Mục Lục

Đánh Dấu

00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(01:13:47)

II. BỐN QUẢ THANH VĂN

Hỏi: Kính bạch Thầy, con đọc kinh sách Phật, thấy lúc đức Phật còn tại thế, quý tu sĩ cũng như cư sĩ chỉ nghe thuyết giảng một bài pháp, hay một bài kệ bốn câu từ kim khẩu Phật nói ra là quý vị đã chứng quả Tu Đà Hoàn, thậm chí có người chứng luôn quả A La Hán. Kính thưa Thầy, như vậy có thật hay không?

Vậy quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán là như thế nào? Làm sao để biết được một người tu chứng những quả vị này? Sách của Thầy sao con không thấy nói đến những quả vị này? Ngưỡng mong Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đáp: Trong kinh Sa Môn Quả thuộc Trường Bộ Kinh tập 1, tạng kinh nguyên thủy, đức Phật không có dạy bốn quả này trong số những quả Sa Môn.

Kinh Sa Môn Quả là kinh nói về kết quả của một vị tỳ kheo bắt đầu mới vào tu theo đạo Phật cho đến khi viên mãn đạo giải thoát hoàn toàn, nhưng bốn quả nói trên không được đức Phật liệt kê vào kinh Sa Môn Quả, thì có lẽ chúng ta phải (64) đặt câu hỏi bốn quả này có phải của Phật giáo hay không?

Kinh nguyên thủy dạy: khi xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình, ba y một bát là có quả Sa Môn ngay liền; quả đó là sự cung kính, đảnh lễ và cúng dường, từ người dân bình thường đến các vua, quan đều cung kính, tôn trọng.

Vả lại, khi xuất gia cạo bỏ râu tóc như vậy thì đời sống có giải thoát cũng ngay liền, tâm hồn phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, không còn bị gò bó trói buộc trong thập thất kiết sử. Đó là những quả Sa Môn đầu tiên của những người mới vào tu, còn những quả cao hơn, tuyệt diệu hơn, đó là sự làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Trong kinh Sa Môn Quả chúng tôi nghe đức Phật dạy những quả Giới luật, tức là dạy những kết quả đạo đức làm Thánh và đạo đức làm Người, rồi dạy đến những quả của bốn thiền như Sơ Thiền được quả gì, Nhị Thiền được quả gì, Tam Thiền được quả gì, Tứ Thiền được quả gì, và cuối cùng Tam Minh được quả gì.

Trong kinh Sa Môn Quả chúng tôi cũng thấy đức Phật nói về quả của Tứ Không và Diệt Thọ Tưởng Định. Nhưng cũng trong kinh này chúng tôi không tìm thấy đức Phật nói về bốn quả Thanh (65) Văn Tiểu thừa.

Con người thời đức Phật và con người hiện tại của thế kỷ chúng ta có khác nhau không? Là con người thì không khác nhau phải không?

Lại nữa, trình độ và kiến thức của người xưa và người nay cũng không kém nhau. Như vậy, tại sao người xưa nghe Phật thuyết là chứng quả ngay liền, còn chúng ta ngày nay lại phải tu hết sức, chỉ có ly dục, ly ác pháp mà làm không xong?

Cho nên, khi nghe thuyết pháp xong là chứng quả ngay liền, chỉ vì chúng ta không đủ lòng tin những lời dạy này, vì lòng dục và ác pháp không phải là việc dễ buông bỏ.

Bởi vậy, đây là những lý luận của Bà La Môn không chân thật, với mục đích dìm đạo Phật, khiến cho chúng ta mất lòng tin với Phật giáo.

Đạo Phật là một tôn giáo lấy đạo đức nhân bản làm nền tảng cho giáo pháp của mình, cớ sao lại nói vọng ngữ như vậy? Phật nói hay Tổ nói?

Điều này chúng ta nên nhường lại cho các nhà sử học phán xét.

Bốn quả Thanh Văn Tiểu thừa là:

1- Tu Đà Hoàn

2- Tư Đà Hàm

3- A Na Hàm (66)

4- A La Hán

Bốn quả Thinh Văn này do đâu mà có? Chữ Thinh Văn này do ai đặt ra?

Hỏi tức là trả lời, nếu không phải các nhà Đại thừa đặt ra thì còn ai vô đây?

1- Thinh Văn thừa

2- Duyên Giác thừa

3- Tiểu thừa

4- Bồ Tát thừa

5- Đại thừa

6- Tối Thượng thừa

Bốn quả Thanh Văn thừa này có nghĩa là kết quả của sự tu tập của hàng Thanh Văn Tiểu thừa, mà các nhà Đại thừa đã tưởng giải ra và gán cho làm bốn quả giải thoát của Phật giáo:

I/ Tu Đà Hoàn còn có những tên khác như là: Nhập lưu, Nghịch lưu, Dự lưu, Thất lai.

  1. Nhập lưu có nghĩa là nhập vào dòng Thánh.

  2. Nghịch lưu có nghĩa là đi ngược lại dòng đời.

  3. Dự lưu có nghĩa là được dự vào dòng Thánh.

  4. Thất lai theo nghĩa của các nhà Đại thừa giải thích thì hành giả tu đắc được quả vị này thì (67) còn phải tu bảy kiếp nữa mới chứng quả A La Hán; bảy kiếp nữa tức là phải chịu tái sanh làm người bảy lần, do đó mới có tên là Thất lai.

II/ Tư Đà Hàm còn có tên khác là Nhất lai. Nhất lai có nghĩa là tu đắc quả này rồi thì còn phải tu một kiếp nữa mới chứng quả A La Hán; một kiếp nữa tức là phải chịu tái sanh làn người một lần nữa.

III/ A Na Hàm con có tên khác là Bất lai hay là Bất hoàn, nghĩa là người tu chứng được quả này thì không còn tái sanh trở lại đời này nữa, có nghĩa là không còn tái sanh lại làm người nữa.

IV/ A La Hán còn có các tên khác như: Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh.

  1. Sát tặc có nghĩa là giết hết giặc phiền não.

  2. Ứng cúng có nghĩa là bậc xứng đáng nhận tứ sự cúng dường của Trời, Người.

  3. Bất sinh có nghĩa là mãi mãi vào Niết Bàn, không còn chịu quả báo sống chết nữa. Theo các nhà Đại thừa cho bậc A La Hán là quả vị cao nhất của Tiểu thừa.

Theo kinh nghiệm tu hành của chúng tôi, trong bốn quả này chúng tôi chấp nhận quả A La Hán là đúng nghĩa của nó, còn những quả kia không đúng nghĩa, vì trong kinh Sa Môn Quả không có dạy những quả này. (68)

Vả lại, khi nhập được Sơ Thiền thì chúng tôi thấy tâm LY DỤC LY ÁC PHÁP, mà tâm đã ly dục ly ác pháp thì tâm KHÔNG PHÓNG DẬT, mà tâm không còn phóng dật là tâm CHÁNH GIÁC như đức Phật đã dạy: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm KHÔNG PHÓNG DẬT”.

Tâm còn phóng dật làm sao gọi là Thánh được, mà không gọi là Thánh thì làm sao gọi là Nhập lưu; mà đã Nhập lưu thì tâm phải LY DỤC LY ÁC PHÁP; ly dục ly ác pháp thì còn cái gì mà đi tái sanh đến bảy lần, một lần; do DỤC và ÁC PHÁP mới tạo thành nghiệp, nghiệp mới tái sanh luân hồi. Cho nên, các nhà học giả Đại thừa do không tu nên giảng giải theo tưởng của mình làm mất ý nghĩa chân thật của đạo Phật.

Đây là ý đồ của Bà La Môn lấy các quả vị này để dìm Phật giáo xuống hàng Tiểu thừa - khi được vào dòng Thánh mà còn phải bảy lần tái sinh làm người - thật là vô lý!

Muốn biết người tu chứng bốn quả vị này thì lấy GIỚI LUẬT làm tiêu chuẩn mà xét:

  1. Giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.

  1. Tâm phải ly dục ly ác pháp, tức là tâm bất động trước các pháp.

  2. Đời sống phải thiểu dục tri túc, ba y một bát.

  3. Sống độc cư trầm lặng một mình, ít nói, không tranh luận hơn thua.

Sách Thầy viết không nói đến những quả vị này ngoại trừ quả A La Hán, còn những quả khác Thầy không đủ niềm tin, vì nhập vào dòng Thánh mà còn phải bảy lần sanh làm người. Thánh tăng của Phật giáo sống đúng GIỚI HẠNH là sống toàn thiện, mà sống TOÀN THIỆN thì tâm tham, sân, si đâu còn; tâm THAM, SÂN, SI KHÔNG CÒN thì còn cái gì tái sanh, chỉ có những Thánh tăng Phật giáo Đại thừa sống phạm giới, phá giới, ăn uống phi thời, đời sống chạy theo dục lạc thế gian, v.v…​ thì không những phải tái sanh bảy đời mà phải tái sanh vô lượng đời.

Thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt, sống đời đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người để đem lại lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.

Kính thư

Thầy của con (70)

✿✿✿


Trích từ:Những Bức Tâm Thư - Tập 3
Trích dẫn - Ghi chú - Copy