00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

1990 - ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT 02 - LÒNGYÊU THƯƠNG CỦA PHẬT GIÁO

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT 1990

PHẦN 2

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1990

Thời lượng: [1:26:55]

1- CON NGƯỜI KHỔ DO THÂN, KHẨU, Ý TẠO NHÂN ÁC

(01:00) Tiếp tục bài học hôm qua, Thầy kể tiếp câu chuyện "Con Cò Và Con Rùa":

- Mặc dù gặp phải trường hợp thế nào đi nữa chỉ trong vòng nửa giờ là chúng ta đến nơi, bác nhớ nhé. Tôi dặn lại dù gặp trường hợp nào, bác cũng phải ngậm miệng không được nói năng.

Chàng rùa ra dáng điệu hiểu biết:

- Thôi, tôi nhớ mà. Hai bác xem tôi chẳng bằng con nít, dặn đi dặn lại mãi.

Sau khi sửa soạn xong chàng Cò lại tha thiết căn dặn lần cuối cùng:

- Đó, bây giờ bác muốn ho he hay nói gì thì nói đi chứ chốc nữa mở miệng thì nguy hiểm lắm đấy.

(02:02) Xong đâu đấy, cả ba làm theo ý định, bốn cánh vỗ mặt hai cặp chân cò duỗi thẳng. Chàng rùa lẳng mặt đất rồi từ từ lên cao chẳng khác nào chiếc máy bay hai động cơ. Bay được một lúc, mặc dù lần đầu tiên thấy những cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt, đây cánh đồng xanh rì gợn sóng như tấm nhung xanh, kìa con sông trắng phau phau nằm quằn quèo như con bạch xà lượn khúc và cây cối, nhà cửa.v.v…​ Bao nhiêu là cảnh đẹp mắt, dù đã bao lần chàng Rùa định mở miệng để hỏi cho thỏa thích tính tò mò, nhưng may thay mỗi lần định hỏi chàng lại sực nhớ đến lời dặn quan trọng của anh chàng Cò trắng.

Nếu sự đời yên ổn nói làm chi, rủi thay trên đường hành trình của chàng rùa không qua khỏi cặp mắt tinh quái của lũ trẻ. Một đứa la lớn:

  • Anh em ơi ra coi đây nè, hai con cò tha một con rùa. A ha! Vui quá.

Bọn trẻ đồng la ầm lên, một thằng lớn nhất trong bọn hét lớn:

  • A ha! Thật giống hai thằng mộng dắt một thằng mù, a ha! Thầy bói, thầy bói!

Không dằn được tức giận chàng rùa định bụng trả lời:

  • Mặc kệ chúng tao, mắc mớ gì chúng mày. Đồ nhãi con!

Nhưng tội nghiệp thay vừa mở miệng, rùa đã rơi xuống và tan thân vì đụng nhầm một tảng đá.

(04:27) Nhân ác có rất nhiều nhưng không ngoài 10 điều ác, cơ bản dưới đây:

  1. Sát sanh

  2. Trộm cướp

  3. Tà dâm

  4. Vọng ngữ

  5. Nói hai chiều

  6. Nói thêu dệt

  7. Nói lời hung ác

  8. Tham lam

  9. Sân hận

  10. Si mê.

2- GIẾT HẠI CHÚNG SANH ĐEM ĐẾN HẬU QUẢ BI THẢM

(04:55) Mười điều ác này là cái nhân khổ cho chúng sanh triền miên bất tận và trôi lăn mãi trong đường sanh tử luân hồi. Ở đây Thầy sẽ nói về điều ác thứ nhất, đó là sự giết hại chúng sanh, nó đem đến những hậu quả bi thảm cho đời người một cách ghê gớm. Chỉ vì chúng ta đang mê muội nên vui cười sung sướng trên xương máu và sự đau khổ của chúng sanh. Trong kinh Thập Giới nói: “Không nên đốt rừng núi”, nỡ nào giết chúng sanh, moi móc hồ ao, ngăn ngòi, đắp rạch đều là cách thức hại loài thủy tánh.

"Xưa thời kỳ Phật còn tại thế, có hai vị Tỳ kheo đồng đến ra mắt đức Phật. Giữa đường hết nước mang theo, trong khi khát ngặt, thấy một ao nước có trùng li ti, thầy Tỳ kheo lớn tuổi quyết giữ gìn giới không uống nước có trùng, khát quá thầy đành chịu chết. Thầy Tỳ kheo nhỏ tuổi hơn không giữ giới sát, uống no rồi đến ra mắt đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật quở rằng: Ngươi là người ngu si, chấp thân mạng vô thường nghiệp báo này là chân thật, nên không giữ gìn giới hạnh. Tuy ngươi gặp ta nhưng cách ta ngàn dặm, còn thầy Tỳ kheo kia vì có tâm giữ giới, khi chết được sanh lên cõi Trời và đã gặp ta trước rồi."

(06:52) Đây, Thầy nhắc các chú hương đăng và các cư sĩ thắp đèn dầu trên bàn thờ Phật, hay bàn thờ Tổ tiên nên để ý. Nếu không thắp đèn cũng tốt, bằng muốn làm sáng bàn thờ Phật hay bàn thờ Tổ tiên thì các con nên tìm một miếng lưới sắt che trên ống khói đèn để tránh loài vật ham ánh sáng mà bị ngọn lửa thiêu chết. Điều này do các con vô tình tạo ra nghiệp sát sanh, các con không tránh khỏi nghiệp đau khổ khi quả đến. Cho nên vô tình các con muốn làm nơi bàn Phật và bàn thờ Tổ tiên có ánh sáng, không ngờ lại tạo tội đời đời kiếp kiếp, hễ có thân là các con thường hay bị bệnh tật, đau khổ.

Trong Sa Di Lục Giải dạy: “Khi thắp đèn phải dùng những thứ the, nhiễu, giấy, lụa che kín đèn, đừng để cho những trùng, muỗi ngã vào”. Loài vật nhỏ còn thương như thế huống là loài vật lớn như chim thú.v.v..

3- HÃY CỨU GIÚP CHÚNG SANH KHI HOẠN NẠN

(08:16) Trong kinh Tạp Hữu Tạng dạy:

"Xưa có vị Hòa thượng nuôi một chú Sa di, biết chú này còn bảy ngày nữa là mạng chung mới cho về thăm cha mẹ. Chú này đi giữa đường thấy bầy kiến bị trôi theo dòng nước. Chú khởi tâm từ bi thương xót, cởi áo đựng đất, đất nước và vớt kiến lên để chỗ cao ráo.

Bảy ngày chú trở lại chùa, vị Hòa thượng thấy làm lạ bèn hỏi:

- Trên đường đi về nhà cha mẹ, con có tạo điều phước báu lớn phải không?

Chú Sa di ngạc nhiên hỏi Thầy:

- Tại sao Thầy biết được? Trên đường về thăm cha mẹ con đã cứu sống một đoàn kiến bị trôi trên nước."

Này các Phật tử, các con phải giữ gìn cẩn thận từ hữu ý hay vô tình đừng giết hại chúng sanh, đừng ăn thịt chúng sanh. Đó là để tránh cho các con những hậu quả bi thảm và cũng để ngăn chặn ác tâm của các con trong lòng đang trỗi dậy. Ngoài việc không giết hại và ăn thịt chúng sanh, các con còn phải dè dặt có ý có tứ từng phút giây trong mỗi hành động để đối với những vật nhỏ như cá, tôm, ốc, hến, trùng, kiến, muỗi, mòng v.v…​ Bước chân đi phải chịu khó để ý tránh đạp phải bầy kiến, trùng, dế trên sân, trên lộ, côn trùng trên đất. Mỗi sức cẩn thận, ý tứ như thế đều là những công đức thiện tích lũy, bồi đắp cho chúng ta ở hiện tại và mai sau.

(10:25) Từng phút giây tu hành đúng chánh pháp của đạo Phật mà Thầy đã dạy đó là: “Các con nên xây dựng từng viên đá lòng thiện, từng cây rươi miếng mè lòng từ, từng tấm ngói viên gạch lòng bi, để cùng với hồ xi măng lòng xả, xây lên đời sống vị lai ở kiếp sau đầy hạnh phúc an vui là lòng hỷ. Một hành vi thiện, một lời nói lành, một ý nghĩ thương yêu tức là mỗi viên đá đẹp chồng chất lên cho đời sống hiện tại và mai sau của các con đó”.

"Xưa có một anh chàng nghèo hết chỗ nói. Cả sự nghiệp của anh chỉ có một bà mẹ già và chiếc búa đốn củi. Ngày ngày đi kiếm củi về chờ đổi gạo có bao nhiêu anh cung phụng nuôi mẹ bấy nhiêu. Sống trong cảnh nghèo túng nhưng anh biết san sẻ giúp đỡ những người khác. Trong vùng, bất luận gặp một tai nạn gì anh thường giúp đỡ họ tận lực. Anh là người ở trong rừng núi nên người ta đặt anh những món tiền rất lớn để anh bắt các thú rừng hiền lành như nai, khỉ, chồn, thỏ v.v…​ Anh từ chối vì anh là một Phật tử chân chính, không bao giờ anh giết hại một sinh vật nào, dù vật ấy nhỏ như con trùng, con kiến. Chẳng những anh không bắt chúng mà còn thương yêu chúng. Anh thường hằng ngày ngồi chơi trên đồi cỏ để nhìn đàn nai hiền lành đang gặm cỏ bên anh. Những con thỏ hiền lành, anh từng vuốt ve như những con mèo của chúng ta. Vì thế mà nơi hai mẹ con anh ở được nhiều bạn bè đến chơi, đó là thú rừng, những tổ chim được lót trên cành cây bên nhà mỗi sáng chiều chúng hót vang như những bản nhạc tuyệt vời.

Đời sống người Phật tử rất hiền hòa không thể đem tiền mua chuộc làm điều ác."

4- BẢN NĂNG HUNG ÁC TỪ NHIỀU ĐỜI KIẾP

(13:14) Con người sinh ra vốn thiện, nhưng vì ham danh lợi, tài sắc, ăn ngon, mặc đẹp nên mới tạo những điều ác. Ác từ trong tâm đến hành vi và đến lời nói.

"Một hôm thầy trò Bách Trượng đi dạo núi chơi, bỗng có hai con thỏ thấy bóng người liền nhảy ra chạy trốn.

Bách Trượng hỏi đệ tử:

- Tại sao hai con thỏ thấy chúng ta chạy dữ vậy?

Người đệ tử trả lời:

- Tại chúng nó sợ hãi.

Bách Trượng nói:

- Bậy, không phải vậy, tại bản năng hung ác của chúng ta. Chính vì bản năng hung ác của chúng ta đã huân tập nhiều đời kiếp, do đó chúng ta đã từng làm việc ác nên chúng ta phải gặt lấy những quả khổ chớ không có tạo hóa nào làm khổ chúng ta được."

(14:15) Như đã giảng ở trên, khổ vì chính do chúng ta chớ không do ai hết. Trong cuộc đời tu hành các con muốn vào biển Phật pháp để tìm lấy sự giải thoát Sinh - Lão - Bệnh - Tử, nhưng trước tiên phải tu pháp lành, phải giữ gìn giới luật nghiêm định. Thế mà có một số người điên đảo tu hành không chịu khảo nghiệm sự thật của Phật pháp luôn luôn tháo động, kiến giải, mạt sát hạnh lành, phá giới luật, chê giới luật gò bó, không có sự giải thoát ở đó. Vọng tưởng mê chấp cho giới luật là sợi dây trói buộc làm cho người tu thiền không giải thoát như câu: "Các pháp đều không tu, không chứng, không nhân, không quả. Phật chẳng giữ giới, Phật chẳng tu hành, Phật chẳng tạo giữ, Phật chẳng tạo kinh niệm Phật, Phật chẳng lười biếng, Phật là người vô tác, v.v…​".

(15:32) Kết quả của những kẻ này, tự suy luận kiến giải qua các câu kinh này, sống tự tại phóng tâm nên hằng đọa nơi bến mê, biển khổ phá hại Phật pháp làm cho mọi người mất niềm tin Tam Bảo, trọn đời không có nẻo thoát ly như câu chuyện "Giết Kẻ Dẫn Đường":

"Có một đoàn thương gia dự định đến phương xa để tìm kế sinh sống. Đường đi phải trải qua một sa mạc, cả đoàn người không rành đường mới bàn tính với nhau mời một người đi theo chỉ lối, rồi họ cùng nhau khởi cuộc hành trình. Đi được nửa đường họ đến một cánh đồng bao la bát ngát, gặp một ngôi miếu thần, theo tập quán nơi đó đoàn phải giết một người tế miếu rồi mới đi qua khỏi được. Đoàn thương gia cùng nhau bàn luận riêng, ai cũng cho rằng trong bọn chúng ta đều là bà con thân thích và đồng hương, chỉ có người dẫn đường là người ngoài, chi bằng giết người này để cúng tế. Bàn tính xong xuôi, họ bèn đem người dẫn đường ra giết. Cúng tế xong họ lên đường nhưng vì không có người dẫn lối nên cả bọn lạc lõng, bơ vơ nơi sa mạc mênh mông bát ngát, cuối cùng cả bọn đều bị chết ở giữa sa mạc."

5- THIỆN HỮU TRI THỨC, NGƯỜI QUAN TRỌNG NHẤT ĐỜI TU

(17:32) Này các con, muốn tu hành theo đạo Phật phải chọn người Thiện tri thức có đầy đủ kinh nghiệm giải thoát thật sự. Nếu không chúng ta sẽ rơi vào kiến giải do tưởng thức tạo nên. Như đoàn lái buôn kia không có người dẫn đường nên đành chết trong sa mạc. Người tu theo đạo Phật cũng vậy, nếu không Thiện tri thức, chắc chắn sẽ rơi vào mê tín dị đoan hay bị dính mắc vào danh lợi Phật pháp. Còn không thì rơi vào kiến giải tưởng thức, đó là những kẻ sưu tầm, nghiên cứu, tưởng tượng thiếu thực hành. Còn những kẻ có kiến giải, sưu tầm, nghiên cứu và có thực hành thì lại rơi vào trạng thái định của tưởng thức. Chắc chắn những lối tu theo Phật giáo như thế này sẽ không bao giờ có làm chủ được thân tâm và bị chết trong danh lợi, tài sắc mà không lối thoát.

(18:54) Thiện tri thức là một người quan trọng nhất trong đời tu hành giải thoát của đạo Phật. Nếu chưa có Thiện tri thức chúng ta hãy tìm, nhưng phải đầy đủ trí tuệ sáng suốt để chọn người Thiện tri thức như Phật đã dạy:

"Đừng tin theo lời người thuật lại;

Đừng tin theo truyền thuyết lâu đời;

Đừng tin theo lời khuyên quá cảnh cáo;

Đừng tin theo những điều ghi chép trong kinh điển;

Đừng tin theo lời phỏng đoán mơ hồ;

Đừng tin theo sự khảo sát;

Đừng tin vì bị thế lực chi phối;

Đừng tin để làm vừa lòng người đồng đạo;

Đừng tin lời kẻ khác cho là đúng chân lý;

Đừng tin vì lòng tôn kính bậc thầy tổ của mình.”

Chỉ nên tin chắc khi nào mình thực hành những điều đó đem lại sự ích lợi chân thật là mình không còn bị lệ thuộc vào tâm tham, sân hận, si mê. Những hành động thân, khẩu, ý không làm các điều ác, không gây tội lỗi đau khổ cho ai hết, không bị người thức giả chê trách. Nên tránh những giáo lý mà khi thực hành không đem lại sự lợi ích cụ thể cho mình và mọi người xung quanh, không thành tựu viên mãn được sự giải thoát cho thân tâm mình hết khổ não, phiền lụy thì nên lánh xa các pháp ấy, dù chính Phật thuyết giảng các pháp đó cũng không nên tin làm. Chỉ khi nào thực hành chứng nghiệm và xác định điều đó là thiện pháp được hàng thức giả khen ngợi".

(21:03) Xét qua những lời dạy của đức Phật trên đây chúng ta phải chọn người Thiện tri thức là người phải thể hiện được thân giáo chớ không phải là thuyết giáo suông. Người có thuyết giáo, có thân giáo là người có học, có tu chứng, có trí tuệ đầy đủ kinh nghiệm. Nhưng làm sao mà biết họ là người Thiện tri thức? Muốn biết phải xem hành động việc làm, cuộc sống của họ. Họ có biết thương người, biết thương yêu mọi người hay không? Có thị hiện được tâm từ, bi, hỷ, xả hay không? Họ có sống đúng với giới luật hay không? Vì giới luật của Phật là thước đo Thiện tri thức. Chúng ta dựa vào đó mà chọn Thiện tri thức hay lánh xa Ác tri thức.

Trong cuộc đời tu hành theo đạo Phật chúng ta đã chọn mặt gửi vàng, chọn đúng người đã gởi thân tâm mình, quyết liều chết mà tìm chơn giải thoát. Sống gần gũi bên Thiện tri thức chúng ta thường bắt chước tập theo hạnh của Người thì sự tu hành của chúng ta có kết quả tốt. Chọn được bậc thầy có đức hạnh và giới luật nghiêm túc, lại thêm thiền định sâu mầu đó là một phước báu rất lớn và hy hữu cho kẻ nào may mắn.

(22:52) Đến đây là những mẩu chuyện nhỏ trong đời đức Phật chứng minh cụ thể hùng hồn đức Phật là một đại Thiện tri thức, một tâm hồn thương yêu đệ tử vô bờ bến, một tấm lòng từ bi đối với chúng sanh như hư không, biển cả.

"Một hôm đức Phật và thầy thị giả đến một khúc đường rẽ đôi, đức Phật dự định quẹo phải, thì thầy thị giả lên tiếng:

- Bạch đức Thế Tôn đệ tử hữu sự rẽ trái.

- Này Nagasamala không nên, Như Lai có duyên sự quan trọng cần phải độ sanh ở phía tay phải.

- Đệ tử hữu sự muốn rẽ tay trái.

Đức Phật nói như năn nỉ:

- Này Nagasamala, không nên. Như Lai có duyên sự quan trọng cần phải độ sanh ở phía tay mặt. Đừng làm như vậy, hãy theo Như Lai đi về tay phải.

Mặc đức Phật ba lần ngăn cản nhưng Nagasamala không tuân lời, cuối cùng thầy bỏ bát của đức Phật giữa đường và liền đi về tay trái theo sở thích. đức Phật lượm bát một mình thui thủi hướng về phía tay mặt.

(24:29) Một lần khác thì Mê-khí-dá làm thị giả theo đức Phật đi qua làng Chanh-tu tỉnh Ba-chi-na-sa-sa. Buổi sáng thầy đi khất thực với đức Phật, lúc trở về thì thấy một vườn xoài xum xuê mát mẻ, Thầy nảy sinh ý định đến đây tham thiền bèn bạch Phật xin phép. Đức Phật khuyên ngăn ba lần nhưng thầy Mê-khí-dá một mực cãi lời bỏ đức Phật một mình và ra đi về phía vườn xoài để hành đạo.

Cuối cùng những người này trở về lễ Phật xin sám hối. Đức Phật chẳng những không để tâm về những hành động nông nổi gần như phạm thượng của các thầy, mà trái lại đức Phật còn dùng những lời từ mẫn khuyên lơn."

Những hành động từ bi như thế thật khó kiếm được trên đời này. Hành động từ bi bao dung của Thiện tri thức là một bài học cụ thể nhất. Đó mới gọi là thân giáo, nhờ đó chúng ta tiếp nhận và chịu ảnh hưởng sâu đậm. Lúc bấy giờ mới phát khởi tình thương yêu chân thật.

Nhưng muốn có lòng thương yêu chân thật thì phải tu cách nào? Như vừa giảng ở trên phải được Thiện tri thức thân giáo thì tâm từ bi mới phát hiển.

6- NGƯỜI Ở ĐỜI CHƯA CÓ TÌNH THƯƠNG CHÂN THẬT

(26:20) Này các các cư sĩ, các con phải suy tư cho rõ ràng người ta ở trong đời chưa bao giờ có tình thương chân thật. Các con sẽ bảo Thầy nói điều này là không đúng sự thật vì cha mẹ thương con, con thương cha mẹ sao lại nói không tình thương.

Này các cư sĩ, nếu bảo có tình thương thì tình thương ấy là tình thương đổi chác. Ví như chúng ta đến nhà một người bạn chơi thường mua bánh, trái cây làm quà cho các em bé. Các em bé này vừa thấy chúng ta là chạy ra mừng vui hớn hở, đó là các em tỏ tình thương yêu chăng? Tình thương yêu của các em không phải vì thương, mà vì bánh. Nhưng hành động cho và hành động vui lòng nhận đó mới là bắt đầu tập có tình thương yêu cả hai bên.

Khi chúng ta không có dịp đến thăm thường, hoặc chúng ta bị bệnh chết, chúng được tin người cho bánh không còn ở trên trần gian hay không còn gặp nhau nữa thì các em bùi ngùi nhớ, khóc. Đó là sự nhen nhúm mới chút ít tình thương mà thôi.

Tình thương đối với cha mẹ do công ơn sinh thành dưỡng dục có phải tình thương chân thật chăng? Đó là tình thương vì ơn sinh thành dưỡng dục đùm bọc, nuôi nấng chớ không phải tình thương là tình thương.

(28:12) Tại sao người kia không sanh thành dưỡng dục mình có thương chăng? Cũng như cha mẹ thương con vì máu thịt của mình sanh ra, chớ sao con của người khác mình không thương? Do đó mới có mẹ ghẻ con chồng. Vậy chúng ta thương cha mẹ vì ơn sanh thành dưỡng dục cũng như cha mẹ thương con vì máu thịt của mình chớ không phải tình thương người. Bởi vậy muốn có tình thương chân thật chúng ta phải hành, chúng ta hãy tập thương yêu.

7- CÁCH TẬP THƯƠNG YÊU

(28:52) Này các con, tập thương yêu như thế nào?

Tập thương yêu có nhiều cách. Đầu tiên chúng ta hãy tập ăn rau cải, tương, dưa. Có nghĩa là chúng ta tránh khỏi sự đau khổ của chúng sanh, nói đúng hơn vì chúng ta sợ quả đau khổ của chính mình.

Trong kinh Phật dạy rất đầy đủ ý nghĩa nhưng người ta hiểu ở một góc độ lý thuyết như bảo: "Ăn chay, làm lành lánh dữ", lời dạy này rất đúng chớ không phải sai nhưng phải hiểu đây là lời dạy bằng ngôn ngữ suông. Nói một cách khác cho dễ hiểu đó là lý thuyết. Vì thế gian hiện nay người ta tu theo đạo Phật bằng những ngôn ngữ lý thuyết như câu: "Ăn chay, làm lành lánh dữ" là một trong những lý thuyết khác. Cho nên người tu hành không hiểu trọn vẹn những hành động tu hành như thế nào đúng? Như thế nào sai? Và lời dạy nào đúng, đầy đủ sự thực hành và ý nghĩa giải thoát. Sự thật nếu lời dạy có đầy đủ kinh nghiệm thực hành, nhờ thế chúng ta mới tạo nên một nền tảng vững chắc đức hạnh giới luật để xây dựng một ngôi nhà thiền định trí tuệ vĩ đại của đạo Phật.

(30:40) Này các cư sĩ, ăn chay có nghĩa là mới bắt đầu tập luyện lòng thương yêu, tâm đại bi. Muốn tập luyện tâm đại bi mà không hiểu được ý nghĩa ăn chay thì làm sao có tâm lớn, nếu như nói: "Ăn chay, làm lành lánh dữ" câu này có nghĩa trốn tránh thụ động. Chẳng hạn giặc cướp đến nhà bắt cha mẹ khảo tra lấy tiền của thì bấy giờ chúng ta đánh trộm cướp để cứu gia đình mình hay chạy trốn? Nếu bảo vì ăn chay, chúng ta không giết bọn cướp thì cha mẹ chúng ta sẽ bị chết hoặc của cải bị cướp phá. Vậy nói làm lành là làm như thế nào? Và lánh dữ là lánh như thế nào? Đừng ngồi đó mà tưởng tượng thế gian này như một cục đất. Cho nên lời nói: "Làm lành lánh dữ" là một lời nói suông khó mà ai làm được, làm tròn và lánh dữ trọn vẹn. Cuộc đời người ta không cho phép mình "Làm lành lánh dữ" bằng cách trốn chạy thì tâm hồn chúng ta sẽ giày vò và đau khổ như câu chuyện con rắn mà Thầy đã kể ở đoạn trên.

(32:26) Mục đích của đạo Phật là giải thoát thân tâm, vậy ăn chay là một pháp môn đầu tiên để chúng ta tập luyện cho mình có một lòng thương yêu mọi người rất chân thật, không có nghĩa đổi chác. Nếu muốn có sự giải thoát ở tâm mình đứng trước một xã hội loài người, tâm tánh mọi người rất phức tạp điêu ngoa, xảo trá, hung ác, đầy mưu mô, thủ đoạn v.v…​ Nếu chúng ta thiếu lòng thương yêu chân thật thì chúng ta sẽ tự thọ lấy biết bao nhiêu thứ phiền não, đau khổ muôn vàn, không thể nào lường hết được. Bởi vậy chúng ta hãy tập thương yêu, tập thương yêu là phải ăn rau cải, tương, dưa, muối. Tránh sự đau khổ, tránh sự chết chóc của muôn loài, muôn vật. Đó là chúng ta tập nuôi lớn tình thương yêu. Nhưng phải hằng ngày biết nhìn mọi sự đau khổ chết chóc của chúng sanh như chính sự đau khổ chết chóc của chính mình. Nhờ sự nhen nhúm tình thương yêu đó, lâu ngày lòng thương yêu chúng ta mới thực sự có thương yêu.

(34:00) Chúng ta hãy đứng nhìn cái chết một con kiến đang lăn lộn trên mặt đất. Chúng ta đừng vô tình thản nhiên đi qua sự đau khổ ấy. Chúng ta hãy lặng người bùi ngùi trong lúc con kiến xuôi tay chân ra đi trong cõi chết, như đứng trước một người thân của mình. Không bao giờ chúng ta có được lòng thương yêu này nếu chúng ta không chịu khó tập luyện. Sự thương yêu này sẽ xây cho chúng ta một lầu đài bốn tâm vô lượng, đó là từ, bi, hỷ, xả. Bốn tâm này đã thành hình nơi một tâm hồn của chúng ta thì chắc chắn sự giải thoát nơi tâm hồn của chúng ta không còn tham, sân, si nữa. Không còn phiền não đau khổ lo âu suy tính nữa. Tại sao vậy?

Nền tảng vững chắc cho lâu đài giải thoát tâm hồn chúng ta phải xây dựng bằng tâm từ, bi, hỷ, xả. Thiếu bốn tâm này không bao giờ có sự giải thoát chân thật, thiếu bốn tâm này chẳng bao giờ chúng ta có được thiền định sâu mầu. Cho nên sự không giết hại chúng sanh là một hành động ngăn ác để tăng trưởng việc thiện, để nuôi dưỡng lòng thương yêu. Nói một cách khác để xây dựng Bốn Tâm Vô Lượng.

(35:51) Không giết hại chúng sanh đó là hành vi thứ nhất. Trong luật nhà Phật dạy hoặc mình giết, đây là nghiệp thân, nghiệp gây tội, nghĩa là mình thân hành làm việc sát hại hoặc lấy tay, chân, dao, gậy, ngói, đá, v.v…​ Đánh cho nó chết; hoặc đứng xa quăng liệng cho nó chết; hoặc cho nó uống thuốc độc; hoặc xô nó rớt trong hầm, giếng nước, lửa; hoặc cầm gươm, đao đâm chết; hoặc xúi người giết, xúi người đây thuộc về khẩu nghiệp gây ra tội ác nghĩa là xúi người khác giết, muốn tìm người khác giết; hoặc thêu dệt cho người khác tức giận mà giết người; hoặc khen tặng làm cho người khác hừng chí giết hại; hoặc mắng nhiếc; hoặc vu oan giá họa làm tức tối người khác để tự tử chết; hoặc trù ẻo cho nó chết; hoặc yếm bùa chú làm cho nó chết; hoặc thấy người khác giết mình vui theo tùy hỷ đây là do ý nghiệp ác sanh ra tạo tội. Nghĩa là thấy người khác làm việc sát hại mình tùy thuận mà sanh lòng hoan hỷ; hoặc suy tư một âm mưu để giết người, hại người đều đồng một tội như người cầm dao giết người.

(37:47) Không sát hại chúng sanh mà còn phải biết khởi tâm thương yêu.

"Thuở xưa có một vị tu sĩ đi khất thực chợt thấy một người hàng thịt dắt một con con chó về nhà toan làm thịt mà ăn.

Vị tu sĩ thấy vậy động lòng thương nói rằng:

  • Anh ơi, trong đời chỉ có tội sát sanh là lớn hơn hết, xin anh mở lòng Từ Bi mà cho con chó ra.

Vị tu sĩ hết lời yêu cầu khẩn thiết mà người ấy nằng nặc quyết một là muốn ăn thịt con chó đó mà thôi. Vị tu sĩ không biết liệu làm sao bèn bốc cơm trong bát cho con chó ăn rồi rưng rưng nước mắt mà chú nguyện thầm:

  • Ôi! Chẳng biết kiếp trước nhà ngươi làm điều chi ác mà mắc tội rất nặng nên đã làm thân súc sanh mà lại chẳng vẹn toàn tính mạng. Đến nỗi này, còn bị người phân thây xẻ thịt mà ăn là khác nữa. Nay ta nguyện cho nhà ngươi đời đời tội hết, phước sanh, lìa thân khổ thú, mau đặng sanh lên làm người sớm gặp minh sư, quy y Tam Bảo.

(39:28) Vị tu sĩ chú nguyện vừa xong thì con chó cũng ăn hết bát cơm lại quắc đuôi ra lộ vẻ mừng rỡ dường như tỏ dấu vâng lời. Thảm thay người hàng thịt đem con chó về nhà hạ sát rồi mời thân bằng đến ăn uống hỉ hả. Tất cả chỉ vì cho ngon miệng và no bụng mà quên sự quả báo ngày sau."

8- MUỐN HÒA BÌNH THẾ GIỚI THÌ KHÔNG SÁT SANH

(40:03) Từ ngàn xưa cho đến hôm nay chúng sanh vì sự sát hại nhau, ăn thịt lẫn nhau vì thế khắp trên thế giới lúc nào cũng có chiến tranh, không đất nước này thì đất nước khác. Bởi vậy, thế giới bị binh đao khói lửa cũng đều do nghiệp sát sanh của chúng sanh chung tạo nên. Muốn mọi người chấm dứt nghiệp sát sanh, thế giới sẽ được hòa bình, vì thế trong kinh Phật đã dạy:

"Nhất thiết chúng sanh vô nghiệp sát

Thập phương hà xứ động binh đao

Gia gia, hổ hổ đồng tu thiện

Thiên hạ hà cầu bất thái bình."

Xin tạm dịch:

"Nếu mọi chúng sanh chẳng sát sanh

Mười phương đâu có động binh đao

Nhà nhà, trai gái đều tu thiện

Thiên hạ lo chi chẳng thái bình."

(41:42) Khắp trên thế giới mọi người đang khẩn thiết kêu gọi hòa bình vì họ rất sợ đại chiến thế giới thứ ba bùng nổ, nguyên tử sẽ tiêu diệt loài người. Nhưng sẽ không bao giờ có hòa bình, tại sao vậy?

Nếu con người còn sát sanh hại vật, nếu con người chưa tập luyện thương yêu nhau thì dù cho các nhà chính trị tài ba lỗi lạc đi tìm hòa bình thế giới bằng các phương pháp chuyên môn của họ nhưng vẫn chẳng đình chỉ được chiến tranh.

Chúng ta cứ nhìn cuộc sống của con người hiện nay mà biết được thế giới có hòa bình hay không?

Nếu con người chưa biết thương yêu nhau chân thật. Con người còn vì ăn ngon mặc đẹp, còn muốn hơn mọi người, còn giết hại chúng sanh để mà ăn thịt, chẳng có chút lòng thương yêu nhau thì không bao giờ con người có hạnh phúc và thế giới chẳng bao giờ có hòa bình. Hiện giờ chúng ta muốn có hạnh phúc, an lạc, hòa bình thế giới, chúng ta phải làm sao?

(43:42) Chúng ta đi tìm hạnh phúc cho mọi người trong đó có mình, cho hòa bình thế giới thì không gì hơn hết bằng sự giữ gìn giới sát nơi bản thân mình và từng phút giây phải tập, tu tập thương yêu tất cả chúng sanh. Phải biết khóc trước cái chết của một con vật, phải biết đau lòng trước cơn bệnh của người khác như chính mình. Khi nào hầu hết mọi người đều giữ được giới sát và thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau thì khi đó các nhà chính trị mới có giải pháp hòa bình vững chắc mà khỏi phải đi tìm nơi đâu hết. Chính thiện nghiệp bất sát của mọi người chung góp lại mới có thể đem đến nền hòa bình trường cửu cho nhân loại.

9- THƯƠNG YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG CỨU MẠNG CHÚNG SANH

(44:58) Này các cư sĩ, một hôm nào đó các con đến nhà một người quen chơi. Người ấy bảo vợ làm thịt gà để đãi các con, nếu các con thản nhiên làm thinh để cho người ta làm thịt gà, trước sự chứng kiến của các con và đồng tình để ăn thịt thì bảo rằng các con dự vào sự giết hại như chính các con cầm dao giết hại con vật. Bởi vậy các con nên nhớ giới không sát sanh còn có một ý nghĩa tích cực thương yêu bằng hành động cứu lấy mạng sống chúng sanh khi mà mình có thể ngăn được. Bất cứ khi nào có dịp, có điều kiện các con hãy tìm cách cứu lấy mạng sống của muôn loài, cản người giết thú, khuyên người ăn chay, mua chim cá phóng sanh đều là hành động cứu mạng chúng sanh một cách tích cực.

(46:58) Thầy có một người đệ tử rất là giàu có, tỷ phú thường mua hết cả chim, rùa ở Thành phố Hồ Chí Minh phóng sanh. Do hành vi cứu mạng sống của loài vật nên trên bước đường làm ăn nhiều khi xảy ra những tai nạn lưu thông hoặc tất cả những việc khác, có điều là vượt thoát một cách rất là bình an. Chính thiện nghiệp tích cực này sẽ đem mọi sự an vui và sức khỏe cho chúng ta ở ngày mai.

Cách đây hơn một năm có một người cư sĩ ở Đà Nẵng về thăm chùa thuật lại cho Thầy nghe một câu chuyện:

"Ông cư sĩ này có một người bạn chuyên làm nghề bẫy rập chim đem bán, ông này chứng kiến một trận lụt cuốn trôi nhà cửa, người, vật. Từ đó ông hồi tâm tỉnh ngộ, bỏ nghề và phát nguyện mua chim cá phóng sanh, bố thí với đồng tiền kiếm được của một người giáo viên. Dịp may đến ông ta về thành phố Hồ Chí Minh được bạn bè giúp đỡ ông trở thành triệu phú nhưng vẫn làm hạnh phóng sanh và bố thí đều đặn. Cuộc sống của ông bây giờ rất là hạnh phúc, an vui."

(49:02) "Ở Trảng Bàng quê Thầy có ông X, thuở nhỏ nhà nghèo ông phải đi ở cho nhà giàu đem tiền về cho cha mẹ. Mỗi khi trông thấy các đứa trẻ đồng trang lứa dùng ná bắn chim ông đến ngăn cản, còn phần ông khi có tiền ông đều mua chim cá phóng sanh. Lớn lên ông vào làm công cho một hiệu kim hoàn vẫn giữ hạnh phóng sanh không ngừng nghỉ. Người chủ hiệu thấy ông hiền lành đức hạnh nên gả con gái và dạy nghề cho ông. Ông nhanh chóng trở thành một chủ nhân giàu có. Do phước lành này ông sanh được những người con hiếu hạnh, thuận thảo và đẹp lòng hơn nữa, chiêu cảm thiện pháp cả dâu và rể cũng đều hiếu thảo, biết vâng lời. Thiện nghiệp đưa đẩy khiến ông đến gặp Thầy để xin học hỏi những phương pháp tu hành đúng chánh pháp của đạo Phật."

Giữ giới sát chúng ta phải hiểu trên hai ý nghĩa: tiêu cực và tích cực.

(50:49) Tiêu cực là không làm tổn hại đến sinh mạng của chúng sanh, không đoản mạng chúng sanh. Nghĩa là không tự tay mình giết, không xúi người giết, không xu hướng vui theo người giết và không gián tiếp sát sanh bằng cách ăn thịt chúng sanh. Còn tích cực là đem mọi khả năng của mình để cứu mạng chúng sanh, như vớt một con kiến ra khỏi vũng nước, như cứu một con trùng bò trong bếp lửa, như ngăn cản một con mèo đang bắt một con chuột, như mua chim cá phóng sanh, khuyên người đừng giết hại chúng sanh.

10- THƯƠNG YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG HY SINH CỨU NGƯỜI

(52:10) Chuyện "Linh Mục Kolbe" cũng khá cảm động:

"Linh mục Kolbe thuộc dòng thánh Phanxicô ở Ba Lan bị lính Đức bắt giam vào một trại tù khi đoàn quân Đức tràn qua chiếm Ba Lan hồi đệ nhị thế chiến. Một hôm bất ngờ có người vượt ngục trốn thoát, sĩ quan Đức tập hợp tất cả tù nhân và tuyên bố tử hình mười người để đền lại cho một người vượt ngục kia. Hắn rảo qua đám tù xem mặt ai đáng ghét thì đưa tay chỉ vào mặt nói: "Mày", thế là lính Đức xông tới kéo người xấu số đó đứng riêng khỏi hàng ngũ. Có một thanh niên, khi vừa chỉ mặt liền rú lên: "Con ơi, em ơi," nghĩa là anh ta có vợ con ở nhà. Khi đã chọn xong mười người tử tội, chợt có một người thứ mười một trầm tĩnh bỏ hàng ngũ tiến về phía tên sĩ quan Đức, đó là linh mục Kolbe.

(54:05) Linh mục Kolbe đã là một linh mục mẫu mực xứng đáng trong việc truyền giáo. Ông đã từng mở một tờ báo để phổ biến giáo lý rộng rãi trong quần chúng. Khi Đức chiếm Ba Lan, ông cũng bị bắt trong đám tù. Ở trong tù thức ăn thiếu thốn nhưng ông luôn luôn xén bớt phần ăn của mình để tặng cho người tù nào có vẻ mệt mỏi. Hôm đó ông được cho nằm trên chiếc giường nệm nhưng ông đã nhường cho người bạn nào phải bệnh và mình thì nằm dưới đất.

Hồi ông còn nhỏ, có lần ông nằm mộng thấy đức Mẹ Maria hiện ra cầm hai chiếc mũ trắng và đỏ, hỏi ông chọn chiếc nào?

Ông hỏi ý nghĩa mỗi chiếc, đức Mẹ đáp: "Chiếc mũ trắng là trọn đời hiến mình cho đạo. Chiếc mũ đỏ là tử vì đạo", ông lẳng lặng cầm chiếc mũ đỏ.

(55:58) Giờ đây ông đang bước về phía trước, tên sĩ quan Đức quắc mắt hỏi: "Con heo Ba Lan này, muốn gì?" Người tây phương hay chửi nhau bằng thú vật.

Thong thả, trầm tĩnh và vô biên, ông chỉ người thanh niên trong đám tù tử tội và nói: "Tôi xin được chết thay cho người này vì anh ta có vợ con đang chờ, còn tôi thì không có ai chờ đợi".

(56:54) Sững sờ vì kinh ngạc, tên sĩ quan Đức trố mắt lặng im và cuối cùng gật đầu. Thế là người thanh niên được trở về hàng ngũ cũ, còn linh mục Kolbe được xếp vào mười người tử tội đem nhốt riêng trong một trại giam hầm tối. Mỗi sáng lính Đức xuống dẫn một người đem bắn. Những đêm trước đó linh mục Kolbe đã thức suốt để an ủi và cầu nguyện cho họ làm vơi bớt nỗi khổ đau, sợ hãi. Đến ngày thứ mười linh mục Kolbe được tiêm thuốc thay vì đem bắn.

Sau này tòa thánh Vatican có làm lễ phong Thánh cho Cha, có hai vợ chồng và đứa con người thanh niên kia đến dự."

11- THƯƠNG YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG NHẪN NHỤC

(58:35) Tích cực không sát sanh tức là tập thương yêu chúng sanh, thà chúng ta chịu chết để chúng sanh sống, thà chúng ta chịu oan ức mà cứu được mạng sống của chúng sanh như câu chuyện "Nắm Hạt Trai.":

"Hôm nay theo thứ lớp đi khất thực, một vị Khất sĩ tu theo phái đạo Phật phải đặt chân vào một chiếc cổng cổ kính nhưng không kém phần tráng lệ và mỹ thuật của một thương gia giàu có. Ông này có tiếng chuyên môn buôn bán lớn về ngọc ngà, vàng bạc. Vị Khất sĩ đưa tay ấn nhẹ cánh cửa cổng rồi khoan thai bước vào. Người thong thả duỗi bước theo hàng rào để lần đến một nếp nhà cao sang nằm chểnh vểnh giữa một khu vườn vuông vắn. Chung quanh Người hoa lá đang nhộn nhịp trong nắng ban mai và trước mắt Người cảnh giàu sang đang được phô bày diễm lệ.

(01:00:42) Nhưng bình minh trong sạch như lòng vị Khất sĩ. Vị Khất sĩ vẫn trầm tĩnh, nét mặt vẫn bình dị, đôi mắt Người vẫn dịu hiền và cả nụ cười không thay đổi ý nghĩ giải thoát của một nhà tu hành đạo Phật.

Xa xa đàn ngỗng trắng đang đùa giỡn trên đám cỏ xanh mềm, bỗng chúng cất tiếng kêu vang làm ngưng tai vị thương chủ giữa lúc ông ta đang chọn lấy mấy hạt trai để xâu lại thành chuỗi.

Đạo sĩ khất thực, cả một hình dáng yên lặng và thanh tịnh đang nhẹ tiến về phía người thương gia. Sung sướng, người thương gia để luôn cả nắm hạt trai xuống đất, chấp tay vái chào đạo sĩ, rồi vội vàng đi lấy cơm dâng cúng cho Người.

(01:02:16) Trong lúc ấy, đàn ngỗng đứng bên cạnh trông thấy nắm hạt trai óng ả. Chúng lầm tưởng một món ăn ngon, quên cả sự có mặt của đạo sĩ, một con lớn nhất trong đàn lanh lẹ chạy đến và nuốt đi mấy hạt trai. Đạo sĩ hoảng hốt đưa tay đuổi nhưng muộn lắm rồi, cả nắm hạt trai trong nháy mắt đã dễ dàng trôi qua cổ họng con ngỗng khốn nạn. Trong trường hợp này đạo sĩ tự thấy lo ngại, nhưng Người trầm tĩnh lại ngay và yên lặng chờ đợi.

(01:03:23) Giữa lúc người thương chủ đã từ nhà đi ra mang theo một bát cơm sốt dẻo, chàng cung kính quỳ trước đạo sĩ để dâng cúng cho Người. Nhưng chàng vẫn sửng sốt, kinh lạ khi nhìn lại nơi chàng để nắm hạt trai. Một lần nữa chàng đưa mắt nhìn kĩ xung quanh và nhìn lại nơi để nắm hạt trai, rồi bỗng chàng đưa mắt nhìn đạo sĩ mà Người đang im lặng đứng trước mặt chàng. Chàng đứng ngay dậy, tay chàng run lên, mắt chàng như nảy lửa và chàng cất tiếng mỉa mai:

  • Chắc đạo sĩ không lạ gì trước cử chỉ thất lễ đột nhiên của tôi chứ? Mong người trả lại nắm hạt trai quý giá cho chúng tôi.

Trước cử chỉ và lời lẽ của thương chủ, vị tu sĩ khất thực vẫn bình tĩnh không trả lời.

(01:05:02) Thái độ im lặng và thản nhiên của đạo sĩ càng làm cho thương chủ tức giận sôi gan. Chàng lớn tiếng mắng đạo sĩ và gọi gia đinh bắt trói đạo sĩ lại. Đồng thời cho mời hương chức làng để tra hỏi, nhưng đạo sĩ vẫn im lặng chịu đựng trước những lời lẽ đương nhiên chua chát của thương chủ. Trước hình phạt tra tấn của hương chức, nhưng sức người có hạn đạo sĩ không chịu đựng được nữa, Người té xỉu và ngất lịm trên vũng máu.

Giữa lúc ấy con ngỗng trắng khốn nạn kia bỗng cất cánh bay lại bên đạo sĩ chìa cổ hút lấy dòng máu. Sẵn cơn tức giận, thương chủ không một thương tâm tha thứ, chàng xách gậy chạy đến và đánh chết ngay con ngỗng.

(01:06:41) Vị đạo sĩ vừa hồi tỉnh, nghe động đưa mắt nhìn sang, người hoảng hốt kêu cứu cho con ngỗng, nhưng làm sao kịp nữa. Con ngỗng đáng thương của đạo sĩ chỉ còn là cái xác không hồn. Động lòng từ bi, đạo sĩ cố lần lại bên thi hài con ngỗng. Người đưa tay vỗ về và lăm răm đọc kinh cầu nguyện. Cử chỉ tự nhiên, thái độ chí thành thương yêu của đạo sĩ trong sự cầu nguyện đã làm cho thương chủ im lặng quên cả sự đánh mắng. Vài phút sau đạo sĩ đứng dậy và chậm rãi nói với người thương chủ:

  • Nắm hạt trai của ngươi chính con ngỗng này đã nuốt vào bụng nó trong khi người vắng mặt.

(01:08:16) Nghe xong, thương chủ vội bảo người nhà đem mổ bụng con ngỗng để chàng xem hư thật. Quả như lời đạo sĩ, nắm hạt trai óng ả được đưa ra với nắm ruột khốn nạn của con ngỗng bạc phước. Thương chủ vừa trông thấy, chàng liền sụp đầu sát chân vị đạo sĩ, cầu xin người mở lượng từ bi cho chàng sám hối. Chàng than phiền:

  • Sao đạo sĩ không cho tôi biết trước, để tôi lầm lỗi như thế này?

Một câu nói đầy ý nghĩa đã vội mở trên đôi môi của vị đạo sĩ:

  • Hỡi thương chủ, lòng từ bi không giới hạn, ta đã nguyện mở rộng trước mọi đau khổ của chúng sanh. Vì thế nếu ta đem chuyện con ngỗng lầm dại nói ngay với ngươi từ trước, như vậy là ta đã gián tiếp giết hại con ngỗng. Việc ấy ta không bao giờ làm, vả lại ta không thể trái lời Phật dạy: "Manh tâm lưu hải cho chúng sanh, chỉ vì sự an lạc nhỏ hẹp của chúng sanh."

(01:10:35) Thương chủ như mở bừng đôi mắt, đến đây chàng mới nhận rõ cái cử chỉ yên lặng từ trước của đạo sĩ là một ý nghĩa cao quý làm sống lại lời dạy của đức Phật và tỏ rộng đạo từ bi. Chàng tự than nếu tất cả nhân loại và chúng sanh ai cũng biết sống đúng theo lời của Phật dạy và thực hành theo hạnh từ bi như vị đạo sĩ thì còn đâu nữa mọi nỗi đau khổ của cuộc đời. Hơn nữa muốn biết xem thường vật chất thì đến nỗi nào phải tối tăm và lầm lỗi như chàng đã lầm lỗi.

(01:11:45) Giờ phút này lòng chàng như cởi mở và rộng rãi bao la. Đưa mắt nhìn về dĩ vãng, chàng cảm thấy chàng như một căn phòng tối tăm thấp thoải. Và có lẽ từ đây chàng không thể sống lại một cuộc đời nhỏ hẹp chỉ biết lo với vàng bạc, ngọc ngà. Chàng cũng không thể sống lại một cuộc đời nô lệ đầy tội lỗi chỉ biết tìm lạc thú để cung cấp cho tự thân. Một ý niệm trong đẹp nảy nở trong tâm thức chàng. Chàng phải từ rải tất cả để đền trả tội xưa. Chàng phải từ rải tất cả để làm những gì mà lòng chàng ao ước hoài vọng. Đưa mắt nhìn lại ngôi nhà sang trọng của mình rồi chàng mạnh mẽ hướng về đạo sĩ. Chàng cúi đầu đảnh lễ và cầu xin noi chí rộng rãi của Người. Chàng phát nguyện chàng sẽ là một viên đá nhỏ trong vô số viên đá khác để chung góp xây đạo từ bi. Chàng sẽ là một tia sáng nhỏ trong vô số tia sáng khác để cùng nhau nêu cao lời Phật dạy, để đem lại hạnh phúc giải thoát và giác ngộ cùng khắp cho tất cả mọi loài chúng sanh.

(01:14:03) Bởi vậy, chiến tranh làm gì có khi người ta biết giữ giới không sát sanh. Hung dữ, gian ác, trộm cướp làm gì có, khi người ta biết thương nhau. Trên đời này chỉ có tình thương chân thật mới đem đến hạnh phúc cho muôn người. Vì thế giới luật của đạo Phật, giới sát là thứ nhất, đó là cơ bản nền tảng vững chắc của hạnh phúc đời người. Muốn gia đình hạnh phúc an vui, xã hội đoàn kết, thế giới hòa bình mà không tập luyện tình thương yêu thì không khi nào có hạnh phúc, có đoàn kết, có hòa bình. Muốn tập luyện lòng thương yêu mà còn sát hại chúng sanh; còn muốn ăn thịt chúng sanh; còn nhìn trước cái đau khổ chết chóc của chúng sanh với một sự vui sướng thản nhiên như không có sự đau khổ chết chóc thì không bao giờ có tình thương. Và đã không có tình thương thì làm gì có hạnh phúc, có đoàn kết, có hòa bình.

12- THƯƠNG YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG SẺ CHIA

(01:15:45) Này các cư sĩ, trong cuộc đại chiến thế giới thứ hai, người ta kể lại rằng:

"Trong một bãi chiến trường, chỉ còn xác chết của quân lính Nga và lính Đức nằm ngổn ngang. Trong lúc đó có hai người lính bị thương, một người là người Nga, một người là người Đức. Hai người cùng nằm gần bên nhau, chỉ nhận ra tiếng rên khe khẽ mới biết là hai người còn sống. Mặc dù trong chiến trận, hai người là kẻ thù nhưng trong cảnh đau đớn của vết thương hai người vẫn thấy sự đau khổ như nhau. Tuy không trao đổi với nhau được lời nào nhưng nhìn sắc phục họ cũng biết người bên cạnh mình là địch thủ. Người lính Nga biết mình không thể sống thêm được nữa vì vết thương quá nặng trong khi tuyết xuống quá lạnh. Người lính Nga thấy người lính Đức đang thiếp vào giấc ngủ ngon lành biết người này sẽ còn sống được. Người lính Nga cố gắng cởi chiếc áo của mình rồi đem choàng cho người lính Đức. Anh lăn ra nằm co cóng dưới trời tuyết lạnh buốt mà chết."

(01:17:31) Đến phút cuối cùng người ta mới thể hiện được tình thương, mới tập được thương yêu, phải chi người ta biết thương yêu nhau ngay từ lúc đầu thì thế giới đâu có chiến tranh, máu xương đâu có phủ đầy trên chiến địa.

Này các cư sĩ, trong một thời xa xưa đức Phật là một vị vua tên là Thi Thiệt.

"Một hôm có một con chim bồ câu bay thẳng vào lòng nhà vua tỏ vẻ sợ hãi, kêu nhà vua cứu mạng.

Chim Cắt bay tới đứng ở trên điện nói:

- Tâu Bệ hạ, xin ngài trả lại cho tôi con chim bồ câu ấy.

Đáp:

- Trả cho người để làm chi.

- Tâu Bệ hạ, nó là món ăn của tôi, tôi đang đói, trả để tôi ăn.

Đáp:

- Ta có quyền cứu tế cho muôn loài. Nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.

- Tâu Bệ hạ, ngài tự nói cứu tế cho muôn loài mà cướp món ăn của tôi thì tôi phải chết đói. Đối với tôi không phải là một trong muôn loài hay sao?

Đáp:

- Ngươi đói thì có thể dùng thứ thịt khác được hay không?

- Tâu Bệ hạ, vâng, cũng được! Nhưng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng thì tôi mới dùng.

(01:19:31) Nhà vua thầm nghĩ: “Như thế thì phải giết một con vật khác, nhưng nếu giết một con vật mà cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn”. Nghĩ xong, lấy dao cắt một miếng thịt đùi, trao chim cắt và nói rằng:

- Đây ngươi dùng miếng thịt của ta để thay chết cho chim bồ câu.

Chim Cắt ra dáng không bằng lòng nói:

- Tâu Bệ hạ, ngài đã mang danh là một đại thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả. Tôi đây tuy là một con chim nhỏ thực nhưng nếu theo sự công bình thì ngài phải bắt cân để chim một bên, thịt một bên, thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.

Theo lời chim nói có lý phải nên nhà vua sai người bắt cân để chim một bên, để thịt nhà vua một bên. Bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa vẫn thấy còn nhẹ. Vị trí nhà vua cắt hết một vế đùi nhưng vẫn nhẹ như thường. Sau cắt hết hai vế đùi, cho đến hai cánh tay, hai mạng mỡ xong vẫn còn nhẹ. Sau róc hết các thớ thịt ra để lên cũng vẫn thấy còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn. Nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàn cân thì đau quá khí lực đã hết nên ngài ngã lăn đùng xuống đất mê mệt không biết gì.

(01:21:55) Giờ lâu tỉnh lại thầm nghĩ rằng: "Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trong sáu nẻo. Cũng do thân này, tham thân sống này, tiếc thân sống này, vui nó, bảo thủ nó, giữ gìn nó, yêu quý nó. Vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác; vì nó mà biết bao sự đau khổ của muôn loài; vì nó mà biết bao nhiêu người thương ghét giận hờn. Nhưng trái lại, rủi một ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất nước cỏ cây. Chưa bao giờ ta vứt nó đi để hy sinh nó mà cứu mạng chúng sanh. Vậy ta phải tiến lên để đập tan những bức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt. Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân, nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi”.

13- GIẾT HẠI CHÚNG SANH LÀ TỘI LỖI NẶNG NỀ NHẤT

(01:23:20) Những mẩu chuyện trên đây đều nhắc chúng ta một gương hạnh biết thương yêu chân thật. Một hành động thương yêu cao đẹp vô cùng mà chúng ta cần phải hằng ngày trau dồi luyện tập thì mới có được lòng thương yêu, thương yêu ấy. Một hành động, một lời nói, một ý nghĩ không giết hại chúng sanh mà còn thương yêu chúng sanh thì đời đời kiếp kiếp của chúng ta sẽ được quả mọi người thương yêu và mạng sống của chúng ta sẽ được mạnh khỏe và an vui, hạnh phúc.

Ở một phương diện khác, cứu mạng chúng sanh không có nghĩa mua chim cá phóng sanh không. Mà còn làm hành vi chăm sóc chữa bệnh cho mọi người hoặc mình trực tiếp chữa bệnh hoặc mình bố thí thuốc men dụng cụ chữa bênh, xây dựng cơ sở dưỡng bệnh, nhà thương, trạm y tế, nhà bảo sanh v.v…​ Đó là những công đức cần thiết cứu mạng sống con người. Nếu thực hành được những điều này, quả báo trở lại với người này là sự giàu sang phú quý, mạnh khỏe, nhiều bạn bè quyến thuộc thân mến, ít bị người thù oán, tuổi thọ lâu dài, ở vào những địa vị cao trọng, lòng từ bi có cơ hội tăng trưởng dễ dàng.

(01:25:12) Nếu chúng ta có đầy đủ tâm nguyện giữ gìn thiện nghiệp không sát hại nhau, cứu mạng chúng sanh, thương yêu chúng sanh thì đâu có lý do nào mà chúng ta tiếp tục dùng thức ăn huyết nhục của chúng sanh. Dù chúng ta không tự tay giết nhưng bắt buộc phải có người giết mới có thịt cá cho chúng ta ăn. Hơn nữa sự tiêu dùng thịt cá của chúng ta khiến cho nhu cầu của thị trường tăng lên và lò thịt phải tăng gia sản lượng giết thịt nhiều thêm mãi. Nếu nhiều người đình chỉ thức ăn huyết nhục thì lò thịt phải giảm bớt sự giết hại mỗi ngày. Chính sự tiêu thụ gián tiếp của chúng ta đã thúc đẩy sự giết hại trực tiếp của lò thịt và chúng ta phải chịu trách nhiệm hậu quả bởi hành vi ăn huyết nhục này.

(01:26:27) Theo Thầy suy nghĩ: “Đạo Phật là đạo từ bi thì lúc đức Phật còn tại thế những tín đồ đem vật thực cúng dường Phật và chư Tăng đều phải là thức ăn chay. Tại sao vậy? Vì người Ấn Độ chịu ảnh hưởng của Bà La Môn giáo, quan niệm Bà La Môn rằng ăn chay là biểu hiện của đạo đức, của lòng thương yêu chúng sanh, của tâm từ bi”. Thầy cũng không hiểu sao hiện giờ có một số người tự nhận mình là đệ tử của Phật mà lại ăn huyết nhục chúng sanh thỏa thích không có một chút lòng thương yêu và chẳng biết sự đau khổ chết chóc của chúng sanh là như thế nào. Họ chỉ biết ăn cho ngon và bồi dưỡng cho cơ thể mập béo mà không có chút lòng từ bi gì hết. Trái lại còn công kích những người ăn chay cho người ăn chay giữ giới là ngoại đạo.

Này các cư sĩ, người ăn thịt chúng sanh mà tu thiền không thể thực hành đến cứu cánh được, không thể chứng ngộ được. Vì nhân quả nghiệp báo thân mạng và xương máu của chúng sanh tạo nên hoàn cảnh chẳng thuận tiện và cơ thể của những kẻ này chẳng bao giờ được an ổn mặc dù họ đều thông suốt đúng giáo lý của đạo Phật.

(01:28:04) Này các cư sĩ, các con đừng dựa vào câu: "Vật dưỡng nhân" để tạo tội ác. Lời dạy này là của ngoại đạo không phải đạo Phật. Trong tất cả tội lỗi thì tội giết hại chúng sanh là nặng nề nhất, thế nên không sát hại mạng chúng sanh là điều thiện đầu tiên trong thập thiện. Bệnh tật, nghèo nàn, tai nạn, ác đạo, khổ ách là kết quả dành cho những người sát sanh, hại mạng. Khỏe mạnh, giàu sang, an ổn, hạnh phúc, vui sướng là kết quả dành cho người biết cứu mạng chúng sanh.

(01:28:50) Trong đời chúng ta vẫn thường chứng kiến những người thoát nạn một cách lạ lùng, khó hiểu. Té từ trên cao mà xây xát sơ sơ, bị lật xe mà không hề hấn gì, đạn nổ gần bên mà không dính chút miểng. Họ là những người đã từng phóng sanh chim cá và thường ra tay tế độ, cứu mạng sống của muôn loài nên thiện nghiệp luôn luôn hộ vệ họ như hình với bóng, còn hữu hiệu hơn những người lính bảo vệ của các vị lãnh tụ.

Đến đây đã hết giờ, Thầy sẽ dừng lại, ngày mai giảng tiếp. Có chỗ nào chưa hiểu hoặc còn nghi vấn một điều gì chưa rõ, các con cứ mạnh dạn thưa hỏi. Thầy sẽ vui lòng giải thích để các con thấu suốt đường lối tu tập của đạo Phật.

Bây giờ Thầy và các con niệm hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng cho tất cả

Pháp giới và chúng sanh

Đều được thành Phật đạo.

KẾT THÚC.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy