nhưng mà cái tâm mà xả được cô làm việc cái năng lực cô làm việc thấy cũng kinh lắm. Phải không các con thấy cái tâm xả thôi mà cái thân nó làm việc kinh lắm. Mà đối với cái thân cô Út các con biết cái thân kể như cái thân bệnh hoạn. Cái thân như rệp. Mà thế mà vẫn làm việc mạnh mẽ như thế. Chớ không phải là yếu nữa. Còn đối với Thầy coi vậy…​

(01:37:45) Cô ở trên Đà lạt rồi như mấy cô ở ngoài Biên hòa với ông thầy bữa đó có đến Thầy đó. Thấy già cả như vậy tu Tịnh độ rồi bây giờ muốn qua đây tu. Mà cũng giữ gìn giới luật vậy muốn nhận ông về để tu lắm nhưng mà sợ không biết ông làm nỗi không rồi Thầy phải gánh thêm một gánh nữa. Một người là mình thấy có một cái trách nhiệm. Như bây giờ mấy con bám theo Thầy, Thầy có trách nhiệm. nhưng mà nghe lời Thầy mấy con mà về Thầy hết trách nhiệm Thầy khỏe lắm. Nghĩa là coi như là Thầy có thể mà Thầy ngồi thiền nhập Diệt thọ tưởng định nhập một năm hai năm ba năm được không ở ngoài không lo. Bởi vì ngồi trong đó như gốc cây rồi thì một vài năm nó khỏe re rồi. Thì còn bây giờ mấy con mà như vậy Thầy không ngồi được đâu. Mặc dù Thầy nói Thầy ẩn bóng nhưng mà nó cũng là cái nỗi khắc khoải không thể nào bỏ mấy con ở ngoài này. Cho nên coi vậy chứ rồi nó cũng đang lo nhưng mà làm sao đừng có tiếp khách nhiều sợ mình tiếp mình nói người ta nghe nó ham tu rồi người ta theo rồi mình mang cái trách nhiệm quá nặng. Khó là khó chỗ đó. Cho nên cứ tìm cách từ chối từ chối tránh thôi chớ không ham.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy