00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

1990 - ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT 01 - ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỤ THỂ CỦA ĐẠO PHẬT

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT 1990

PHẦN 1

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1990

Thời lượng: [1:26:55]

1- NHÂN DUYÊN THẦY DẠY ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT

(00:00) Này các cư sĩ, mở đầu cho bài học hôm nay mang tựa đề Đường Về Xứ Phật. Đường Về Xứ Phật là một tên sách của nhiều cuốn sách, mà các nhà hâm mộ đạo Phật đã ghi chép và thuật lại các cuộc hành trình của các phái đoàn Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa đến thăm xứ Phật và chiêm bái thánh tích nơi mà Đức Phật đã giáng sinh, thành đạo và nhập Niết Bàn. Ở đây Đường Về Xứ Phật không phải là một cuộc hành hương thăm viếng hay chiêm bái mà là một đường lối tu tập rất cụ thể của đạo Phật. Nó được giảng dạy qua sự thực hành một cách dễ dàng nhưng đòi hỏi người tu hành phải có công phu liên tục và tự giác cao độ, khép mình trong khuôn khổ giới luật, năng nổ rèn luyện tâm tánh, đức hạnh và thiền định. Thời gian phải trải qua một quá trình lâu dài, chứ không phải một ngày một bữa.

(01:40) Đường Về Xứ Phật, từ ngày mở cửa thất bước ra, Thầy đã bắt đầu ghi chép lại quá trình tu hành của mình. Gần mười năm, hôm nay đủ duyên lành do một nhân duyên khá đặc biệt. Vì từ khi viết bộ sách này, có nhiều người xin đọc nhưng Thầy đã nhận thấy với tâm niệm họ chỉ tò mò tìm hiểu chứ chưa có người quyết tâm thực hành để cầu đạo giải thoát, vì thế bộ sách này chưa được ai đọc. Cho đến hôm nay ngày 11/6/1990 có một người Phật tử đến thăm chùa, trao cho Thầy ba cuốn băng cát sét và xin giảng cho những bài Kinh mà người cư sĩ có thể thực hiện được con đường giải thoát đúng chánh pháp của đạo Phật. Thầy nhận ba cuốn băng, biết đây là nhân duyên của chúng sanh trong thời điểm đã đến lúc được nghe giảng về đức hạnh của đạo Phật. Bấy giờ, thời điểm trong một xã hội con người đang trên đà đạo đức xuống dốc. Vì thế Thầy chẳng ngại tài hèn trí mọn nên cố gắng đem hết sức mình thuyết dạy, chỉ giúp cho người Phật tử dễ tiếp nhận và thu thập được cái lý thâm sâu của nhân quả nghiệp báo trong đạo Phật. Ngõ hầu, những lời giảng này giúp cho mọi người thức tỉnh hiểu rõ lý nhân quả nghiệp báo. Thường sống có ý có tứ trong từng mọi hành động, mọi tâm niệm, mọi lời nói. Nhờ thế mới thoát khỏi mọi loại khổ đau và mọi bất hạnh của đời người trong cuộc sống. Đó là sự mong ước của Thầy nhưng dù sao Thầy cũng là những kẻ hậu sinh nên thành kính nghiêng mình trước các bậc tôn túc, cao minh, đức rộng, trí dài. Khi nghe qua những lời thuyết giảng này có chỗ nào còn sơ xuất xin hoan hỷ hiệu đính, chỉ dạy cho để lần thuyết giảng sau những bài kinh này được hoàn mãn, sống động và cụ thể, dễ hiểu hơn.

Thầy xin thành kính tri ân!

Ngày 15/6/1990 tại Tu viện Chơn Như.

Kính ghi!

2- ĐẠO PHẬT LÀ TÔN GIÁO DẠY CON NGƯỜI ĐẠO ĐỨC

(05:08) Mở đầu cho bài học hôm nay, người ta nói đến đạo Phật là nói đến đạo giải thoát. Có mấy ai nghĩ đến đạo Phật là một tôn giáo dạy con người đạo đức tuyệt vời. Hễ mỗi khi nói đến đạo đức, người ta nhớ đến Nho giáo, Tam cang, Ngũ thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, v.v…​ Hiện nay, hình ảnh của đạo Phật và việc làm của nó hầu hết là việc cúng bái, cầu an, cầu siêu, ma chay, xin xăm, toán quẻ, cúng sao, giải hạn, xem ngày tốt xấu và thuyết giảng giáo lý từ chương. Chẳng có áp dụng vào giới luật, đức hạnh nghiêm túc, cũng như chẳng thực hiện thiền định sâu mầu phá thọ ấm, làm chủ thân tâm một cách cụ thể. Người ta chỉ thuyết giảng như một lớp học từ cơ bản đến cao đẳng Phật học. Nhưng trước mắt Thầy, chẳng mấy ai làm được như lời đã nói, chỉ biết sống trong danh và lợi do mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ đóng góp.

Thật đáng cho chúng ta suy ngẫm lại con đường tu hành của mình. Theo đúng tinh thần giải thoát của đạo Phật thì việc làm này chỉ ở một góc độ của đạo Phật mà thôi. Bởi vậy, đạo Phật rất thực tế, từ một người phàm phu được hướng dẫn tu tập dần dần trở thành bậc Thánh nhân có đức độ cao sâu, có tâm hồn từ bi biết thương yêu tất cả mọi loài chúng sanh, có thiền định sâu mầu làm chủ được thân tâm một cách cụ thể. Nhưng phải biết con đường giải thoát của đạo Phật phải trải qua nhiều giai đoạn tu tập và rèn luyện công phu hết sức, chứ không phải nghiên cứu học hỏi suông như các nhà học giả.

3- NHỮNG TRƯỜNG HỢP LẠC NẺO TRONG ĐẠO PHẬT

(08:20) Người Phật tử hiện nay có tâm tìm cầu sự giải thoát sanh tử luân hồi trong đạo Phật nhưng họ đã lạc nẻo đi vào con đường kiến giải ngôn ngữ, biện luận, tranh chấp. Còn thực hành thì lại chấp không, cho chơn không diệu hữu bằng cách lý luận, luận giải suông, nghĩ rằng Phật tánh là như vậy. Dù uống rượu, ăn thịt, dâm dục thì Phật tánh không mất. Vì lầm chấp như vậy nên có nhiều vị tu sĩ có vợ con vẫn an nhiên sống phây phây trước mọi người Phật tử thông suốt giới luật! Và hiện giờ người ta còn lập ra phái Tân Tăng để đưa đạo Phật đi đến chỗ suy đồi. Bởi vậy, đối với đạo Phật nếu ai muốn thực hành, tu hành mà không có thiện tri thức để làm chỗ nương, cứ từ chương học giáo lý chắc con đường giải thoát của đạo Phật sẽ không đi đến đâu và càng ngày đạo Phật sẽ bị người ta khinh chê, khinh thường, chê bai. Đạo Phật sẽ không còn là chỗ nương cho ai hết, chỉ là nơi trao đổi vật chất và tinh thần. Lúc bấy giờ, người ta chỉ còn xem đạo Phật là một triết học suông để cho các nhà học giả sưu tầm và nghiên cứu.

(10:29) Trên đường tu tập theo đạo Phật, lại có một số người thực hiện sai lệch. Lầm chấp tưởng thức là con đường tu thiền định nên tiếp tục thực hành tạo ra một thế giới siêu hình mà hầu hết các tu sĩ trên thế giới đều thực hiện. Thế giới siêu hình này có chư Phật, chư Hiền, Thánh Tăng và Thần, Tiên, ma, quỷ, linh hồn người chết. Những người tu thiền dùng tưởng thức tập luyện thiền định thì họ gặp gỡ những linh hồn người chết, Phật, Thánh, Tiên và Bồ Tát. Họ đâu biết rằng cái thế giới siêu hình này là cái thế giới do tâm họ tạo ra. Nó là cái thế giới chủ quan, không có khách quan. Vì thế khi thân này hoại diệt thì cái thế giới kia tan biến như hư không.

Khi người tu tập mà đạt được cái thế giới này thì có những hành động thù diệu, biết chuyện quá khứ vị lai, thường gặp chư Phật, chư Bồ Tát được các ngài hướng dẫn tu tập thiền định. Hầu hết các nhà tu thiền có công phu năng nổ khắp trên thế giới đều được nghe thấy thế giới siêu hình này. Không những ngày nay mà ngày xưa, như các vị tổ sư thiền Trung Hoa còn phải rơi vào cảnh giới này, như ngài Thiên Thai Trí Khải đại sư và ngài Hư Vân Hòa thượng, v.v…​

(13:05) Vì quá ham mê thần thông, cầu biết túc mạng quá khứ vị lai nên người ta không để ý con đường giải thoát của đạo Phật. Không phải ở mục đích đó, mà ở chỗ tu tập thiền định để có một sức tự chủ. Do sức định này phá thọ ấm làm chủ toàn diện thân tâm một cách rất cụ thể và khoa học. Chớ không phải mơ hồ trừu tượng như người ta tưởng.

Có kẻ lại vọng cầu tu pháp môn Đốn Ngộ cho mau rốt ráo nhưng kỳ thực họ chẳng biết lối vào, cứ loanh quanh trên chữ nghĩa văn tự và chấp những kiến giải cho là như vậy sẽ thực hiện được giải thoát. Nhưng cuối cùng họ là người làm giảm uy tín Phật pháp vì giới luật họ chẳng nghiêm túc, đức hạnh họ chẳng đầy đủ, oai nghi tế hạnh họ chưa làm xong, hành động cử chỉ ngôn ngữ đều tỏ ra ngã mạn cống cao, hiu hiu tự đắc, xem thế gian này chẳng có ai bằng mình, thường dùng ngôn ngữ khích bác người này người kia hoặc pháp môn này, pháp môn nọ tạo thành một Phật giáo chia rẽ. Họ không biết khởi đầu sự tu như thế nào nên thường chấp những cái vi diệu, cao sâu, thượng đẳng, chê những pháp môn khác thấp kém, cho những pháp môn ấy tầm thường.

4- ĐẠO PHẬT TU TẬP NGĂN CHẶN ÁC, TĂNG TRƯỞNG THIỆN

(15:13) Bởi vậy, con đường đạo Phật là con đường gần gũi cụ thể với cuộc sống con người. Bắt đầu người thực hành sẽ có kết quả ngay, cũng như vị thiện tri thức bắt đầu chỉ dạy tu hành không có nghĩa đem kinh sách ra giảng từ chương. Mà phải ngay căn cơ trong hành động sai trái tối tăm vô minh hoặc điên đảo mà chỉ cho họ lối tu tập để khắc phục thân tâm không còn phạm phải những lỗi lầm, lỗi ác và luôn luôn chỉ dạy họ tu tập thiền định để họ đủ sức bình tĩnh trước mọi đối tượng, mọi sự việc. Khi có được tự chủ họ mới đủ sáng suốt kịp thời ngăn chặn những ác tâm, ác khẩu, ác thân và giải quyết mọi vấn đề được tốt đẹp và an vui, hạnh phúc.

(16:32) Thay vì bắt đầu sự tu hành họ phải thực hiện giải trừ tâm ác độc để phá đi cái nhân ác do thân, miệng, ý và còn phải luôn luôn tăng trưởng các nhân thiện. Cũng từ đó con người mới tròn đủ đức hạnh thì thế giới mới được hòa bình, xã hội mới được an vui, con người mới thấy được chơn hạnh phúc. Không bao giờ có sự giải thoát khỏi luân hồi sanh tử cho một kẻ chưa giải trừ các điều ác. Nếu một người chưa gạn lọc lòng mình hết những điều ác sẽ không tìm thấy những thù diệu vĩ đại khác nữa trong Phật pháp. Sự giải trừ các điều ác khiến cho một người đi trong sanh tử luân hồi hết khổ đau và được hoàn cảnh thuận tiện để tiến tu thiền định giải thoát. Họ không thể ngồi yên tọa thiền tập định nếu quá thiếu phước hoặc bị những bức bách thống khổ, của ngoại duyên quấy nhiễu. Thế nên cần phải thực hành giải trừ những điều ác, tích lũy điều thiện để làm căn bản vững chắc cho hành trình tu tập giác ngộ ở phía sau.

(18:34) Thời nay, người ta dạy tu thiền dựa theo kinh điển chữ nghĩa của Phật giáo có các pháp môn như niệm Phật, tụng kinh, trì chú, thiền quán, công án, thoại đầu, Lục Diệu Pháp Môn, An Bang Thủ Ý. Nếu như các pháp môn này được các Phật tử tín tâm chấp nhận thực hành, nhưng chẳng ai đạt kết quả tốt, phần nhiều lệch lạc. Từ pháp môn của Đức Phật biến thành tà giáo ngoại đạo như niệm Phật Chuyển Pháp Luân, niệm Phật xa luân, thiền xuất hồn.

5- MUỐN TU HÀNH PHẢI ĐỦ PHƯỚC DUYÊN

(19:39) Một hôm, ông Đỗ Đình Đồng và chúng tôi về thăm một tu viện, ông hỏi một thiền sư:

  • Một người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại gặp những chướng duyên cản trở thì có cách nào tu thiền định?

Thiền sư đáp:

  • Thì họ cứ tinh tấn làm chủ trong mọi lúc.

Ông Đỗ Đình Đồng cười:

  • Thiền như vậy tôi không chấp nhận.

Theo Thầy hiểu ý của ông Đỗ Đình Đồng đó là một thứ thiền lý thuyết ngôn ngữ. Lâu đài tu tập thiền định giải thoát thân tâm ra khỏi bùn nhơ, nước đọng ô uế của thế gian không thể xây dựng trên bãi phù sa mềm yếu của ác nghiệp mà phải được xây dựng trên nền móng đá tảng vững chắc của thiện pháp.

(20:55) Một người nông dân đến thưa hỏi Phật về pháp môn tu hành trong khi bụng đói. Đức Phật biết nên bảo ngài A Nan đem cho ông thức ăn, sau khi thọ thực xong Đức Phật mới vì ông thuyết pháp. Đạo Phật thực tế như vậy, người ta không thể đủ bình tĩnh sáng suốt để từng tự quán tưởng về một giáo lý cao sâu như đạo Phật, hoặc an ổn được trong khi ngồi nhiếp tâm công phu để đi sâu vào thiền định. Khi mà sự đói kém đang hành hạ cơ thể, khi mà mọi hoàn cảnh thống khổ đang bức bách, khi mà cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đang cơn lả người vì đói khổ. Cho nên muốn tu hành phải đủ phước duyên, no cơm ấm áo, hoàn cảnh an ổn, mọi duyên sự ràng buộc phải được thu xếp an ổn trước khi tiến sang qua giai đoạn tu tập cao hơn của Phật pháp, thì mới thấy được những trạng thái thù diệu của tâm hồn. Tuy những trạng thái này vô ảnh vô hình, rất trừu tượng nhưng khi thực hành đạt đỉnh thì lúc nào cũng có mặt. Nếu thiếu phước ngay đây chúng ta sẽ rơi vào trạng thái rối loạn thần kinh, chỉ tu sai một ly hào là trở thành người bệnh tật mất trí suốt đời. Bởi vậy, không đủ phước thì làm sao có hoàn cảnh an ổn để tu tập và vượt thoát qua những trạng thái điên khùng.

6- TÍCH LŨY PHƯỚC THIỆN LÀ PHÁP MÔN MÀU NHIỆM NHẤT

(23:15) Tích lũy phước thiện chính là pháp môn mầu nhiệm nhất để đưa con người đến mọi sự sung mãn và hạnh phúc trong cuộc sống, để xây dựng một xã hội lành mạnh bằng tình thương yêu nhau, ở đây mới có thể gọi lá lành đùm lá rách, mọi người có ấm no, mọi người có hạnh phúc an vui thì đây là con đường giải thoát ở đoạn đầu của đạo Phật, gọi là giới đức, có giới đức mới đủ phước duyên tạo nên hoàn cảnh thuận tiện để tiến tu những giai đoạn sau của đạo Phật.

Bởi vậy, trong cuộc sống hàng ngày, không phải chúng ta đi tìm cơm áo ấm thân hạnh phúc bằng cách chỉ biết làm quần quật trên đồng ruộng hay trong nhà máy hoặc trong văn phòng mà còn phải biết tích lũy việc thiện. Nghiệp thiện có tràn trề thì con người mới có lòng nhân ái, biết thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau, tình người chơn thật mới thấy xuất hiện. Bấy giờ cây lúa mới trĩu hạt, nhà máy mới sản xuất sản phẩm tốt.

7- TỘI HAY PHƯỚC LÀ DO CHÍNH MÌNH LÀM ÁC HAY THIỆN

(24:57) Thiếu phước chỉ vì con người thiếu lòng thương yêu nhau. Vì lòng người chẳng thiện nên thời tiết không tốt, khí hậu chẳng ôn hòa, đồng ruộng bị hạn hán hoặc ngập lụt, cây lúa bị úng thối, nhà máy bị hư sập, sản xuất bị bế tắc. Thiếu phước, đời sống con người còn biết bao nguyên nhân xảy ra tạo cảnh đau buồn sầu khổ. Cũng chính vì lòng người gian ác, tham lam thiếu đạo đức, thiếu lòng yêu thương nhau. Chính tội phước đã đem lại sự trở ngại hay thuận tiện cho cuộc sống con người, hạnh phúc hay khổ đau chính là do chúng ta.

Vì không rõ lý nhân quả nên khi gặp tai nạn khổ ách hay bệnh tật nan y thì người ta đi đến chùa cầu khẩn chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho thoát nạn. Sự thật không thể cầu khẩn van xin như vậy mà được.

Đem một tảng đá quăng xuống hồ nước, tảng đá ấy chìm tận đáy hồ, chúng ta bèn kêu gọi hàng trăm hàng vạn người cùng rước các thầy cúng đến cầu khẩn, cúng bái khiến cho tảng đá được nổi lên mặt nước. Điều này chắc không thể làm được. Cũng như một kẻ làm ác phải thọ lấy sự khổ, không ai cầu khẩn mà thoát khổ được và cũng không ai cứu khổ được.

(27:00) Người làm việc thiện, lòng không mong cầu phước báu đến, nhưng phước báu vẫn đến. Tại sao vậy? Ví như những giọt dầu rơi trên mặt nước, cầu khẩn cho nó chìm xuống cũng chẳng được, không cầu khẩn nó cũng nổi như vậy.

Bởi vậy, tội phước là do chính cá nhân mình, đây là một định luật nhân quả rất công bằng và khách quan.

Khi làm điều ác, chúng ta dù chui xuống biển hay bay lên trời và ở bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi luật này.

Thế nên chính họ, họ đã tạo cho họ an vui hạnh phúc; mà cũng chính họ, họ đã tạo cho họ khổ đau bất hạnh, không có ai cứu giúp họ được bằng chính họ.

(28:08) Hành vi ác sẽ đem đến sự đau khổ cho người đã tạo ra nó và ngược lại hành vi thiện sẽ đón chào chủ nó bằng kết quả hạnh phúc an vui hiện tại và mai sau.

Người gặp nhiều khổ đau ngang trái vẫn có thể chuyển đổi hoàn cảnh đó trở thành an lạc. Nếu họ biết, bằng cách hàng ngày luôn tạo những điều thiện, việc làm thiện này tuy nhỏ như lấp một vũng nước trên đường đi, nhặt một cây gai, một miếng miểng chai trên lộ, tránh một đoàn kiến đang băng qua đường, nâng một cây gậy cho bà lão, dắt một em bé qua lộ, khuyên một em bé đừng làm ác, an ủi một người đang khổ đau, chia sẻ một nửa củ khoai cho người đang đói, nhường chiếc áo lành cho người đang rách tả tơi, tránh xô đẩy chen lấn cho người vào trước hay lên xe, nhường chỗ ngồi trên xe cho người yếu đuối và bệnh tật, v.v…​ Việc làm này tuy nhỏ như giọt nước, nhưng nhiễu mãi lâu ngày cũng sẽ đầy lu nước lớn.

(29:55) Kẻ đang giàu sang phú quý mà không rõ thông lý nhân quả vẫn có thể đi đến chỗ đổ vỡ nếu họ tích chứa ác nghiệp mỗi ngày.

Đức Phật cụ thể hóa các thiện nghiệp qua mười điều lành gọi là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Chúng xuất phát từ các hành động của thân, miệng và ý: hành vi, lời nói và ý nghĩ. Mười Điều Lành này là cốt lõi của đạo Phật, nếu suy rộng là tất cả các điều lành khác. Cho nên Mười Điều Lành này là mẹ đẻ của tất cả những điều lành khác.

8- SÁNG SUỐT NHẬN ĐỊNH THIỆN ÁC TRONG TỪNG HÀNH ĐỘNG

(31:00) Tuy nhiên, giữa cuộc đời bấp bênh tương đối này, ranh giới giữa thiện và ác khó thể phân định rõ ràng. Ít có nghiệp nào thuần thiện mà không xen lẫn chút ác và ngược lại, đôi khi trong ác vẫn có thể gây ra một ảnh hưởng thiện về sau.

Ví dụ:

  • Người chiến sĩ phải tiêu diệt giặc ngoại xâm (Ác) để bảo vệ hòa bình cho quê hương đất nước (Thiện).

  • Người mẹ nuông chiều con (Thiện) nhưng sẽ đưa nó hư hỏng về sau (Ác).

  • Một cuộc cách mạng đem lại no ấm tự do cho xã hội quê hương (Thiện) nhưng lại gây máu đổ thịt tan cho kẻ khác (Ác).

  • Để sửa sang lại đoạn đường bị hư (Thiện) đội thi công phải phá đoạn đường cũ gây trở ngại lưu thông trong thời gian thực hiện (Ác).

  • Một ông vua lên ngôi ra lệnh đàn áp Phật giáo (Ác) khiến cho những kẻ núp áo cà sa hưởng thụ công lao của đàn na thí chủ phải bỏ Chùa nhanh chóng (Thiện).

  • Một người nông dân cày ruộng dùng thuốc rầy giết hại côn trùng sâu bọ (Ác) nhưng khi hạt lúa nặng trĩu bông để mọi người được no cơm lành áo (Thiện).

  • Người Phật tử quý kính chư Tăng đem những vật dùng đẹp đẽ sang trọng đến cúng dường (Thiện) nhưng vô tình đã phá hại sự thanh bần cao cả trong Phật pháp (Ác).

(33:10) Một thầy giáo phạt và đánh học trò (Ác) nhờ thế học trò siêng năng học tập sau này trở nên người hữu dụng cho xã hội và ích lợi cho bản thân cậu bản thân nó (Thiện), v.v…​

Vô số những trường hợp mà thiện và ác gắn chặt vào nhau không thể tách lìa. Do đó chúng ta phải sáng suốt nhận định cả hai khía cạnh thiện và ác trong một hành động thật kỹ lưỡng rồi hãy bắt tay thực hiện, đừng cạn cợt không chịu tư duy cho là thiện mà không ngờ để ý cái ác lớn lao sầm sập ở phía sau thì đó là một tai họa rất lớn cho người hành thiện thiếu trí tuệ hay nói khác thiếu suy tư.

(34:26) Câu chuyện “Con Rắn Độc” nhắc nhở khuyên người hành thiện phải có trí tuệ, thiếu nó hành thiện tức là hành ác:

“Một ngày nọ có một vị Đạo sĩ băng qua cánh đồng, lũ trẻ chăn bò thấy vậy liền ngăn:

- Thầy chớ đi qua cánh đồng này, có con Rắn độc thường cắn giết Trâu Bò

Vị Đạo sĩ mặc lời ngăn cản của lũ trẻ vẫn tiếp tục đi và quả nhiên ông ta gặp con Rắn độc hiện ra giương thẳng đầu, há mỏ, muốn cắn. Nhưng con Rắn không thể chịu nổi cái nhìn đầy từ bi nghiêm nghị và xót thương bao dung của Đạo sĩ, nó liền nằm bẹp xuống. Vị Đạo sĩ liền vỗ về:

- Này Rắn, con đường giải thoát không phải con đường cắn hại, gây chết chóc làm đau khổ cho người, cho vật. Vì sự sống của con mà con cắn hại làm mất sự sống của người khác, vật khác thì sự sống của con sẽ ngắn ngủi và thọ lấy nhiều đau khổ. Chính đem sự sống về con là đem sự chết đến với con, đem sự sống cho muôn loài là đem sự sống cho chính con; vì con đường tu so với những gì con cắn hại, con cắn hại làm sao con giải thoát. Này Rắn, đừng bao giờ cắn hại nữa - nói xong vị Đạo sĩ ra đi.

(36:59) Từ đó con Rắn trở nên từ bi chẳng còn cắn hại ai. Lũ trẻ mục đồng lúc đầu còn đứng xa nhìn ngó, sau ăn quen tiến lại gần, trước còn ném đá dò hơi sau nắm đuôi Rắn mà quất lên trời. Cho đến một hôm Rắn gần chết, Rắn bất tỉnh hàng giờ mới lay tỉnh bò về hang, từ đó chỉ dám đi ăn lúc ban khuya, ngày một võ vàng tiều tụy.

Rồi một hôm vị Đạo sĩ trở về cánh đồng thăm Rắn, gọi mãi mới thấy Rắn mệt nhọc lết ra khỏi hang; hỏi Rắn:

- Hãy nói cho Thầy nghe công quả tu luyện của con.

- Lạy Thầy, nhờ Thầy khai thị cho con, nay con đã đến gần việc thiện, chẳng còn cắn hại một ai.

- Sao hình thể con tiều tụy như thế này?

- Bạch Thầy, nhờ Thầy khai thị, con đã yên lặng chịu đựng sự tinh nghịch của lũ mục đồng mà không hề cắn trả.

- Này Rắn, thật không còn gì dại dột cho bằng, Rắn yên lặng cho kẻ khác hành thân xác con. Này Rắn, con không nên cắn hại ai, hung dữ với ai nhưng phải biết dọa rống lên làm cho kẻ nào muốn giết hại con phải khiếp sợ, phải tự vệ trước sự dữ nhưng không lấy sự dữ trả lời sự dữ, không lấy oán thù trả lại oán thù.”

(39:12) Khi một hành động có chung cả thiện và ác thì kết quả sẽ xuất hiện cả khổ và vui. Thế nên chúng ta phải phân tích ý nghĩa thiện ác thật thấu đáo sao cho cái thiện phải nhiều hơn gấp bội cái ác trong một hành động, và như vậy niềm vui sẽ đong đầy và nỗi khổ sẽ luôn vơi ở hiện tại và mai sau. Nhân thiện đem đến quả vui và nhân ác đem đến quả khổ, quả vui khổ này được hiểu trên hai ý nghĩa xa và gần như sau: Nếu suốt đời chúng ta tạo được nhiều điều thiện thì ngay cuộc sống hiện tại được an vui hạnh phúc, không sợ hãi cũng như không hối hận dù một việc làm ác, không che đậy dấu diếm một hành động sai trái nào, đó là người biết tu sửa mình. Sống hồn nhiên bộc trực thanh thoảng, đối với luật pháp xã hội không lo ngại tránh né, tiếng tốt đồn xa vang dậy, đối diện với cuộc đời tâm tỏa sáng những niềm vui trong sạch. Vị lai về sau, ngay trong đời này hay những đời kế tiếp, chúng ta luôn luôn ở vào những hoàn cảnh sung sướng, thuận tiện, giàu sang, uy quyền, mong cầu điều chi cũng được như ý, được nhiều người kính phục thương yêu và vâng phục. Ngược lại nếu chúng ta đã tạo quá nhiều điều ác thì cuộc sống hiện tại là sự che phủ của bất an, tâm hồn hối hận sợ hãi và tránh né, hổ thẹn và tủi thân, lúc nào trong đầu óc cũng chất đầy sự lo sợ, sợ sệt. Còn về vị lai chúng ta luôn luôn sống trong sự hiện diện những hoàn cảnh đau buồn, ngang trái, bệnh hoạn, tai họa, nghèo nàn, hèn kém. Kết quả gần thì dễ hiểu vì nó là sự suy luận cụ thể của khoa học tâm lý, khoa học xã hội, nhưng kết quả xa thì khó thấy vì nó thuộc phạm vi nghiệp báo luân hồi. Chỉ có những bậc Thánh chứng ngộ mới thấu suốt đường đi phức tạp của nhân quả nghiệp báo, với những chi tiết lắt léo nhất trong vòng lưu chuyển sanh tử vô tận của chúng sanh.

9- NGŨ GIỚI, THẬP THIỆN LÀ NỀN TẢNG VỮNG CHẮC ĐỂ TIẾN TU

(42:51) Một hôm có một người Phật tử giàu có đến xin Thầy dạy pháp môn tu thiền, Thầy khuyên bà ta hãy trở về tu thập thiện một thời gian rồi Thầy sẽ chỉ tiếp những phương pháp tọa thiền nhập định. Sau khi bà ta ra về, một thiền sinh trong Tu viện đến hỏi Thầy: “Bạch Thầy, vì sao bà ta đã giàu có đầy đủ tiện nghi xe hơi, nhà lầu mà Thầy còn dạy tu thập thiện”, Thầy đáp: “Sự giàu có của bà ta chỉ mới xuất phát từ tâm niệm hành vi bố thí, còn những việc làm thiện khác như không nói dối, không tà dâm, không sát sanh, không ác khẩu, không ly gián, không sân hận, v.v…​ Thì bà ta chưa tròn đủ, bà phải dọn mình sạch sẽ trong các pháp thiện rồi mới có thể bước những bước thăng xa hơn. Thập thiện chưa thuần thục thì tu thiền không tiến bộ mà còn rơi vào thiền tà.”

Thật vậy, đối với Thầy Ngũ Giới Thập Thiện là nền tảng vững chắc cho sự tu thiền sau này. Người ta không xét nét giữ mình trong Ngũ Giới Thập Thiện thì làm sao có đủ duyên lành, có hoàn cảnh thuận tiện để tiến tu, để nhiếp tâm.

(44:48) Thật vậy, một người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, bị mọi chướng duyên bức bách thì làm sao có thể tu thiền được. Tu thiền không khó, nhưng khó vì hoàn cảnh không thuận tiện và ngoại duyên chi phối, do đó phải lấy giới luật làm nền tảng.

Bởi vậy, trong kinh giới có dạy: “Đức hạnh là chiếc thuyền qua nước Phật”. Đức hạnh không có thì phước cũng không có, thì lòng người không yên như thuyền thủng bờ kia khó đến. Đức hạnh là thuốc hay thường chữa lành bệnh khổ của chúng sanh. Người không đức hạnh thì người ấy ắt hư thân mất nết, mọi người trong gia đình thiếu đức hạnh thì gia đình ấy ắt lộn xộn không yên như trong nhà tù; mọi người trong một nước mà không có đức hạnh thì nước ấy ắt người người hung tàn, không còn phong hóa kỷ cương gì nữa.

Đức hạnh là nền tảng vững chắc cho cá nhân con người, cho gia đình và cho xã hội. Thiếu nền tảng đạo đức con người trở nên hung ác, lúc nào cũng gặp khổ đau bất hạnh, gia đình thì không thuận, đất nước thì không yên, giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi.

(47:07) Còn những pháp môn tu thiền định nào không đặt trên nền tảng giới hạnh, coi thường giới luật và thiện nghiệp, dù mượn danh Phật tiếng Tổ, nó vẫn chỉ là lối thiền tà ngoại. Hãy đánh giá một người qua thập thiện, thập giới trước rồi sẽ đánh giá công phu thiền định của họ sau.

“Phật cao nhất xích Ma cao nhất trượng”, câu nói này cảnh giác cho tín đồ Phật giáo về sau. Thần thông của Ma rất giống thần thông của Phật, kiến giải của Ma rất giống trí tuệ của Phật, giống thì giống mà phải thì chẳng phải. Thế nên hạnh của Ma thì khác xa hạnh của Phật. Trí thức của thế gian không phải là trí tuệ chánh kiến của đạo Phật. Thế nên chúng ta vẫn thấy bao nhiêu kỹ sư, bác sĩ, kiến trúc sư, giáo sư mà vẫn say sưa tu thiền xuất hồn, thiền điển linh thiêng, tin ông giáo chủ này mê bà sư phụ nọ.

(49:09) Phật tử phải xem kinh điển của Phật dạy, để chiêm ngưỡng giới hạnh tuyệt vời của đạo Phật. Và thấy đức hạnh của Phật và các vị A La Hán thời nguyên thủy. Và để lấy đó làm mực thước để đánh giá những bậc tu hành hiện tại.

Dĩ nhiên chúng ta không thể đòi hỏi người đang tu hành có được tâm hạnh trọn vẹn như Phật, như Bồ Tát, A La Hán. Nhưng ít ra người này phải có tâm thiết tha hướng về giới hạnh, khất ngưỡng thiện pháp, cố gắng giữ gìn giới bổn, lấy đó làm mực thước nỗ lực tu hành. Họ không thể sống chung đụng quá nhiều với thế tục, không thể lộ rõ bản chất tham sân quá thô, không thể thiên về hình thức tế lễ quá đáng và cũng không nên mù quáng tu tập thiền tà.

(51:01) Sau khi đức Phật nhập diệt, một cư sĩ hỏi Tôn giả A Nan: “Bạch Tôn Giả, trước khi nhập diệt, đức Thế Tôn có giao quyền trưởng giáo lại cho một vị nào chăng?”.

Tôn giả A Nan đáp: “Này Cư sĩ, Thế Tôn không giao lại quyền trưởng giáo cho một ai hết, chỉ để lại giáo pháp và giới luật làm chỗ nương tựa cho người sau”. Nếu mọi người đều lấy giáo pháp và giới luật làm chỗ nương tựa, thì đạo Phật không đi lạc vào tà kiến và mê tín quá nhiều như hiện nay. Chính vì người ta đặt niềm tin cuồng nhiệt nơi một vị tổ sư nào đó mà quên đi giới luật và giáo pháp của Phật, nên đạo Phật bị phân hóa và biến thái dần dần, cho đến hôm nay thì dường như hình ảnh chơn chính, bình dị, thanh bần của đạo Phật thuở ban đầu khó thể tìm thấy nữa.

(52:58) Trên đường tu hành theo đạo Phật, chúng ta hãy dựng lại giới hạnh như là một nền tảng quan trọng trong Phật pháp. Những người cư sĩ tại gia có đủ phước duyên tu tập thiền định thì hãy lấy thập thiện, ngũ giới làm giới hạnh kiên cố cho sự tu hành và cuộc đời của mình, đừng tin một thứ thiền nào nếu nó không đề cao đức hạnh giới luật. Hơn nữa, xã hội loài người hôm nay đổ vỡ về đạo đức quá nhiều, chúng ta là những tu sĩ Phật giáo phải thấy bổn phận của mình, Bồ Tát hạnh, xây dựng lại nền đạo đức cho cuộc đời. Và nếu làm điều đó chúng ta phải hoàn chỉnh bản thân mình trong thập giới hạnh Sa di. Nơi bản thân mình đã đạt được những giới hạnh này, thì đó là một gương ảnh tốt cho mọi người thân của chúng ta xung quanh để soi tức là xã hội. Hành thập thiện là điều thiết yếu đem đến mọi tốt đẹp cho mọi cá nhân, cho xã hội và cho những ai muốn tiến xa trên đường giải thoát.

(55:12) Này các cư sĩ, bây giờ Thầy sẽ nói về thập thiện. Thập thiện, Mười Điều Lành được phân tích nơi hành vi thân, nơi lời nói miệng và nơi tâm tư ý như sau:

Hành vi nơi thân:

  1. Không sát sanh

  2. Không trộm cướp

  3. Không tà dâm

Lời nói nơi miệng:

  1. Không nói dối

  2. Không khoe khoang

  3. Không chia rẽ

  4. Không nói lời ác

Tác ý nơi ý nghĩ:

  1. Không tham lam

  2. Không sân hận

  3. Không tà trí kiến

Bấy giờ, chúng ta phân tích từng điều thiện trên đây để thấy giá trị lớn lao của nó.

Bấy giờ, Thầy nói về không sát sanh. Làm con người không ai không biết sợ đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Đó là nỗi khắc khoải lo âu trong lòng người. Đó cũng là một sự trọng đại nhất của đời người, thường sống trong sự đau khổ bệnh tật và chết chóc nên con người đặt ra nhiều câu hỏi về con người.

10- 20 CÂU HỎI VỀ CON NGƯỜI

  1. (57:36) Câu hỏi thứ nhất: Con người sinh ra làm chi để chịu bao nhiêu thứ khổ không thể đếm hết được, rồi một ngày nào đó phải chết, chết trong đau khổ, ít ai tránh khỏi sự đau khổ giày vò của cơ thể trong giờ phút lâm chung. Từ xưa đến nay không ai tránh khỏi cái chết?

  2. Câu hỏi thứ hai: Tất cả những sự đau khổ của thế gian, có phải do tạo hóa sắp đặt, bắt buộc con người phải chịu như vậy chăng?

  3. Câu hỏi thứ ba: Làm sao hết đau khổ?

  4. Câu hỏi thứ tư: Con người từ đâu sanh về đây?

  5. Câu hỏi thứ năm: Chết đi về đâu?

  6. Câu hỏi thứ sáu: Khi chết còn hay mất? Cái gì còn? Cái gì mất?

  7. Câu hỏi thứ bảy: Có phải chăng con người còn có một linh hồn chăng?

  8. Câu hỏi thứ tám: Phải chăng chết là mất hết?

  9. Câu hỏi thứ chín: Có thế giới vô hình hay không?

  10. (59:30) Câu hỏi thứ mười: Thiên Đàng, Cực Lạc, Tây Phương và Địa Ngục có hay không? Các cõi này ở đâu?

  11. Câu hỏi thứ mười một: Cái điểm tuyệt đối có hay không?

  12. Câu hỏi thứ mười hai: Tất cả vạn vật trong vũ trụ do ai sinh?

  13. Câu hỏi thứ mười ba: Trong Kinh nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vậy Phật tánh là cái gì?

  14. Câu hỏi thứ mười bốn: Niệm Phật có phải là thiền định hay không?

  15. Câu hỏi thứ mười năm: Thiền Đốn Ngộ, Thiền Công Án, Thiền Xuất Hồn, Thiền Nhĩ Căn Viên Thông, Thiền Hơi Thở, Thiền Tri Vọng, Thiền Quán, Thiền Quán Tưởng Phật Thánh Tiên hoặc Hoa Sen, Thiền Xa Luân,v.v…​ Tất cả những loại thiền, thiền nào đúng, thiền nào sai và tu thiền để làm gì?

  16. Câu hỏi thứ mười sáu: Tu thiền sẽ làm Phật phải chăng?

  17. Câu hỏi thứ mười bảy: Mục đích của đạo Phật như thế nào? Có phải đạo Phật dạy con người trốn khổ hay không?

  18. (01:01:17) Câu hỏi thứ mười tám: Có phải ăn chay, niệm Phật, gõ mõ, tụng kinh, trì chú, thiền định khi chết được Phật rước về Cực Lạc hay được nhập Niết Bàn?

  19. Câu hỏi thứ mười chín: Niết bàn là gì?

  20. Câu hỏi thứ hai mươi: Tại sao kinh nói kiến tánh thành Phật, khỏi phải tu hành gì hết có đúng chăng?

Này các cư sĩ, bao nhiêu câu hỏi này có những câu hỏi chưa phải lúc hỏi nhưng Thầy cũng sẽ hoan hỷ lần lượt trả lời tất cả. Ở đây Thầy sẽ trả lời những câu hỏi cần thiết và lợi ích thiết thực cho sự tu hành của các con, còn những câu hỏi nào để tìm hiểu chơi thì tùy duyên mà Thầy sẽ giảng nói sau. Cái cần thiết cho cuộc sống của các con hiện giờ là phải làm sao hàng phục được tâm mình, đừng để cho nó ô nhiễm vật chất thế gian, đừng để đắm nhiễm tiền tài danh lợi và sắc dục. Và cuối cùng ngay trên bản thân của các con phải làm sao làm chủ được thọ ấm. Đó là sự quan trọng nhất chứ không phải là những câu hỏi vu vơ không thực tế, không ích lợi, hỏi để hiểu chơi, để thỏa thích tò mò thì đối với sự tu hành của đạo Phật thì không nên hỏi.

(01:03:25) Này các cư sĩ, đạo Phật rất thực tế nên những câu hỏi nào đúng với pháp môn của Phật mà các con có thể tu tập được có kết quả ngay trong khi thực hành. Chứ không phải trả lời bằng những ngôn thuyết lanh lợi, xảo thuật hay bằng những ngôn thuyết làm trò cười cho thiên hạ, hoặc bằng những ngôn thuyết đặc dị, độc đáo, hoặc bằng sự tưởng tượng siêu hình để làm cho mọi người chú ý mình hay để thu hút và quyến rũ những người khác.

Ở đây Thầy sẽ trả lời với các con như thế nào? Có một sự trung thực Phật pháp cụ thể dễ tiếp nhận, dễ thực hành của pháp môn đó. Khi nghe xong các cư sĩ sẽ nhận được ngay mà thực hành rất dễ dàng, như dắt một em bé qua đường, lượm một miếng miểng chai trên lộ, nâng một cây gậy cho bà lão. Đó là những việc tu hành cụ thể mà ai ai cũng có thể làm được.

(01:05:06) Phật pháp dạy chúng ta tu hành làm lợi ích cho mọi người, cho xã hội, cho mình. Trong đó có một nguồn vui, một nguồn an vui hạnh phúc chân thật nơi tâm hồn. Nguồn vui đó là sự giải thoát chân thật của đạo Phật. Mọi người có an vui thì ta mới an vui, đất nước có thanh bình thì lòng ta mới thảnh thơi.

Theo câu hỏi đầu, con người sinh ra làm chi để chịu bao nhiêu thứ khổ không thể đếm hết được? Rồi một ngày nào đó cũng phải chết, chết trong đau khổ, trong thương tiếc. Ít ai tránh khỏi trong giờ phút lâm chung mà không thọ những sự dày vò đau khổ của cơ thể, xem như đó là một hình phạt nặng nề nhất trong đời người.

Để đặt lại những câu hỏi cho rõ ràng: Do duyên gì con người sinh ra, do duyên gì con người thọ khổ? Do duyên gì con người phải chết?

(01:06:31) Để trả lời câu hỏi thứ nhất trong câu hỏi đầu: “Do duyên gì con người sinh ra?” Câu hỏi này chia làm hai phần chính ác và thiện, nếu giảng rộng ra thì rất nhiều nghĩa nhưng tựu trung không ngoài ác thiện.

1- Phần thứ nhất, do một đại sự nhân duyên độ chúng sanh (Thiện) mà Bồ Tát phát nguyện thị hiện, do một nhân duyên từ bi vĩ đại, một tâm hồn đầy thiện pháp, đó là đức Phật Thích Ca giáng sanh tại cõi ta bà này cùng với các bậc Thánh Hiền thể hiện khắp trên thế giới

2- Phần thứ hai, do nhân giết hại chúng sanh mà ta có mặt trên đời này (ác).

a) Tất cả chúng sanh đều có chung một bản năng là ham sống sợ chết. Ngay cả người nghèo khổ nhất trong đời này cũng vẫn làm lụng cực nhọc để sống qua từng ngày, vất vả gian lao như ông lão tiều phu trong ngụ ngôn La-Phông-Ten:

(01:08:14) “Xưa có một ông lão tiều phu quá già yếu, lưng còm gần sát đất, ông chẳng có con cái chi hết. Hàng ngày lên rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo. Một hôm ông vào rừng đốn củi, làm một bó thật to rồi vác về nhà. Trên đường về, ông dừng lại nhiều lần để nghỉ mệt. Mỗi lần dừng bước, ông thở một cách mệt nhọc, cả người ông rung lên và đầu ông choáng váng, ông mới than thân: “Phải chi mình chết cho rồi, chết là khỏe chứ thân tàn này biết mấy, sống làm chi cho khổ quá như vậy”. Ông còn đang than thở, cầu mong cho chết thì ngay lúc đó Tử Thần hiện ra bảo ông: “Ông muốn chết thật à? Dễ lắm, tôi sẽ đưa cái vòng hái này vào cổ ông, tức khắc ông sẽ chết liền”. Ông lão xanh mặt sợ hãi lật đật quỳ xuống lạy Tử Thần: “Kính lạy ngài, xin ngài cho con sống, dù cực khổ gian lao đến đâu con cũng chịu được, con không hề dám thở than nữa”.

(01:09:57) Bởi thế, một kẻ quyên sinh tự tử cũng là một kẻ muốn sống mãnh liệt. Họ tự tử để trốn tránh một cuộc sống quá đau đớn hiện tại, khi mà lòng mong muốn một cuộc sống êm đềm hạnh phúc mà không còn tìm thấy nữa. Cái chết của chúng sanh ngoài sự đau đớn rã rời nơi cơ thể, còn có nghĩa là phải vĩnh biệt trần gian với bao nhiêu người thân thương quý mến. Ham sống là một bản năng mãnh liệt và chết chóc là một nỗi cực khổ ghê gớm của chúng sanh.

11- THÂN NGƯỜI LÀ QUẢ CỦA HÀNH ĐỘNG GIẾT HẠI CHÚNG SANH

(01:10:51) Thế nên sát hại chúng sanh là một điều ngăn cấm thứ nhất trong giới luật của đạo Phật. Vì đức Phật biết rõ sự giết hại chúng sanh là một điều không may mắn, không an lạc và không hạnh phúc cho kẻ giết hại. Và chính nó là nguồn gốc tạo ra thân này, nhân giết hại chúng sanh là nhân tạo ra thân mạng mình. Nói một cách khác, “chúng ta có thân đó là quả của hành động giết hại chúng sanh và cũng vì thế khi có thân phải thọ lấy nhiều thứ khổ đau không thể đếm hết được”.

Không giết hại chúng sanh là một giới cấm rất quan trọng của đạo Phật, đó là một điều răn cấm khiến cho chúng sanh thoát khỏi thân phàm phu ô trược và không còn lưu chuyển sanh tử luân hồi nữa. Bởi vì giết hại chúng sanh là một cái tội cực ác, xâm phạm đến tính mạng, cướp lấy mạng sống của chúng sanh nên con người không thể nào thoát khỏi sự sanh tử. Nhân đoản mạng chúng sanh thì quả phải thọ lấy sự tử vong. Bởi vậy, cướp lấy mạng sống của chúng sanh dù là loại côn trùng nhỏ nhít nhứt như kiến, trùng, dế, mạt, rận, rệp, chí,v.v…​ Chính là tạo cái quả cướp lấy mạng sống của mình ở mai sau.

(01:13:07) “Xưa, Ngài Ca Văn Thế Tôn vì cứu 98 người lái buôn đồng hành trên thuyền, Ngài nhổ cây trụ cầu đập chết tên cướp. Sau khi Ngài đắc đạo, thấy gươm bay trước mặt qua lại Ngài biết cái oan gia tiền kiếp. Ngài liền đưa bàn chân ra chịu, gươm chém nhằm ngón chân chảy máu để trả nợ máu cho xong. Sự giết hại chúng sanh dù trải qua trăm ngàn kiếp nghiệp đã tạo không mất, khi thời tiết nhân duyên đến thì quả báo tử phải thọ lấy”.

Theo lời đức Phật trong kinh giáo thì sự sinh ra con người và vạn vật cũng như chư thiên đều do nhiều nguyên nhân kết hợp nhưng nguyên nhân chính là đoản mạng chúng sanh.

Nếu một người từng giết người không gớm tay, không sợ hãi, không dày vò bởi lương tâm thì chắc chắn người này sẽ sinh vào loài súc sanh để trả cái nhân giết hại.

Người Trung Hoa có tương truyền một chuyện huyền thoại, ngăn người hung sát người hay sát hại chúng sanh:

(01:14:48) “Một gia đình kia mổ heo làm thịt thấy hai lá phổi của con heo có hiện hai chữ Tào Tháo, họ thất kinh hồn vía. Cả đời Tào Tháo chỉ gây nên chiến tranh tàn sát, chẳng đem lại chút lợi lạc cho ai. Phải chăng giết hại đó mà đời đời phải làm thân heo và trâu, bò. Khi chết trên hai lá phổi còn ghi danh tánh rõ ràng để cảnh tỉnh người sau chăng? Làm thân heo, chó, gà, vịt, cá tôm, v.v…​ Sau khi chết phải chịu phân thây cắt tiết thật là đau khổ muôn vàn!”

“Ở quê Thầy, Trảng Bàng, có hai vợ chồng ông X chuyên làm nghề đồ tể mổ heo, mổ bò. Do nghề này, ông bà làm ăn cũng khá khá nhưng có điều con cái thường hay đau ốm, không lúc nào chấm dứt bệnh tật, hễ người này mạnh thì tới người kia đau. Một hôm hai vợ chồng đánh xe bò đi mua heo về làm thịt vì là thời chiến tranh trên đoạn đường xe ông phải đi là một bãi mìn. Ông chờ cho những xe khác qua trước rồi ông mới lần lượt theo dấu xe đi sau. Bốn chiếc xe bò đi trước đã qua rồi, thấy được bình an ông liền cho xe theo sau nhưng xe ông cán phải mìn nổ tung, cả vợ lẫn chồng đều tan xác không còn tìm được một mẩu xương nguyên vẹn”.

(01:17:01) Luật nhân quả rất công bằng, dù ông có khôn ngoan thì ông cũng phải trả nghiệp trên đường tơ kẽ tóc. Bốn chiếc xe kia vẫn thoát nạn đó là không gây nghiệp nhân xấu nên vẫn tránh được mìn. Chúng ta không phải bận tâm tránh đạn né bom, cầu mong an vui hạnh phúc mà được, chỉ nên bận tâm lo tránh tội ác, chính tội ác mới chiêu cảm sinh tử, mới chiêu cảm thọ thân sau, mới chiêu cảm hầm chông, bom đạn, khói lửa, hỏa hoạn thủy tai hoặc tai nạn này tai nạn khác đến với chúng ta mà thôi.

12- CON NGƯỜI KHỔ DO THÂN, KHẨU, Ý TẠO NHÂN ÁC

(01:18:00) Để trả lời câu hỏi thứ hai trong câu hỏi đầu: “Do duyên gì con người thọ khổ?”

Này các Phật tử, các con phải biết, do hành động ác của thân, miệng và ý nên các con phải thọ khổ. Vì thế các con phải cẩn thận tức là phải có ý có tứ từng hành động. Thân khi đi đứng nằm ngồi hoặc làm tất cả những việc khác cũng như phải suy tư chín chắn rồi mới phát ra lời nói. Lời nói phải dựa vào bốn điều thiện căn bản của thập thiện. Không nên phát ngôn bừa bãi mà tạo ra nhiều thứ khổ, còn nguy đến tính mạng.

(01:19:02) “Thuở xưa, trong một cái hồ kia có một con Rùa và hai con Cò trắng thường hay tới lui làm bạn với nhau. Năm ấy trời làm đại hạn suốt một năm trời ròng rã nhưng không có một cơn mưa nào cả, nước ở trong hồ cứ cạn dần vì sự thiêu đốt gay gắt của mặt trời, cỏ lá trong hồ cũng vàng úa tàn tạ, có thể nước nóng như một chảo nước sôi vì thế loài thủy tộc chết lần chết hồi. Ở trong tình trạng đó chàng Rùa ta ngồi đứng không yên và trong đầu óc luôn luôn suy nghĩ một phương kế thoát thân khỏi cái địa ngục nóng này thì may mắn thay trong lúc ấy có hai vợ chồng Cò đến chơi, thấy lộ dáng thiểu não của chàng Rùa hai vợ chồng Cò ân cần hỏi thăm:

- Chắc có chuyện gì buồn chăng mà trông bác có dáng lo nghĩ thế?

Rùa rầu rầu đáp:

- Hai bác ơi, tôi đang gặp phải đại nạn, phen này chắc chết mà không còn gặp hai bác nữa!

(01:21:08) Chàng Cò chặn lời:

- Chúng ta là bạn thân thiết với nhau, sung sướng cùng chia thì hoạn nạn cùng chịu. Vậy bác hãy cho chúng tôi biết nguyên nhân nào làm bác phiền muộn, họa may chúng tôi có thể tìm phương giải quyết và giúp đỡ bác chăng? Chứ chưa chi mà bác đã than van thất vọng như vậy!

Rùa trả lời với một giọng lâm ly thống thiết:

- Không biết hai bác làm ăn thế nào chứ tôi hai hôm nay chưa có lót dạ nữa con tép chứ đừng nói tôm cá vì chúng đã chết sạch hết, hồ nước cạn dần thế này, trước sau thế nào cũng không thoát khỏi bàn tay độc ác của lũ mục đồng. Cách đây 5 năm tôi đã bị chúng bắt một lần, may nhờ một bà già mua đem về Chùa phóng sanh nên mới sống sót đến ngày hôm nay. Vì thế mỗi lần nghĩ đến tai nạn chết chóc tôi bắt rùng mình!

Trong lúc chàng Cò đang ra dáng suy nghĩ thì chị Cò thương hại hỏi:

- Sao bác không đi ở một nơi khác một phen xem sao, xem thế nào?

- Bác thử nghĩ xưa nay tôi có từng đi đâu, đường xá thì xa xôi nguy hiểm mà sự đi lại của tôi quá chậm chạp nên tôi nghĩ thà chết nơi chôn nhau cắt rún còn hơn.

(01:23:22) Bỗng chàng Cò ngóng cổ nói lớn lên với một niềm hy vọng:

- Thôi, bác khỏi lo, cách đây mười dặm có một cái hồ sen không khi nào cạn, mặc dù là lúc trời hạn hán, chúng tôi sẽ đem bác đến đấy, trước là giải quyết sinh kế mà sau nữa được gần gũi nhau trong lúc tối lửa tắt đèn.

Nhưng chàng Rùa vẫn lo ngại nói vẻ thất vọng:

- Trời ơi, mười dặm! Một dặm mà tôi đã đi đến chưa, huống là mười dặm, thôi! Tôi đành chịu chết vậy!

- Điều ấy bác cũng không nên lo

Chàng Cò tin tưởng nói:

- Chúng tôi đã có một phương pháp nhưng có điều hơi khó là bác cần phải bình tĩnh và can đảm.

Bác thử nói xem.

Chàng Rùa vội vàng hỏi:

- Khó thế nào tôi cũng cố gắng.

Chàng Cò giải thích với một điệu bộ quan trọng:

(01:25:12) - Phương pháp như thế này: Hai vợ chồng tôi tha một cái cây, mỗi người một đầu còn bác thì ngậm ngay chặng giữa, chúng tôi sẽ tha bác đến cái hồ kia nhưng có một điều tối quan trọng và nguy hiểm! Bác nên nhớ, trong lúc chúng tôi bay, bác phải ngậm chặt vào cây và không được nói năng, hỏi han gì cả”.

Đến đây đã hết giờ, Thầy sẽ dừng lại, ngày mai giảng tiếp, có chỗ nào chưa hiểu hoặc còn nghi vấn một điều gì chưa rõ, các cư sĩ cứ mạnh dạn thưa hỏi Thầy. Thầy sẽ vui lòng giải thích để các cư sĩ thấu suốt đường lối tu tập của đạo Phật. Bây giờ, Thầy và các cư sĩ đồng niệm hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng cho tất cả

Pháp giới và chúng sanh

Đều được thành Phật đạo.

KẾT THÚC PHẦN 1


Trích dẫn - Ghi chú - Copy