Mục Lục

Đánh Dấu

00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(14:13)

CHƯƠNG VII - THUYẾT PHÁP PHẢI ĐÚNG NƠI ĐÚNG CHỖ

Có 14 giới

(Giới thứ 59, 77, từ giới thứ 86 đến giới 92, từ giới thứ 96 đến giới 100) (21)

(22)

Giới thứ năm mươi chín: CẦN NÊN HỌC KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI ĐI XE KIỆU NÓI PHÁP

Vị tỳ kheo, khi đi trên xe hoặc kiệu với những người khác, không được nói pháp cho họ nghe. Vì nơi đó không phải chỗ nói pháp. Thế mà thời nay, có nhiều người lợi dụng đi trên xe đông người, do duyên nói chuyện phiếm, rồi sẵn đó nói pháp, để khoe khoang mình là người thông pháp Phật, pháp Thiền, mình là người hay, là người giỏi về Phật Pháp và về Thiền Định. Đó là tính chất thể hiện bản ngã.

Trên xe cộ, người ta đã chứng kiến một số cư sĩ và tu sĩ tranh luận Thiền, Giáo hơn thua bằng cách đem hết sở học về Thiền và giáo lý của Phật ra tranh luận dữ dội. Bởi vậy, giới thứ năm mươi chín này Phật cấm không được vì người đang đi trên xe hoặc kiệu nói pháp, đó là nơi không đúng chỗ thuyết pháp, nơi không thanh tịnh. (23)

Hành động thuyết pháp hoặc tranh luận trên xe là hành động thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng pháp bảo, đó là một hành động háo danh và nuôi dưỡng bản ngã. Người trí thấy người nói pháp trên xe cộ là biết ngay liền, đó là những kẻ thiếu giáo dục đạo đức, những kẻ thông thái rởm, chỉ nhai lại đờm dãi của kẻ khác, là con chim học nói tiếng người. Phần đông số người này là những con mọt sách và chỉ đi nghe thuyết giảng của các nhà học giả rồi huênh hoang nói pháp Thiền, Giáo, làm trò cho thiên hạ nghe, xem mà chẳng có đồng xu nào cả.

Mong rằng các vị tỳ kheo tăng cũng như các vị tỳ kheo ni phải giữ gìn tất cả những giới luật này cho nghiêm chỉnh để bảo vệ pháp bảo của Phật, mãi còn một giá trị quý báu và cao cả.

Nhờ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, quý thầy tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni mói có những hành động đạo đức xứng đáng là đệ tử của Đức Phật; xứng đáng làm gương sáng cho tín đồ soi và nương theo. Điều lợi ích nhất cho quý vị tăng, ni và cư sĩ đã giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tâm của quý vị sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm quý vị ly dục ly ác pháp nên Đức Phật dạy: “Ta nói nghiêm trì giới luật, tức là ly dục ly ác pháp”; tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm nhập Sơ Thiền, một loại thiền định đầu tiên của Đạo Phật (24) trong Tứ Thánh Định.

Đạo đức làm một vị giảng sư thì phải biết tôn trọng và cung kính pháp bảo, đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo, không phải để pháp bảo trên bàn thờ lạy lễ hằng ngày mà là hành động cung kính và tôn trọng. Đừng cung kính và tôn trọng theo kiểu Thường Bất Khinh Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa, đó là sự cung kính của các nhà Đại Thừa tưởng giải ra, chứ Đức Phật dạy cung kính và tôn trọng trong giới luật rất cụ thể rõ ràng trong mỗi hành động nhân quả thiện ác, có dịp chúng tôi sẽ nói đến. Hiện giờ ở giới luật này dạy cung kính và tôn trọng không phải cung kính và tôn trọng một cách ngu si như kinh Pháp Hoa đã dạy, để cho mọi người lấn lướt chà đạp mà chính đức hạnh cung kính và tôn trọng là nói pháp phải đúng nơi, đúng chỗ, đúng người; nói pháp không đúng nơi đúng chỗ, đúng người là thiếu lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo.

Người nói pháp không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người khiến cho người khác nghe pháp khinh chê Phật pháp, thì người nói pháp phải bị tội đọa.

Vậy tăng ni hãy ghi nhớ lời nhắn nhủ này cố gắng giữ gìn oai nghi tế hạnh cho nghiêm chỉnh, không được thuyết pháp bừa bãi. (25)

Giới thứ bảy mươi bảy: KHÔNG NÊN ĐEM LỜI GIẢNG CỦA PHẬT VÀO CHỔ ĐẠI TIỂU TIỆN

Lời giảng dạy của Phật là pháp bảo, nhờ có pháp bảo chúng ta mới biết được đường lối tu hành đi đến giải thoát, khiến cho cuộc đời không còn đau khổ nữa. Vì thế chúng ta phải tôn trọng và cung kính những lời dạy quý báu này, không nên đem những lời dạy quý báu vàng ngọc này vào những nơi đại tiểu tiện bất tịnh và những nơi hôi thúi, uế trược khác. Nếu chúng ta không cung kính, tôn trọng pháp bảo, đem những lời dạy này vào những nơi bất tịnh thì sẽ khiến cho chúng ta mất duyên với chánh pháp và từ đó chúng ta dễ bị lạc vào tà pháp của ngoại đạo, dù cho có công tu hành cũng chẳng cứu mình thoát khỏi kiếp sống trầm luân và đầy đau khổ. Tu để mà cho có tu, chứ thật sự chẳng ích lợi gì cho bản thân của mình và (26) cho ai cả, đó là tu sĩ đời nay, vì thiếu lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, nên chẳng gặp chánh pháp của Phật mà lại gặp tà pháp ngoại đạo rồi cứ ngỡ tưởng là pháp môn của Đức Phật. Hiện giờ hầu hết tu sĩ đều tu theo giáo pháp của Bà La Môn, nhưng lại nghĩ rằng mình tu theo giáo pháp chơn chánh của Phật.

Từ giới 60 đến giới 85 trong 100 giới chúng học thường trong các bộ luật của các tổ viết soạn đều dùng danh từ “Tháp Phật và tượng Phật”, đó là một điều bịa đặt để chế thêm giới luật của các tổ sau này, vô tình các tổ đã để lộ sự thêm bớt của mình cho những người đời sau biết sự gian xảo đó.

Giới luật được đặt ra là do Phật chế, chứ không phải do các tổ chế. Phật chưa tịch làm sao có tháp Phật và tượng Phật được? Đó là những giới luật của những người sau này chế ra.

Nếu Phật chế ra giới luật như vậy thì chứng tỏ Phật còn mang bản ngã danh lợi cá nhân của mình rất lớn giống như vua chúa, thì làm sao được gọi là bậc giải thoát, bậc A La Hán như trong các bộ luật ghi: “Tháp Phật tượng Phật thì không ai được làm và đem những vật bất tịnh vào”. Cấm như vậy không đúng tinh thần “vô ngã” của đạo Phật. Trừ khi Phật tịch các tổ chế giới cấm như vậy là đúng, vì đó là lòng cung kính của các tổ đối (27) với Phật.

Lòng tôn trọng và cung kính ấy phải được để cho người khác tự tỏ lòng tôn kính, chứ lý đâu lại chế giới luật bắt buộc mọi người tôn kính mình như vậy. Đó là cái sai của các tổ, khi soạn viết giới luật Phật, giống như các vị đế vương.

Để thấy rõ giới luật Phật không còn mang tính chất Nguyên Thủy. Các tổ biên soạn giới luật Phật thêm bớt rất nhiều, nhưng dù sao giới luật vẫn là đạo đức của tu sĩ, nên thêm cho hợp lý thì rất tốt đối với tu sĩ, thêm mà không hợp lý làm mất giá trị giới luật đạo đức của Phật, là một điều tội lỗi rất lớn. Nhất là bẻ vụn giới luật hoặc bỏ mất, khiến cho người sau không biết đâu mà tìm kiếm.

Giới này Phật dạy chúng ta phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo. Người có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo thì mới có lòng cung kính và tôn trọng người khác.

Lòng cung kính và tôn trọng người khác là một đạo đức của con người đối xử với nhau. Loài vật không thể nào có sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau như vậy được, chúng chỉ có lòng sợ hãi trước các con thú lớn, mạnh và hung ác.

Con người khác hơn loài vật là ở chỗ biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau, nếu con người không (28) có lòng cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì có khác nào là loài cầm thú, mạnh thì hiếp yếu, lớn thì hiếp nhỏ.

Cho nên, trong giới luật Phật dạy chúng ta rất nhiều về đức cung kính và tôn trọng. Đức cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là dạy chúng ta biết cung kính và tôn trọng người khác như trên đã dạy. Cung kính và tôn trọng người khác tức là cung kính và tôn trọng mình.

Tại sao cung kính và tôn trọng pháp bảo lại là cung kính và tôn trọng người khác; tôn trọng và cung kính người khác lại là cung kính và tôn trọng mình?

Đạo đức của Đức Phật dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Nếu không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh thì chúng ta phải có lòng cung kính và tôn trọng sự sống lẫn nhau. Nếu có lòng cung kính và tôn trọng sự sống lẫn nhau thì không ai làm khổ ai, tức là mọi người đã sống trong đạo đức của Đạo Phật. Có sống trong đạo đức của Đạo Phật thì mới thấy cuộc sống của con người trên hành tinh này là cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc.

Chỉ vì chúng ta không có lòng cung kính và tôn trọng lẫn nhau nên đã tự làm khổ cho nhau, đôi khi vì tranh chấp những việc chẳng ra gì lại còn giết hại nhau mà chẳng chút lòng thương xót. (29) Đối với những loài vật khác, chúng ta thường xem chúng là những thực phẩm của chúng ta ăn, nên giết hại và ăn thịt chúng, ăn với sự ưa thích, không có lòng đau thương xót xa trước sự kêu la, gào thét trong đau khổ và sự sống chết của chúng. Đó là bản năng hung ác của loài thú vật còn tồn đọng trong người của chúng ta chưa bỏ được. Chúng ta chỉ còn biết ăn ngon miệng, ăn cho mập cho béo, để rồi thọ lấy những bịnh tật khổ đau bất tận.

Nhờ có pháp bảo dạy chúng ta vừa biết cung kính và tôn trọng pháp bảo lại cũng vừa biết cung kính và tôn trọng người khác, có đức cung kính và tôn trọng người khác thì mới không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh như trên đã dạy; không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh thì tâm hồn chúng ta mới thanh thản, an lạc và giải thoát; tâm hồn có thanh thản, an lạc và giải thoát thì tâm mới vô lậu như kinh Phật đã dạy.

Cho nên giới luật Phật dạy chúng ta giải thoát vô lậu, gọi là giới vô lậu. Giới vô lậu tức là giới luật dạy chúng ta đạo đức làm người, có đạo đức làm người mới vượt thoát khỏi bản chất của loài cầm thú, thì lúc bây giờ tâm hồn chúng ta mới bất động trước các pháp và trước các cảm thọ. Đó là mục đích của Đạo Phật “Bất động tâm định”. Một loại thiền định chỉ Đạo Phật mới có mà thôi.

Con người chỉ cần vượt thoát ra khỏi bản chất (30) hung ác, gian xảo, lừa đảo của loài cầm thú thì thế gian này sẽ là cảnh Thiên Đàng. Muốn được vậy chúng ta cần phải học đạo đức nhân quả, có học đạo đức nhân quả mới có những hành động không làm khổ mình khổ người, không giết hại và không ăn thịt chúng sanh.

Muốn tách lìa bản chất cầm thú trong chúng ta, thì chúng ta hãy cố gắng học tập và thường hằng trau dồi đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, thì trước tiên chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ giới tức là tu học giới luật Phật. Vì trong giới luật Phật dạy chúng ta toàn là những hành động đạo đức giải thoát cho mình, cho người, luôn sống trong thiện pháp và xa lìa các ác pháp.

Biết cung kính, biết tôn trọng là một đức hạnh diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp rất hữu hiệu và tuyệt vời, tạo cho chúng ta có một tâm hồn cao thượng. Đức cung kính và tôn trọng cũng là một trong muôn ngàn hành động đức hạnh cao quý của Đạo Phật mà chúng ta cần phải bắt đầu học ngay từ bây giờ, để kịp thời cứu mình thoát khỏi cảnh trầm luân đau khổ của kiếp làm người và cũng có thể chấm dứt luân hồi, sanh tử trong kiếp sau. (31)

Giới thứ tám mươi sáu: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI MÀ MÌNH ĐỨNG, TRỪ KHI NGƯỜI NGHE ĐANG BỆNH

Đây là giới dạy người thuyết pháp (Pháp sư) phải cung kính và tôn trọng pháp bảo, tức là khi thuyết pháp cho người khác nghe, người nói pháp phải biết địa vị của mình đang ở vị trí nào? Và vị trí có đúng nói pháp hay không?

Nếu đúng chỗ thì nói pháp, không đúng chỗ thì thôi, không được vì danh, vì lợi mà đem pháp bảo của Phật để biến trở thành một món hàng buôn bán và trao đổi sự sống với nhau, thì những người đó không đúng là pháp sư. Người thuyết pháp đụng đâu nói pháp đó là người không có đức cung kính và tôn trọng pháp bảo; người không có đức cung kính và tôn trọng pháp bảo là người không biết tôn trọng và cung kính người khác; người không biết cung kính tôn trọng người khác là người (32) không cung kính tôn trọng mình; mình đã không cung kính tôn trọng mình thì còn ai là người cung kính tôn trọng mình được?

Ở đây Đức Phật dạy, người làm thầy thuyết pháp cho người khác nghe, trước tiên mình phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo. Phải tỏ lòng cung kính pháp bảo như thế nào?

Quý phật tử có bao giờ đi nghe một buổi thuyết trình về đề tài khoa học, văn học, sử học, mỹ thuật, âm nhạc, hội họa, kiến trúc v.v.. chưa?

Người thuyết trình viên đứng trên bậc thuyết trình, còn tất cả mọi người nghe đều ngồi. Đối với những đề tài khoa học, văn học, sử học, âm nhạc, mỹ thuật, hội họa, kiến trúc v.v.. thì người thuyết trình đứng và người nghe ngồi là đúng. Tại sao vậy?

Vì những đề tài thuyết trình ở trên không phải là những đề tài thuyết trình về đạo đức. Nếu thuyết trình về đạo đức thì thuyết trình viên đứng là không đúng tư cách đạo đức. Vì đạo đức dạy người nghe phải có lòng cung kính và tôn trọng lời dạy đạo đức và người nói về đạo đức.

Vì thế, người dạy đạo đức phải ngồi trên ghế cao và thuyết trình về đạo đức, còn người nghe thì phải ngồi ghế thấp hơn. Đó là đúng tư cách đạo (33) đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau trong nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật.

Quý phật tử có bao giờ vào một lớp học chưa?

Ông thầy giáo đứng trước bảng đen giảng bài cho học sinh, còn tất cả học sinh đều ngồi lắng nghe. Nếu dạy về đạo đức như ông thầy giáo thì không đúng tư cách dạy đạo đức, chính hành động đứng giảng về đạo đức là đã không đúng tư cách đạo đức, thì còn dạy đạo đức cho ai được? Đám học trò ngồi nghe đạo đức mà thầy mình đứng giảng đạo đức thì cũng không đúng tư cách người học trò học đạo đức. Nếu dạy đạo đức mà dạy như vậy thì thầy lẫn học trò chẳng có đạo đức gì cả. Cho nên hiện giờ trong các trường học từ Sơ cấp đến Đại học đều có dạy đạo đức, nhưng dạy đạo đức đó chỉ là hình thức cho có đạo đức mà thôi, chứ thật ra không phải dạy học đạo đức để sống đúng đạo đức làm người như vậy được. Còn dạy tất cả những môn học khác như: toán, văn, sử, địa, lý, hóa v.v.. thì đứng dạy như vậy rất đúng.

Trong giới luật Phật đã dạy đạo đức rất rõ ràng: “Không nên nói pháp cho người ngồi nghe mà người thuyết pháp lại đứng”.

Hành động đứng thuyết pháp về đạo đức cho người khác nghe là giảng sư thiếu giáo dục đức hạnh về đức cung kính và tôn trọng pháp bảo. Nếu giảng sư không có đức cung kính và tôn trọng (34) pháp bảo thì dạy người nghe pháp về đạo đức cũng sẽ không có đức hạnh cung kính và tôn trọng, vì thầy làm sống như thế nào thì trò cũng như thế nấy.

Cho nên người giảng pháp đứng, người nghe pháp lại ngồi và ung dung ngồi nghe pháp đó cũng là hành động của hai thầy trò đều thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng như nhau. Do đó suy ra chúng ta biết đức hạnh về sự cung kính và tôn trọng có hai phương diện hành động cao đẹp nhất của con người là đức hạnh tôn trọng và cung kính lời dạy của Đức Phật và vị thầy dạy đạo đức.

Người giảng sư đứng thuyết pháp cho mọi người khác ngồi nghe. Đó là người giảng sư thiếu đạo đức và vô minh không biết hành động đứng thuyết pháp sẽ mang đến tai hại vô đạo đức cho người nghe pháp như thế nào?

Khi một người dạy đạo đức mà không đúng tư cách đạo đức làm thầy thì có năm điều khiến cho người học đạo đức không áp dụng đạo đức vào cuộc sống, lại trở thành người vô đạo đức:

1- Khiến họ thiếu đức hạnh tôn trọng và cung kính pháp bảo.

2- Khiến họ mất duyên với chánh Phật Pháp.

3- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng bậc thầy dạy đạo đức cho mình. (35)

4- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng mọi người.

5- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng mình.

Nếu những người ỷ có chức tước, quyền thế, giàu sang, bắt buộc giảng sư đứng thuyết pháp còn mình ngồi nghe pháp. Những kẻ ỷ quyền thế thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng như vậy, thì người giảng sư cần phải cho họ một bài học về đạo đức, đừng vì quyền thế giàu sang của họ mà sợ hãi rồi phá đạo đức và bán rẻ giáo pháp của Phật. Đối với những hạng người này mà thuyết giảng cho họ nghe, thì không xứng đáng là giảng sư, chỉ là một người hèn nhát trước thế lực và tiền bạc.

Thà người giảng sư chịu chết trước uy quyến thế lực của kẻ thiếu đạo đức, chứ nhất định không bán rẻ đạo đức Phật pháp, không bán rẻ lương tâm của mình mà phải giữ cao khí tiết đức hạnh cung kính và tôn trọng của người đệ tử Phật.

Nếu giảng sư vì pháp, vì chúng tăng đi đến nhà vua, chủ đất (đại Thí chủ) để giảng pháp, nhưng nhà vua hoặc chủ đất bắt buộc giảng sư đứng thuyết còn mình thì ngồi nghe như thầy giáo giảng bài cho học trò, thì giảng sư thà chết trước thế lực uy quyền của họ hoặc dời chúng tăng đi chỗ khác, chứ không thuyết pháp cho những kẻ (36) quá khinh mạn pháp bảo của Phật như vậy. Có được như vậy là giảng sư đã cho họ một bài học đạo đức giá trị. Giảng sư như vậy mới chính là đệ tử của Đức Phật.

Những kẻ này là những kẻ thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng. Còn giảng sư vì danh, vì lợi, thì đừng bịt mắt tín đồ bằng những danh từ lừa đảo “Vì chúng tăng, vì phật pháp” mà phải đứng thuyết pháp cho những người này ngồi nghe. Giảng sư như vậy thì không đúng là giảng sư dạy đạo đức. Những giảng sư này vì nhà giàu, vì vua chúa nói pháp không đúng nơi, đúng chỗ là những người buôn Phật bán pháp, chứ không phải là đệ tử của đức Phật, họ là những kẻ không xứng đáng đem pháp bảo của Phật hoằng hóa chúng sanh. Đó là những giảng sư hèn hạ tồi tệ, không xứng đáng làm thầy Trời, Người và cũng không xứng đáng làm gương đạo đức cho hàng tín đồ Phật giáo soi. Họ là những con sâu làm rầu nồi canh, là những con bọ chét trong lông sư tử, là những tên lừa đảo có sách vở. (37)

Giới thứ tám mươi bảy: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NẰM MÀ MÌNH NGỒI, TRỪ KHI NGƯỜI NGHE ĐANG BỆNH

Người giảng sư, khi bước lên pháp tọa, phải quan sát tất cả mọi người đang ngồi nghe pháp, nếu thấy có người nằm nghe pháp thì nhất định giảng sư không thuyết pháp, dù có hàng trăm ngàn người ngồi nghe mà chỉ có một người nằm thì giảng sư cũng chẳng thuyết pháp.

Tại sao vậy?

Ở nơi giảng pháp, nhất là pháp dạy đạo đức của Đức Phật thì đừng bảo rằng: “ Thiểu số phải tùng đa số”. Không lẽ vì một người mà ta bỏ bao nhiêu người đang ngồi chờ đợi để nghe pháp hay sao?

Ở đây là nơi dạy đạo đức, chứ không phải nơi (38) bầu cử, nên không thể nói thiểu số và đa số mà chỉ thẳng vào đạo đức của con người để giáo dục mọi người cho có đạo đức. Nếu vì số đông ta thuyết giảng pháp đạo đức cho mọi người nghe thì mọi người sẽ bắt chước số ít kia mà trở thành những con người thiếu đạo đức.

Đức cung kính và tôn trọng pháp bảo là một đức hạnh rất cần thiết cho cuộc sống của con người, vì có cung kính và tôn trọng pháp bảo chúng ta mới học được đạo đức làm người từ trong pháp bảo ấy đã dạy.

Từ đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo chúng ta mới học được đức hạnh cung kính và tôn trọng mọi người khác, có cung kính và tôn trọng mọi người khác, chính là ta đã cung kính và tôn trọng ta. Có cung kính và tôn trọng người khác tức là không làm khổ người khác; có cung kính và tôn trọng mình tức là không làm khổ mình, như trên đã dạy.

Người sanh ra ở đời mà không làm khổ mình khổ người là người có hạnh phúc nhất trần gian. Muốn được vậy thì mọi người phải học và tu tập đầy đủ đức hạnh cung kính và tôn trọng mình và người khác.

Bởi, người không có đức hạnh cung kính tôn trọng pháp bảo của Đức Phật, tức là không có lòng cung kính và tôn trọng luật nhân quả thường hay làm khổ mình khổ người, thường hay (39) làm khổ mình khổ người là người không có lòng cung kính và tôn trọng mình và người khác, người ấy cũng giống như một loài cầm thú thông minh mà thôi.

Những hành động nằm nghe pháp là những hành động của người vô giáo dục đạo đức, thường sống trong bản ngã tự tôn tự đại, cứ nghĩ rằng mình là trên hết.

Người thuyết pháp vô tình mà thuyết pháp cho người nằm nghe pháp là giảng sư thiếu đạo đức, là giảng sư của ngoại đạo.

Pháp Phật là một pháp môn dạy đạo đức làm người, từ sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Làm người mà không làm khổ mình khổ người là người có một đạo đức tuyệt vời. Một đạo đức giúp cho con người vượt ra khỏi bản chất của loài cầm thú, không còn hung dữ và gian ác nữa; một đạo đức giúp cho con người vượt thoát mọi sự khổ đau của kiếp làm người và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi; một đạo đức dạy cho con người làm những bậc Thánh nhân.

Một đạo đức vô cùng cao quý như vậy, thế mà không tôn trọng và cung kính thì làm sao có lợi ích cho đời sống của mình. Có cung kính và có tôn trọng pháp bảo thì mới có áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình, ngăn chận và diệt được ác pháp trong tâm, nhờ thế cuộc sống mới thanh (40) thản, an vui và hạnh phúc.

Giảng sư mà thiếu tư cách cung kính và tôn trọng pháp bảo là những giảng sư vì danh vì lợi, dù cho giảng sư đó có thông suốt Tam Tạng Thánh Điển cũng vẫn là người buôn Phật bán pháp mà thôi.

Người không có đạo đức mà giảng kinh sách Phật là phản lại đạo đức của Đạo Phật, vì hành vi của người ấy không có đạo đức khiến cho người khác nghe Phật Pháp cũng không có đạo đức. Đạo đức tôn trọng và cung kính, mà mọi người không áp dụng vào đời sống của mình được thì tự chuốc lấy sự khổ đau cho mình mà lại còn làm cho người khác khổ đau nữa.

Biết cung kính và biết tôn trọng mọi người thì mọi người mới cung kính và tôn trọng mình. Hành động đạo đức cung kính và tôn trọng như vậy mới gọi là con người có đạo đức, nếu không có hành động đạo đức như vậy thì con người chỉ chuốc lấy một đời sống đau khổ, sầu muộn mà thôi.

Tóm lại, người nghe pháp và người thuyết pháp phải có lòng cung kính và tôn trọng, không phải chỉ riêng có pháp bảo mà còn phải cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Như thế mới có, thể hiện được giới đức, giới hạnh của Đạo Phật. (41)

Giới thứ tám mươi tám: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI GIỮA, NGƯỜI THUYẾT PHÁP NGỒI MỘT BÊN

Pháp tòa là một cái ghế cao đặt ngay giữa pháp hội, phi tòa là một cái ghế nhỏ hơn để một bên. Pháp tòa là chỗ dành cho pháp sư ngồi để thuyết pháp, phi tòa là chỗ ngồi của người nghe pháp.

Giới này Đức Phật dạy người nghe pháp cũng như người thuyết pháp phải biết tôn trọng và cung kính không những pháp bảo mà còn phải cung kính và tôn trọng lẫn nhau cũng giống như giới trên đã dạy.

Ngồi giữa tòa nghe pháp, để người thuyết pháp ngồi một bên là người vô lễ vô đạo đức không (42) cung kính tôn trọng pháp bảo và pháp sư, xem lời Phật dạy như lời nói vu vơ thường tình, xem giảng sư như đào kép hát cải lương.

Vua quan hoặc nhà giàu mời giảng sư về nhà thuyết pháp, ỷ mình quyền tước, giàu sang đặt pháp tọa thấp hơn chỗ mình ngồi. Do đó khi giảng sư đến nhà nên lưu ý, nhìn thấy pháp tọa không trang nghiêm, đặt nơi không xứng đáng, thì không nên thuyết pháp, xin phép lui về.

Những người đến với Phật pháp mà còn có những hành động ngã mạn, tự kiêu, tự đắc, tự cho mình hay giỏi, tự cho mình giàu sang phú quý, có quyền, có tước, có địa vị là hơn hết, họ nghĩ rằng chỉ có tiền là trên hết muốn gì cũng được, nhưng đối với người có đạo đức thì họ sẽ thất vọng, tiền bạc và quyền tước không thể mua được những người có đạo đức.

Thời nay cũng như ngày xưa, kẻ giàu sang thường được ưu tiên nghe pháp và kinh sách lại được đọc đầy đủ, ngược lại người nghèo khó, muốn nghe pháp cũng phải khó khăn mới được nghe và kinh sách cũng không được đọc đầy đủ lắm.

Tóm lại ở đời, trong cuộc sống hằng ngày, có phước báo hay không phước báo là do ở những hành động nhân quả thiện hay ác. Nếu sanh ra làm người có đầy đủ phước báo thì hãy cố gắng làm (43) thiện hơn nữa để tạo phước báo thêm, trong việc làm thiện tạo phước báo thêm thì đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo cũng như đức hạnh cung kính và tôn trọng mọi người là một việc làm thiện phước báo rất lớn. Phước báo đó là phước báo vô lậu, không thể lấy phước báo hữu lậu so sánh được.

Biết cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là phải biết cung kính và tôn trọng mọi người; biết cung kính và tôn trọng mọi người, là biết diệt ngã xả tâm; biết diệt ngã xả tâm, là biết ly dục ly ác pháp; biết ly dục ly ác pháp là biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự; biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là biết sống có đầy đủ đạo đức không làm khổ mình khổ người.

Từ một đức hạnh biết tôn trọng và cung kính dẫn tâm đến giải thoát hoàn toàn. Như vậy, một trăm giới luật chúng học mà Đức Phật đã dạy chúng ta đức hạnh cung kính và tôn trọng thật là hữu ích cho chúng ta rất nhiều, từ đạo đức làm người đưa đến bước đường nhập thiền định “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Những giới luật này còn giúp chúng ta sống đúng phạm hạnh, đạo đức nhân quả và đạo hạnh của người tu sĩ Phật giáo (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni), hưởng phước vô lậu và quả giải thoát hoàn toàn.

Bởi đức hạnh cung kính và tôn trọng rất cần (44) thiết cho những người tu theo đạo giải thoát. Nếu người tu theo đạo giải thoát mà không tu tập trau dồi hành động thân khẩu ý toàn thiện thì không thể nào thực hiện được đạo giải thoát. Muốn được toàn thiện thì đức hạnh cung kính và tôn trọng không thể thiếu được, cho nên giới luật của Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại mãi về đức hạnh cung kính và tôn trọng này. (45)

Giới thứ tám mươi chín: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI NGHE PHÁP NGỒI TÒA CAO MÀ NGƯỜI THUYẾT PHÁP NGỒI TÒA THẤP

Đây cũng là một giới luật chỉ dạy đức hạnh cung kính và tôn trọng, nếu người không biết cung kính và tôn trọng còn mang tánh chất kiêu căng, tự cao, tự đại, thì chúng ta có thuyết pháp cho họ nghe cũng chẳng ích lợi gì cho họ, họ nghe pháp như nghe ca hát mà thôi.

Pháp sư không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, mới đem pháp bảo của Phật giảng cho những người này nghe thì chẳng ích lợi gì cho cả hai. Bởi vì, người thuyết pháp và người nghe pháp đều là những người không có đạo đức biết cung kính và tôn trọng. Người nghe và người thuyết pháp như vậy thì cả hai đều phạm tội bất kỉnh pháp. (46)

Đức cung kính và tôn trọng rất cần thiết cho con người sống chung nhau trong một xã hội, một đất nước, một hành tinh. Vì có cung kính và tôn trọng người khác thì ít khi làm khổ người, mà không làm khổ người tức là không làm khổ mình; không làm khổ mình tức là cung kính và tôn trọng mình; cung kính và tôn trọng mình tức là cung kính và tôn trọng người khác. Có cung kính và tôn trọng người khác tức là thương yêu mình; có thương yêu mình thì không làm khổ mình; không làm khổ mình tức là không làm khổ người, không làm khổ người tức là thương người. Thương người không có nghĩa là đem của cải tài sản cho người (bố thí), bố thí chưa hẳn là thương người, mà còn làm cho người khác nghèo khổ hơn. Cho nên chỉ có lòng chân thật cung kính và tôn trọng người thì mới thương người thật sự, bằng ngược lại chỉ là thương người ngoài đầu môi chót lưỡi mà thôi.

Ở đời, người ta đã lầm tưởng rằng mình đã thương mình, nhưng sự thật mọi người chính họ, họ cũng không thương họ chút nào cả, chính vì vậy họ cũng chẳng biết cung kính và tôn trọng họ, nên hễ có xảy ra một việc gì, chuyện không ra gì, họ cũng đã tự làm khổ họ. Cho nên họ đã không thương họ thì làm sao họ thương ai được.

Trong thời Đức Phật còn tại thế, có một nhà vua nói với hoàng hậu: “Trẫm yêu thương khanh (47) nhất, hơn là trẫm yêu thương trẫm”.

Bà Hoàng Hậu trả lời: “Bệ hạ nói không thật, nếu bệ hạ yêu thương thần thiếp sao bệ hạ lại muốn giết thần thiếp khi thần thiếp lấy một ông quan khác”?

Bởi, giáo pháp của Đức Phật dạy chúng ta cung kính và tôn trọng lẫn nhau là để không làm khổ mình khổ người, tức là biết thương mình thương người; biết thương mình thương người là chúng ta đã xây dựng một xã hội an vui hạnh phúc cho nhau, biến cảnh thế gian thành Thiên Đàng, Cực Lạc.

Muốn nghe pháp dạy đạo đức làm người của Đức Phật mà ngồi trên ghế cao hơn người thuyết pháp, còn ngược lại người thuyết pháp thì lại ngồi ghế thấp hơn. Và như vậy có phải là cung kính và tôn trọng giảng sư và pháp bảo không?

Nếu không cung kính và tôn trọng pháp bảo thì đừng mời giảng sư và cũng đừng nên nghe pháp vì có nghe pháp cũng chẳng ích lợi gì cho mình.

Pháp bảo của Đức Phật là một pháp môn dạy đạo đức nhắm vào diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, đập phá tất cả những người còn mang tánh tự cao tự đại của loài thú vật và ác quỷ, cho nên đối với những người còn mang bản chất hiu hiu tự đắc thì không nên nghe pháp của Phật. (48)

Những người còn mang bản chất tự cao, tự đại là những người đang thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng đối với mình và người khác.

Thiếu đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau, thì người đó dù có sang trọng như Thạch Sùng, quyền uy như vua chúa, thì mọi người cũng vẫn không kính trọng. Chính bản ngã tự tôn tự đại đã làm mất đạo đức làm người của họ, thì dù họ giàu sang và quyền uy đến đâu thì họ cũng chỉ là kẻ thiếu đạo đức, mà chính sự thiếu giáo dục đạo đức đó, nên họ là những người chịu khổ đau nhiều nhất trong cuộc sống hiện tại và mai sau.

Con người có thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú là nhờ có đạo đức, nếu không có đạo đức thì con người chỉ là một con thú vật thông minh, gian ác và hung dữ mà thôi.

Giới luật của Phật dạy chúng ta cung kính và tôn trọng pháp bảo, trong pháp bảo Phật dạy chúng ta sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh tức là dạy chúng ta biết cung kính tôn trọng lẫn nhau, nhờ có cung kính tôn trọng lẫn nhau thì cuộc sống mới an vui hạnh phúc và tâm hồn của mọi người mới thanh thản, an lạc, giải thoát như trên đã dạy.

Người thuyết pháp là bậc thầy mà ngồi ghế thấp, còn người nghe pháp là học trò mà ngồi ghế cao, thì thử hỏi còn gì là đạo đức tôn ti trật tự (49) cung kính tôn trọng lẫn nhau. Giới luật đạo đức không cho phép con người sống không có tôn ti trật tự, chỉ có những người vô đạo đức mới sống như vậy.

Giới luật Phật dạy: “Cấm không được thuyết pháp cho người nghe pháp ngồi ghế cao”. Lời dạy tuy đơn giản, nhưng ngầm chứa một hành động đạo đức cao vời vợi, tuyệt vời “Cung kính và tôn trọng”.

Trên đời, nếu chúng ta biết cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt giai cấp sang, hèn, có học hay vô học, có uy quyền hay không uy quyền thì thế gian này là cảnh Thiên Đàng. Chỉ vì tất cả mọi người không biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau nên cảnh thế gian này là địa ngục.

Chỉ khi nào, con người có tâm tha thiết tìm cầu sự giải thoát, người ấy phải biết hạ mình sát đất với lòng chân thành cầu xin pháp bảo đạo đức làm người “Không làm khổ mình khổ người” thì lúc bây giờ chúng ta mới giảng, nói pháp đạo đức giải thoát cho người này nghe. Người có tâm tha thiết như vậy thì liền khi nghe pháp xong được pháp nhãn thanh tịnh, còn những người tỏ thái độ ngạo mạn, thiếu đạo đức thì chẳng bao giờ được nghe chánh pháp của Phật, hầu hết đều nghe tà pháp, dù có nghe đúng chánh pháp nhưng họ lại (50) hiểu sai lệch biến chánh pháp thành tà pháp. Đó là trường hợp hiện giờ mọi người (tín đồ Phật giáo) đang dẫm lại lối mòn này, lối mòn của Đại Thừa giáo.

Thường giảng sư tà pháp đụng đâu thuyết giảng đó không đúng nơi, đúng chỗ và không đúng đối tượng, họ chỉ vì danh và lợi mà thôi. Cho nên họ thuyết rất nhiều, mà chỉ mua vui giải trí cho thiên hạ, chứ tu hành chẳng đi đến đâu cả.

Phật pháp là giáo pháp cứu người ra biển khổ, người giảng sư phải có đầy đủ đức cung kính và tôn trọng thì mới xứng đáng là người giảng pháp của Phật giáo. Nếu không như vậy, thì họ đã chôn vùi lời dạy quý báu của Đức Phật và muôn kiếp nghìn đời khó mà tìm ra lời dạy ấy. Bằng chứng ngày nay, kinh sách thì quá nhiều mà thứ kinh sách thật của Phật thì tìm rất khó, dù có tìm ra nhưng cũng chẳng biết bài kinh nào của Phật thật và bài kinh nào giả mạo. Do kinh sách người đời sau soạn viết ra mạo nhận là Phật thuyết quá nhiều, nên con đường tu hành của Đạo Phật đã mất dấu, khó mà người đời sau tìm ra manh mối được. (51)

Giới thứ chín mươi: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI ĐI TRƯỚC TA ĐI SAU

Pháp bảo của Phật là pháp môn giúp con người trau dồi thân tâm toàn thiện, để thoát vòng tục lụy đầy khổ đau và mãi mãi luân hồi trong sáu nẻo vô cùng, vô tận.

Để trở thành những con người có đạo đức thoát khỏi bản năng loài cầm thú và tiến dần lên để trở thành những bậc Thánh Hiền. Vì thế khi đi ngoài đường không được nói pháp, nhất là người nghe pháp lại đi trước, còn người nói pháp lại đi sau, đó là hành động người nghe pháp và người nói pháp đều thiếu đức cung kính và tôn trọng pháp bảo của Đức Phật.

Phật cấm các vị tỳ kheo khi đi ngoài đường còn không được nói chuyện phiếm, huống là nói (52) pháp. Giới thứ chín mươi này, đức Phật lại cấm nói pháp cho người đi trước nghe. Giới này có hai nghĩa:

  1. Trên đường đi không phải nơi nói pháp thì không được phép nói.

  2. Đi sau người không được nói pháp cho người đi trước nghe.

Hành động đang đi trên đường mà nói pháp là hành động thiếu giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo, người nghe pháp mà nghe pháp không đúng chỗ cũng là người thiếu đạo đức. Giới luật Phật cấm đi đường hoặc đi vào làng không được nói chuyện, nhưng người ta tự nghĩ rằng theo giới luật Phật dạy: chỉ có cấm không được nói chuyện phiếm, còn nói pháp thì Phật không cấm, nên mới có trường hợp xảy ra nói pháp ngoài đường, nhưng đến giới thứ chín mươi này thì rõ ràng Phật lại cấm nói pháp ngoài đường và nhất là nói pháp cho người nghe đi trước người nói pháp đi sau.

Mỗi hành động đạo đức vi tế nhỏ nhặt này, nếu chúng ta không chịu khó học tập để hiểu biết thì dễ bị sai lầm. Và khi đã sai lầm thì tự mình đã phá oai nghi tế hạnh đạo đức của mình. Nếu người tu sĩ (tăng và ni) không có đạo đức thì không thể làm gương cho ai hết, mà còn làm cho người ta phỉ báng Phật Pháp, khinh chê Đạo Phật.

Đức Phật (53) biết rất rõ tâm lý con người, một khi đã kiến chấp pháp nào vừa ý ưng bụng thì đụng đâu đem ra giảng nói đó, thuyết giảng một cách bừa bãi, không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người, nói bằng ưa thích, nói đến đổi khan cả cổ họng mà vẫn còn thích nói. Đó là những người đã bị ma pháp tưởng ám ảnh.

Trong thất kiết sử có kiến kiết sử, kiến kiết sử là một sự hiểu biết chuyên đề cố chấp, chuyên đề đó trở thành một sở trường hiểu biết của họ, nên bị kiến kiết sử đó sai khiến thích nói, gặp ai cũng nói về chuyên đề đó. Phần đông những kẻ này lạc vào thiền tưởng.

Thiền Đông Độ và kinh sách phát triển đã dạy người ta những kiến kiết sử này, do đó ai đã am tường nó thì rất thích tranh luận Thiền Giáo, khiến cho người tu sĩ mất hết oai nghi tế hạnh đạo đức, thường tranh luận hơn thua, nói xấu người khác. (54)

Giới thứ chín mươi mốt: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP KHI ĐI KINH HÀNH, NHẤT LÀ NGƯỜI NGHE ĐI CHỔ CAO, NGƯỜI THUYẾT ĐI CHỔ THẤP

Đi kinh hành nói chuyện với nhau thì không đúng cách đi kinh hành, vì đi kinh hành phải trụ tâm nơi bước đi. Đi kinh hành nói pháp, luận pháp thì tâm trí ở đâu tập trung nơi bước đi cho được. Hành động tu hành như vậy là tu sai, không đúng pháp đi kinh hành.

Đi kinh hành là tập trung ý tứ vào thân hành niệm, có đâu khởi niệm nói chuyện được, nếu đi kinh hành khởi niệm nói chuyện tức là đi kinh hành sai pháp (không đúng pháp đi kinh hành).

Giới này chúng ta phải hiểu ý nghĩa của Phật dạy, khi đang tu hành thì không được hỏi và nói (55) pháp, nhất là trong lúc đang tu tập đi kinh hành, cũng như trong thời gian tu tập các pháp môn khác cũng không được nói chuyện, cho nên pháp độc cư của Phật dạy là bí quyết thành công trong việc tu hành thiền định.

Gần đây chúng tôi đem pháp môn độc cư này dạy cho mọi người tu tập nhưng chẳng mấy ai tin tưởng, nên mọi người đều phá pháp môn này, vì vậy cuối cùng chẳng có người nào nhập được Bốn Thánh Định.

Nếu không thực hiện pháp “độc cư” thì Sơ Thiền là một loại thiền đầu tiên của Đạo Phật cũng không nhập được huống là nói đến nhập Bốn Thánh Định của Phật. Vậy mà thường có nhiều người tự khoe mình đã nhập Sơ Thiền, nhưng họ nghĩ như thế nào là nhập Sơ Thiền, khi mà họ còn ăn uống phi thời, còn thích chùa to Phật lớn, và còn thích sống trong một ngôi nhà sang đẹp, đầy đủ tiện nghi vật chất thế gian.

Lại nữa, còn có một số người tự xưng nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, nhưng xét lại đời sống của họ hoàn toàn phi phạm hạnh, tham, sân, si còn đủ. Đời sống chưa thực hiện thiểu dục tri túc, ba y một bát thì làm gì nhập được Bốn Thánh Định này.

Người có đức hạnh cung kính và tôn trọng lúc nghe pháp phải biết nhường chỗ cho người thuyết (56) pháp ở chỗ ngồi cao hơn mình, còn không làm được như vậy thì người trí hiểu biết sẽ khinh chê cả hai.

Giới này đặc biệt lưu ý là đi kinh hành, tức là đang tu mà nói chuyện hoặc nói pháp thì cả hai người đều thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng sự tu hành. Người nói pháp hay nói chuyện phiếm, cần phải lưu ý có năm điều phi đạo đức:

1- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng pháp bảo.

2- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng lúc đang tu hành của mình, của người.

3- Thiếu đạo đức cung kính tôn trọng lẫn nhau.

4- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng thời gian quý báu tu hành của mình của người khác.

5- Thiếu sự hiểu biết về hành pháp và thuyết pháp. Hành pháp và thuyết pháp là hai điều kiện khác nhau; hành pháp là làm hoặc sống đúng theo lý của giáo pháp đã dạy, để tập luyện trau dồi thân tâm; còn thuyết pháp chỉ là lời nói, lý luận suông mà thôi.

Hành pháp thì có lợi ích thiết thực, đi đến diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, sống một đời sống thanh thản, an lạc và vô sự. (57)

Thuyết pháp dần dần đi đến nuôi lớn ngã mạn, kiêu căng tự đắc, cố chấp dính mắc chạy theo tâm ham muốn danh lợi thế gian và chìm đắm trong dục lạc vật chất, nhưng tâm họ khéo lý luận để che đậy, lừa dối lại chính họ mà trong kinh phát triển thường có những lý luận lừa đảo này.

Tuy rằng giới này dạy cho giảng sư biết cách cung kính và tôn trọng pháp bảo khi thuyết pháp, để khiến cho người nghe pháp cũng phải biết cung kính và tôn trọng pháp bảo như nhau.

Nếu người nghe pháp biết tôn trọng và cung kính pháp bảo và vâng làm những gì pháp bảo đã dạy, thì mới có lợi ích thiết thực cho đời sống của họ.

Người tu tập và học đạo theo Phật giáo thì phải học đức hạnh cung kính và tôn trọng, trước tiên là cung kính và tôn trọng pháp bảo, sau là cung kính và tôn trọng mọi người khác, lúc nào cũng không được xem thường và khinh rẻ ai hết, dù người đó ở trong giai cấp nào hoặc bất hạnh, tàn tật, đui mù, dốt nát, ngu đần v.v.. đều phải cung kính và tôn trọng như tôn trọng và cung kính pháp bảo vậy, thì mới gọi là người có đạo đức nhân quả giải thoát.

Tóm lại giới này còn có một nghĩa lý đạo đức thâm sâu, đó là Đức Phật đã dạy về đức hạnh “độc (58) cư”, khi đang tu hành không được thuyết pháp, luận đạo và nói chuyện phiếm với nhau. (59)

Giới thứ chín mươi hai: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĐI GIỮA ĐƯỜNG, NGƯỜI THUYẾT PHÁP ĐI BÊN LỀ ĐƯỜNG

Phật dạy: Khi hai người đi song song nhau ngoài đường, không được nói pháp, vì nói pháp như vậy, không đúng chỗ, đúng nơi và đúng tư cách. Thuyết pháp như vậy là người thiếu giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng, nói thẳng là người không có đạo đức.

Hai người đi ngoài đường nói chuyện với nhau còn thiếu tư cách đạo đức làm người, huống là nói pháp. Nói pháp ngoài đường như vậy là người thiếu đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo của Phật như các giới trên đã dạy.

Tại sao vậy?

Vì Giới Luật và Giáo Pháp của Đức Phật đều dạy và xây dựng con người có một đạo đức nhân (60) bản “không làm khổ mình khổ người”. Do dạy con người không làm khổ mình khổ người là một giáo pháp rất quý, vô giá không thể lấy vật gì trên thế gian này so sánh và quý báu hơn được, thế mà nói pháp ngoài đường thì còn giá trị gì gọi là pháp bảo.

Nghiên cứu và đọc kinh sách của Đạo Phật mà không thấy được nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật thì người nghiên cứu ấy không thể hiểu biết cội gốc tu hành của Đạo Phật, thì làm sao theo Đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn cho được và làm sao cho viên mãn hoàn toàn cuộc cách mạng đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi.

Hiện giờ người ta hiểu Đạo Phật qua ống kính màu của Đại Thừa, cho nên họ tìm hiểu những điều cao siêu, huyền bí, thần thông, ảo ảnh, trừu tượng, mơ hồ, mê tín, dị đoan v.v.. Hầu hết những người này họ không hiểu Phật giáo Nguyên Thủy hoặc có hiểu cũng chỉ hiểu một cách nông cạn theo kiểu kiến giải của Đại Thừa. Họ chỉ xu hướng theo kinh sách phát triển dạy sao biết vậy và tin theo lời của các Sư Tổ Đại Thừa và Thiền Tông.

Toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy tuy có dạy chúng ta những điều cao siêu huyền bí nhưng nó không phải là mục đích chính của Đạo Phật mà mục đích chính của Đạo Phật là dạy chúng ta áp dụng và thực hiện đời sống đạo đức trong các (61) Thiện Pháp, tức là luôn luôn lúc nào cũng ngăn chận và diệt trừ các ác pháp, để thực hiện toàn diện đạo đức nhân quả làm người.

Tính chất thiện pháp là gì?

Tính chất thiện pháp là một nền đạo đức nhân quả thiện, chẳng làm khổ mình khổ người mà Đức Phật đã triển khai thành một pháp hành để thực hiện Thiền định, đó là “Tứ Chánh Cần”, cũng chính từ gốc pháp môn này, mới làm chủ sự sanh tử, luân hồi.

Trong đời sống hằng ngày của con người và của các tôn giáo hiện giờ đang có mặt trên hành tinh này đều sẵn có một đạo đức, nhưng đạo đức ấy chưa được toàn diện. Vì những đạo đức ấy còn làm khổ mình khổ người.

Cho nên tất cả đạo đức hiện có mặt trên quả đất này đều là đạo đức anh hùng cá nhân, đạo đức giai cấp, đạo đức quân tử, đạo đức trí thức (sĩ phu) v.v.. chứ không phải đạo đức bình đẳng, vô giai cấp như đạo đức của Đạo Phật.

Chỉ riêng có Đạo Phật mới có một nền đạo đức nhân bản bình đẳng, công bằng và công lý, không phân biệt giai cấp. Mỗi con người hiện có mặt trên hành tinh này, nếu muốn không còn khổ đau phiền toái, bất toại nguyện nữa thì hãy trau dồi xây dựng cho mình mỗi mỗi hành động thân, (62) miệng, ý đều là toàn thiện thì sẽ không làm khổ mình, khổ người nữa. Đó là một thứ đạo đức tuyệt vời biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Vì thế hành động tôn trọng và cung kính pháp bảo tức là cung kính và tôn trọng mọi người mà giới luật Phật đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nếu có cung kính, tôn trọng pháp bảo và mọi người thì không nên thuyết pháp bừa bãi.

Thuyết pháp bừa bãi không đúng chỗ, đúng nơi, đúng đối tượng là xem rẻ pháp bảo, xem rẻ pháp bảo là xem rẻ mọi người, mà xem rẻ mọi người thì sẽ làm khổ đau cho mình và làm khổ đau cho người khác. Làm khổ mình làm khổ người là người thiếu đạo đức, người thiếu đạo đức mà giảng pháp Phật là người bán pháp, mượn pháp Phật kinh doanh làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ.

Thuyết giảng pháp ngoài đường đức Phật còn không chấp nhận huống là thuyết pháp cho người nghe đi giữa đường, còn người thuyết pháp lại đi trong lề đường. Thuyết pháp như vậy, người hiểu biết sẽ khinh Phật giáo và sẽ khinh chê người thuyết pháp không đúng tư cách, không đúng đối tượng và không đúng chỗ, nơi, đó là người thiếu giáo dục đạo đức.

Người thuyết pháp và người nghe pháp không đúng chỗ, đúng nơi tức là thiếu sự tôn trọng và (63) cung kính giáo pháp của Đức Phật; thiếu sự cung kính tôn trọng giáo pháp của Phật là những người thiếu giáo dục đạo đức nhân bản của Đạo Phật. Những tu sĩ đạo Phật mà thiếu đạo đức, tức là những tu sĩ phạm giới phá giới, đó là những tu sĩ của Bà La Môn, chứ không phải là những tỳ kheo tăng và những tỳ kheo ni của Phật giáo.

Cho nên, chúng ta không tu theo Đạo Phật thì thôi, mà đã tu theo Đạo Phật thì hãy cố gắng rèn luyện tu tập đạo đức nhân quả, khiến cho chúng có những hành động thân, miệng, ý toàn thiện, nhờ đó chúng ta sống một đời sống an lạc và hạnh phúc, giải thoát hoàn toàn không còn khổ đau nữa. Muốn được vậy thì giới luật cần phải giữ gìn nghiêm túc. (64)

Giới thứ chín mươi sáu: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM GẬY KHÔNG CUNG KÍNH PHÁP BẢO

Người cầm gậy có mục đích là để bảo vệ sự nguy hiểm gặp thú dữ, nhưng đối với đạo Phật gậy gộc, dao, kiếm là loại vũ khí làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh, chứng tỏ người ấy còn tâm hung ác. Người còn tâm hung ác mà muốn nghe pháp của Phật thì không thể được, hãy bỏ gậy gộc, dao, kiếm tức là bỏ tâm hung ác, rồi mới được nghe pháp, bằng không bỏ tâm hung ác thì không thể nào có đủ duyên để nghe pháp được, dù có nghe nhưng lòng chưa soạn sẵn chỗ thiện, thì có nghe cũng chẳng ích lợi gì. Pháp Phật là pháp thiện, người còn tánh hung ác, dữ tợn thì không nên nghe pháp của Phật.

Tại sao vậy?

Tại vì, pháp Phật (65) sẽ dạy ngược lại với tâm ác của người đó, cho nên người đó nghe pháp lại còn thêm tức giận hơn và khổ tâm hơn vì có hai tư tưởng thiện ác sẽ đấu tranh nhau trong một con người.

Muốn nghe pháp Phật thì phải xả bỏ lòng hung ác, xả bỏ lòng hung ác là phải xả bỏ gậy, gộc, đao, kiếm như trên đã dạy. Người mà bỏ gậy gộc, dao, kiếm là người muốn quay về thiện pháp, người ấy đáng được nghe chánh pháp của Phật. Bỏ gậy, gộc, dao, kiếm tức là tạo duyên nghe pháp, tạo duyên nghe pháp tức là tạo duyên làm thiện, sống thiện.

Người cầm gậy là người thiếu đức hạnh từ bi; thiếu đức hạnh từ bi là thiếu lòng thương yêu chúng sanh; thiếu lòng thương yêu chúng sanh tức là thiếu lòng thương yêu chính bản thân mình.

Đạo đức của đạo Phật xác định rất rõ ràng, người có thương xót khắp muôn loài chúng sanh là người có đức từ bi với mình; có đức từ bi với mình tức là có lòng thương yêu mình và mọi người.

Bởi, thương yêu chúng sanh, tức là thương yêu mình, không làm khổ chúng sanh tức là không làm khổ mình. Người ăn thịt chúng sanh là người làm khổ mình mà tự mình không hay biết.

Đạo đức từ bi là một đạo đức nhân quả, vì luật (66) nhân quả có thiện và có ác, mà đạo từ bi của Đức Phật là đạo toàn thiện. Muốn sống được đạo toàn thiện thì phải ngăn ác diệt ác, mà ngăn ác diệt ác tức là thực hiện đạo từ bi; thực hiện đạo từ bi tức là thực hiện “Tứ Chánh Cần”.

Đạo từ bi tức là đức hạnh làm người; đức hạnh làm người là đức hạnh không làm khổ mình khổ người; không làm khổ mình khổ người là người đã giải thoát khỏi kiếp đời đầy đau khổ của chính mình.

Cho nên đối với người cầm gậy gộc, dao, kiếm v.v.. chúng ta không nên giảng pháp cho họ nghe, vì có giảng pháp cho họ nghe, đã không giúp họ giải thoát mà còn làm cho họ bực tức hơn và tạo điều ác hơn nữa. Nếu họ có tâm thành muốn nghe pháp thì họ phải bỏ gậy. Bỏ gậy tức là họ thể hiện lòng từ bi, chứ không phải bỏ chiếc gậy bên ngoài mà hãy bỏ chiếc gậy trong tâm của họ. Được như vậy lúc bây giờ chúng ta mới thuyết pháp cho họ nghe, khi nghe xong họ liền được tuệ nhãn thanh tịnh.

Hiện giờ có nhiều người nghe pháp Phật mà gây ác trong tâm của họ vẫn chưa bỏ, nên họ chẳng được tuệ nhãn thanh tịnh và họ đang sống trong một tâm đầy tham vọng, chạy đông chạy tây để tìm con đường giải thoát bằng cửa ngõ Thiền Định, Mật Tông, Tịnh Độ Tông v.v.. nhưng cuối (67) cùng những cửa ngõ này là ngõ cụt, nên chẳng ai thực hiện được sự giải thoát hoàn toàn.

Do không được tuệ nhãn thanh tịnh, nên đạo đức từ bi, họ không thể hiện được trong đời sống, tâm họ không ly dục ly ác pháp và diệt ngã xả tâm, nên cuộc sống của họ đau khổ lại càng đau khổ hơn. Cho nên giới luật dạy đạo đức này đối với người còn tâm ác thì không thể nhiếp phục họ được, vì thế không nên thuyết giảng thiện pháp cho họ nghe, vì có nghe cũng chẳng có ích lợi gì cho họ và còn biến giảng sư trở thành đào kép hát cho họ nghe để giải trí, mua vui, chớ không có ích lợi gì.

Người muốn nghe Phật pháp phải từ bỏ tánh hung ác, từ bỏ tánh hung ác tức là từ bỏ gậy, gộc, dao, kiếm, giáo, mác v.v… thì mới xứng đáng là người nghe pháp của Đức Phật. Đó là một xác quyết chắc chắn như vậy, nếu nghe pháp Phật thì phải dọn sẵn tâm thiện để đón nhận đạo đức từ bi. Chính đạo đức từ bi mới dẫn dắt họ đến thiền định làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi. (68)

Giới thứ chín mươi bảy: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM KIẾM

Những người cầm gươm, kiếm, giáo, mác là những quân nhân, giặc cướp, những người này khi lâm trận đều phải giết người như nhau. Nhưng nếu đem thiện pháp giảng cho những người này nghe ở một góc độ thụ động của Phật Giáo Đại Thừa thì họ sẽ không hiểu Phật giáo là một tôn giáo tự lực cứu mình, họ sẽ hiểu và lầm chấp Phật giáo tha lực, bằng sự gia hộ, cứu độ của Phật và Bồ Tát như trong các kinh Đại Thừa đã dạy. Trường hợp giống như vua Lương Võ Đế rất sùng Phật giáo, kiến lập 72 kiểng chùa, mà lại hiểu giáo lý thiện thụ động của Phật Giáo Đại Thừa nên để giặc cướp nước, giết chết trong lúc vua quan lo tụng kinh cầu chư Phật và Bồ Tát gia hộ, cứu khổ cứu nạn đuổi giặc, thật là một việc làm ngu si, chỉ có Phật giáo phát triển mới chỉ dạy cách sống (69) tiêu cực và phi đạo đức, cầu tha lực như vậy, thật là đau lòng cho những ai tin tưởng vào giáo pháp phát triển sẽ đi đến chỗ diệt vong, như vua quan nhà Lương.

Hiện giờ người ta đắm mê giáo pháp phát triển và Tối Thượng Thừa đang lý luận siêu tuyệt, thế mà mọi người bỏ công bỏ sức tu hành suốt cả đời người mà chẳng đến đâu cả, hiện giờ có nhiều người đang dở chết dở sống nhìn lại quảng đời tu hành của mình thật là đau khổ dường nào! Và còn biết than thở cùng ai khi thân già yếu, bịnh tật đổ ra, nay đau mai ốm, sự chết như chỉ mành treo chuông mà chẳng biết cách nào làm chủ bây giờ, chỉ còn sống chịu trong cảnh địa ngục này mà thôi.

Đạo Phật là đạo tự lực cứu mình trong Thiện Pháp, nhưng khi quê hương đất nước bị giặc ngoại xâm, mọi người đều phải đứng lên chiến đấu để bảo vệ đất nước quê hương. Trong lúc đó ta cầm gươm, đao, giáo, mác giết giặc không có tội lỗi gì cả.

Tại sao vậy?

Tại vì kẻ xâm lăng cướp nước chúng ta, bắt buộc mọi người dân bản xứ phải làm nô lệ cho chúng và chúng còn muốn giết người dân nào thì mặc tình giết như giết một con thú vật, chẳng chút lòng thương hại. (70)

Ta bảo vệ đất nước, giết kẻ xâm lăng, chận đứng bàn tay đẫm máu hung ác của chúng, do đó chúng ta giết người mà không có tội lỗi gì cả.

Phật dạy chúng ta sống trong đạo đức nhân quả, đạo đức nhân quả thì phải có công bằng và công lý, kẻ xâm lăng cướp nước người là không công bằng công lý, chúng đi ngược lại đạo đức nhân quả làm khổ mình làm khổ người khác, đó là một hành động bất công, gian ác.

Chúng ta có quyền chận đứng bàn tay hung ác của kẻ xâm lăng cướp nước người, bằng mọi cách để đem lại sự công bằng công lý cho con người trên hành tinh này.

Trong một trăm giới luật chúng học từ giới 97, 98, 99, đều dạy giống như nhau, đối với người hung ác chưa buông xả gậy, gộc, gươm, dao, giáo, mác, kiếm, cung v.v.. thì không nên nói pháp cho họ nghe.

Nếu thuyết pháp của Phật cho những người hung ác này nghe sẽ làm nghịch tai trái ý, đã không ích lợi cho họ mà còn làm cho họ thêm phẫn nộ như trên đã dạy. Bởi vậy, người thuyết pháp phải sáng suốt nhận định đúng đối tượng, đúng nơi, đúng chỗ mới thuyết, bằng không đúng thì thôi, ai cạy răng cũng chẳng bao giờ nói, dù là một lời cũng không nói. (71)

Hiểu cho đúng nghĩa của giới cấm này, thì người nghe pháp phải buông gậy, gộc, gươm, kiếm, giáo, mác xuống, có nghĩa là người nghe pháp phải thực hiện lòng từ bi, chứ không có nghĩa buông gậy, gộc, gươm, kiếm, giáo, suông như trên đã dạy.

Ở đây chúng ta phải hiểu, không phải không thuyết giảng cho những người cầm vũ khí nghe pháp, nhưng người cầm vũ khí muốn nghe pháp thì phải bỏ vũ khí, không được mang vũ khí theo vào giảng đường nghe pháp, sau khi nghe pháp xong thì tự do mang vũ khí lại. Đó là hành động chứng tỏ người có thiện chí nghe pháp xả bỏ tâm ác.

Người thuyết giảng pháp Phật khi có người nghe pháp mang vũ khí thì xin họ bỏ vũ khí bên ngoài rồi vào nghe pháp. Đừng thấy họ mang vũ khí mà run sợ, họ bảo giảng pháp là cứ giảng cho họ nghe là không tốt, là tai hại cho người nghe, vì dù họ có nghe pháp nhưng họ chẳng sửa tâm tánh.

Tại sao vậy?

Vì nếu ta quá sợ hãi mà thuyết giảng pháp cho họ nghe thì họ sẽ mất đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo, tức là mất lòng cung kính tôn trọng người khác, nếu họ chẳng chịu bỏ vũ khí thì chúng ta không thuyết giảng, dù họ có giết chúng ta chết, chúng ta cũng vui lòng không hề sợ hãi (72) mà giảng pháp cho những người không biết phục thiện.

Người giảng sư thuyết pháp không có nghĩa là giảng pháp bằng những lời nói suông mà còn phải dạy đạo đức cho họ bằng những hành động đạo đức sống của mình. Con người có đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo và giảng sư, thì mới có sự cung kính và tôn trọng người khác, có sự cung kính và tôn trọng người khác thì mới diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp; có diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp thì mới không làm khổ mình khổ người.

Người không có đức hạnh tôn trọng và cung kính người khác thì chẳng bao giờ diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp được. Cho nên chỉ có đức hạnh cung kính và tôn trọng thì tâm ngã mạn mới diệt sạch. Do tâm ngã mạn diệt sạch thì tâm hồn mới được giải thoát, an vui và hạnh phúc. (73)

Giới thứ chín mươi tám: NGƯỜI CẦM GIÁO KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGHE

Giới này Phật dạy cũng như những giới trên, không nên thuyết pháp cho người chưa buông bỏ gươm, đao, giáo, mác v.v..

Người giảng sư đụng đâu giảng đó không nhận biết khi mình giảng pháp có đem lại sự lợi ích thiết thực cho người nghe pháp hay không? Để biến họ trở thành những người tốt, có đạo đức, hay chỉ là làm một người nghệ sĩ biết hát cho người nghe mua vui giải trí trong khi họ làm việc bằng trí óc hoặc bằng tay chân quá mỏi mệt.

Nếu một giảng sư đụng đâu giảng đó cũng giống như một đào kép hát mà thôi, chỉ mua vui giải trí cho thính giả. Phật Pháp không thể thuyết giảng như vậy được. Nếu người muốn nghe pháp thì phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, mà đã có lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo thì (74) phải bỏ tâm hung ác, dữ tợn để hướng về Phật pháp nghe những lời lành mà Phật đã dạy. Để nương theo những lời lành đó, sửa đổi tâm tánh và các hành động sai quấy thiếu đạo đức thường làm khổ mình khổ người, để trở nên những con người có đạo đức và có giáo dục đức hạnh hơn.

Người giảng sư thiếu cung kính và tôn trọng pháp bảo là người giảng sư bừa bãi thiếu đạo đức, thiếu đức hạnh làm giảng sư thì giảng pháp chẳng ích lợi gì cho ai cả, mà hành động giảng pháp như vậy là phi pháp; giảng pháp như vậy càng làm thêm tội lỗi đối với Phật pháp.

Người giảng sư không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là người giảng sư không có đạo đức, không có đạo đức tức là vị tỳ kheo phá giới, phạm giới, là người không xứng đáng giảng pháp của Phật.

Người giảng sư thiếu giới hạnh và giới đức mà giảng pháp của Phật là người nói láo lường gạt tín đồ, nói được mà sống không đúng lời Phật dạy thì đó là tội đại vọng ngữ, mà các giảng sư thời nay đều phạm tội này.

Giảng sư là người phải làm gương sáng cho tín đồ soi chứ không phải chỉ có lời nói suông theo chữ nghĩa trong kinh sách, nên làm giảng sư phải sống đúng giới luật nghiêm chỉnh và đức hạnh phải rõ ràng. (75)

Một giảng sư còn trang điểm làm đẹp đẽ, sang trọng, còn nằm giường cao rộng lớn, còn ăn uống phi thời, còn cất giữ tiền bạc, còn có của cải tài sản riêng tư, còn có chùa to Phật lớn, còn có xe gắn máy, ô tô đẹp sang như nhà giàu có, mà dạy người đừng trang điểm, đừng nằm giường cao rộng lớn, đừng ăn uống phi thời, đừng cất giữ tiền bạc, xả bỏ của cải tài sản, xe cộ thì thử hỏi lời nói của giảng sư có đi đôi đúng với hành động sống hay không?

Nếu lời nói và hành động không đi đôi là giảng sư đã tự không cung kính và tôn trọng pháp bảo, mà không cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là vị giảng sư không cung kính và tôn trọng mình, chính mình không cung kính và tôn trọng mình thì còn ai là người cung kính và tôn trọng mình được nữa?

Cho nên người giảng sư phải biết tôn trọng và cung kính mình thì lời nói và hành động phải đi đôi (tri hành hợp nhất) thì trước tiên giảng sư phải biết tôn trọng cung kính pháp bảo, biết tôn trọng cung kính pháp bảo là phải biết sống đúng pháp, đúng giới luật của Phật đã dạy, phải nghiêm trì giới luật không được vi phạm, nếu phạm một giới luật nhỏ nhặt thì cũng không xứng đáng là vị giảng sư.

Sống đúng pháp, đúng giới luật của Phật thì (76) không bao giờ thuyết giảng lung tung, bừa bãi, không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người. Đó chính là giảng sư chân chánh của Đạo Phật.

Khi thuyết giảng người giảng sư biết chỗ nào đúng và chỗ nào không đúng để giảng pháp; đối tượng nào giảng pháp và đối tượng nào không nên giảng pháp. Đó là đức hạnh của người giảng sư cần phải có, khi bước lên pháp tòa.

Khi người mang gươm, giáo, dao, gậy đến nghe pháp thì chắc chắn không bao giờ được nghe pháp. Vì giới luật Phật đã dạy kẻ nghe pháp phải bỏ gậy, gộc, dao, mác, gươm, đao, súng, đạn v.v.. như trên đã dạy. Có bỏ gươm, đao, gậy, gộc v.v.. để thực hiện lòng từ bi thì mới được nghe pháp trọn vẹn, nghe pháp với lòng lành mới chính là nghe pháp Phật, lòng lành tức là đạo đức làm người của Đạo Phật.

Trong các giới luật này Đức Phật đã dạy đức cung kính và tôn trọng gồm có ba cách cung kính và tôn trọng:

1 - Cung kính và tôn trọng pháp.

2 - Cung kính và tôn trọng người.

3 - Cung kính và tôn trọng mình.

Nhờ pháp bảo dạy chúng ta tu tập và rèn luyện mỗi hành động thân, miệng, ý đều thể hiện đức cung kính và tôn trọng đối với mọi người, mọi (77) chúng sanh và với chúng ta nữa, nhờ đó tâm chúng ta được giải thoát không còn làm khổ mình khổ người. (78)

Giới thứ chín mươi chín: NGƯỜI CẦM DAO KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGHE

Giới này cũng giống như giới trên đã dạy về đức hạnh cung kính và tôn trọng. Đối với những người hung ác chưa buông bỏ gậy, gộc, gươm, dao, giáo, mác v.v.. thì không nên nói pháp cho nghe.

Để kết luận những giới luật dạy những đức hạnh cung kính và tôn trọng của những người đang cầm gậy, gộc, kiếm, gươm, đao, giáo, mác v.v.. Giới luật này không phải cấm quân nhân chiến sĩ cầm gươm, đao, giáo, mác, kiếm, cung, súng, đạn v.v.. để chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương tổ quốc. Giới luật này dạy các ngài phải có lòng cung kính và tôn trọng đạo đức làm người. Trong đạo đức làm người đức tôn trọng và cung kính mọi người là một đức hạnh cao quý, mà loài cầm thú không thể nào có được, chỉ (79) có loài người nhờ có trí tuệ thông minh hơn mọi loài nên mới học tập trau dồi đức hạnh cung kính và tôn trọng.

Có tôn trọng và cung kính mọi người, mọi loài cầm thú, nhờ đó chính chúng ta mới biết lấy đạo đức đối xử với đạo đức, vì thế cuộc sống của chúng ta mới có thanh thản an lạc và hạnh phúc, xã hội mới có trật tự an ninh, đất nước mới có thanh bình thịnh trị. Còn đối với những kẻ xâm lăng cướp nước người, thì chúng ta vẫn cung kính và tôn trọng chúng nhưng chúng không biết tôn trọng và cung kính chúng ta thì chúng ta phải lấy gươm, đao, súng, đạn v.v.. đối xử với chúng, chứ không phải cung kính và tôn trọng bằng một hành động hèn nhát, quỳ phục, đầu hàng. Giới luật Phật không có dạy chúng ta hèn hạ như vậy, vì Đạo Phật là đạo tự lực, nên luôn luôn lúc nào cũng tự lực cứu mình, không nhờ ai cả. Sống trong đạo đức không làm khổ mình khổ người, nhưng kẻ nào làm khổ người khác tức là làm ác thì chúng ta phải tự lực vươn lên cứu mình cứu người tức là cứu nước, không khuất phục trước kẻ xâm lăng hung ác, bằng mọi giá, không phải tiêu cực như kiểu hệ phái phát triển dạy, ngồi đó gõ mõ tụng kinh cầu chư Phật và chư Bồ Tát gia hộ cho quốc thái dân an. Đối với giặc ngoại xâm thì (80) việc làm đó là khiếp nhược, hèn hạ và sẽ bị mất nước, làm nô lệ cho giặc. Đối với nền kinh tế mà ngồi đó gõ mỏ tụng kinh cầu chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho mưa thuận gió hòa, cho cơm ăn áo mặc đầy đủ và giàu sang như mọi người thì đó là kẻ lười biếng, kẻ ăn bám của xã hội, chờ cho người khác bố thí, thật là hèn hạ chẳng xứng đáng làm người có đạo đức của Đạo Phật.

Đạo đức của Đạo Phật là đạo đức nhân quả tự lực tức là tự mình cứu mình bằng những hành động “Thiện”. Thiện ở đây phải hiểu là “trí tuệ thiện” chứ không phải “ngu si thiện”.

Những kẻ ngoại xâm cướp nước người khác là những kẻ không có đạo đức tôn trọng và cung kính sự sống của loài người, chúng chỉ còn biết lấy gươm, đao, giáo, mác, súng, đạn v.v.. để uy hiếp và bắt buộc kẻ khác làm nô lệ chúng.

Vì thế, đối với những hành động của kẻ hung ác này, chúng ta cũng sẵn sàng lấy gươm, đao, giáo, mác, súng, đạn v.v.. đối lại với những kẻ thiếu đức hạnh tôn trọng và cung kính người khác, sẵn sàng cho chúng một bài học đạo đức làm người, phải biết tôn trọng và cung kính mình; phải biết tôn trọng và cung kính người khác. Có tôn trọng, có cung kính mình và người khác thì mới có đạo đức bằng không có đạo đức chúng chỉ là một loài cầm thú ác độc, chớ không phải là con người. Con người (81) phải có đạo đức, phải biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Chỉ có loài cầm thú mới không biết tôn trọng và cung kính lẫn nhau, ỷ mạnh ăn hiếp yếu, thì chúng ta sẵn sàng chiến đấu, nhất định là không đầu hàng kẻ hung ác.

Cho nên, chúng ta cầm gươm, đao, giáo, mác, súng, đạn v.v.. đứng lên diệt kẻ ác, không có tội lỗi gì, vì luật nhân quả dạy chúng ta rất thiện, thiện trong công bằng và công lý, kẻ làm ác không công bằng công lý phải đền tội.

Luật nhân quả không dạy chúng ta đầu hàng trước kẻ ác, mà dạy chúng ta phải chiến đấu tận cùng để nói lên, đâu thiện đâu ác, đâu chánh đâu tà, bằng chứng cuộc cách mạng trường kỳ kháng chiến của dân tộc Việt Nam đuổi kẻ ác xâm lăng.

Bởi vậy, đạo đức của Đạo Phật dạy chúng ta làm con người phải cho ra con người, đừng có làm nửa thú nửa người mà tạo cảnh khổ đau cho nhau.

Hiện giờ trên hành tinh này, loài người còn thiếu một đạo đức làm người, nếu đạo đức làm người đã có, thì mọi người phải biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Nếu đã có một đạo đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì làm sao trên thế giới này còn có chiến tranh? Nếu có đạo đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì làm sao còn có xương máu con người chết thành sông thành núi một cách vô lý như thế này? (82)

Chiến tranh thế giới đã chứng minh cho chúng ta thấy con người đang thiếu đạo đức thật sự. Con người đang mang lớp người mà bản chất là của loài cầm thú, cho nên luôn luôn chà đạp lên nhau, giết hại lẫn nhau vì miếng ăn, manh áo, vì kinh tế, vì ý thức hệ và vì tôn giáo v.v..

Khắp thế giới không nước này chiến tranh thì nước kia, chứng tỏ con người còn mang lớp cầm thú nặng nề, chưa cởi bỏ, lòng hung ác còn đầy rẫy, vì thế luôn tạo ra tội ác tràn ngập đầy trời.

Đạo phật ra đời nhằm triển khai cho loài người một nền đạo đức giải thoát khiến cho con người không còn đau khổ; không còn mạnh hiếp yếu; không còn lớn hiếp nhỏ, để đem lại sự hòa bình cho toàn thể thế giới; để đem lại cho con người một cuộc sống như cõi Thiên Đàng. Thế mà cách đây 2543 năm nền đạo đức ấy đã bị dìm mất bởi tâm tham vọng của Đại Thừa giáo đã khiến cho con người ngày nay càng khổ đau chồng chất lên đau khổ chỉ vì tâm tham vọng ấy nên đã bỏ mất một đạo đức quý báu tuyệt vời.

Bởi vậy đức cung kính và tôn trọng rất cần thiết cho con người, nên cần phải tu tập và trau dồi sửa lại những gì còn sai sót, tội lỗi không đúng đạo đức làm người, để con người sống cho ra thật con người và còn vượt thoát khỏi bản năng của loài cầm thú hung ác. (83)

Nếu không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo thì làm sao có lòng cung kính và tôn trọng mọi người. Vì thế người thuyết giảng trước tiên phải biết cung kính pháp bảo để hướng dẫn những người khác biết cung kính và tôn trọng, có cung kính và tôn trọng pháp bảo thì mới có cung kính và tôn trọng mọi người, có cung kính và tôn trọng mọi người, tức là cung kính và tôn trọng mình như trên đã dạy; có cung kính, tôn trọng người và cung kính, tôn trọng mình thì mới không làm khổ mình khổ người.

Đó là giới luật của Phật dạy chúng ta đức hạnh cung kính và tôn trọng để làm người cho xứng là con người; làm con người xứng đáng là con người thì không làm khổ mình khổ người, muốn được vậy chỉ có đức hạnh cung kính và tôn trọng là đức hạnh thứ nhất. Nhưng về mặt tu tập thiền định thì đức hạnh cung kính và tôn trọng giúp cho chúng ta ly dục ly ác pháp một cách dễ dàng. Ly dục ly ác pháp chính là mục đích của giới luật để đạt được thiền định của Đạo Phật, làm chủ sự sống, chết, bịnh tật và luân hồi.

Người có đạo đức nhân quả giải thoát thì mới ly dục ly ác pháp được, nhưng đức hạnh cung kính và tôn trọng là một trong những hành động đạo đức nhân quả, muốn có đạo đức nhân quả thì phải học và tu tập theo đức hạnh trong giới luật (84) của Phật đã dạy. Do đó ta mới thấu rõ là pháp môn giới luật của Phật là pháp môn vô lậu thật sự. Nếu ai không tu giới luật mà bảo rằng vô lậu giải thoát thì không bao giờ có được, đó chỉ là lời lừa đảo tín đồ mà thôi.

Cho nên, giáo lý phát triển phần nhiều dạy người tu sĩ phá và xem thường giới luật. Vì thế tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni) hiện giờ đều phạm giới và phá giới, sống không đúng giới hạnh, hành không đúng giới đức, nên thời này khó mà tìm một vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh.

Kinh sách giới luật thì không thiếu gì, nhưng tu sĩ thì rất xem thường giới luật, tức là xem thường những hành động đạo đức tu hành của chính mình, vì thế, tìm một vị tu sĩ nghiêm trì giới luật rất khó trong thời đại hiện nay. (85)

Giới thứ một trăm: NGƯỜI CẦM DÙ KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGHE

Người vào nhà còn che dù, đội nón thì không nên thuyết pháp cho những người này nghe, họ là những người không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo.

Trong một trăm giới chúng học, đức hạnh cung kính và tôn trọng đã chiếm rất nhiều giới luật dạy về đức hạnh này. Chính vì nhờ có cung kính và tôn trọng pháp bảo thì chúng ta mới có lòng cung kính và tôn trọng mọi người, có cung kính và tôn trọng mọi người thì tâm ta mới được giải thoát. Đó chính là dùng đức hạnh cung kính và tôn trọng để dạt được mục đích của Đạo Phật. Đức cung kính và tôn trọng là một đức hạnh cao thượng mà con người ít ai làm được. Phần nhiều chỉ vì tự ngã của họ đã che lấp đức hạnh cung kính và tôn trọng, nên họ chỉ biết có mình là (86) trên hết, thường mong muốn ai cũng cung kính và tôn trọng mình, xem mình như Thánh, Tiên, Phật v.v.. Cũng chính vì tự ngã nên ít ai chịu thấy cái sai quấy, cái lỗi lầm của mình, luôn luôn lúc nào cũng chỉ thấy cái sai quấy của người khác. Chính vì vậy mà con người phải chịu khổ đau suốt đời.

Biết cung kính và tôn trọng người khác thì đừng nhìn vào việc làm của người khác, mà hãy nhìn vào việc làm của mình, để mình tu sửa, trau dồi thân tâm và quyết tâm khắc phục những lỗi lầm sai trái mà làm người không ai tránh khỏi những lỗi lầm đó.

Hiện giờ thân tâm mình còn những thói quen của loài cầm thú, nên không thể nào không lỗi lầm. Vì thế hằng ngày thường quán xét, tư duy trong mỗi mỗi hành động của mình để cố gắng khắc phục sửa sai, thì mới mong có ngày sống đúng đạo đức làm người.

Trên bước đường tu tập theo Phật giáo, Đức Phật đã từng răn nhắc chúng ta: “Biết chuyện mình đừng biết chuyện người”. Nếu một người muốn thực hiện đạo đức làm người thì phải tâm niệm lời dạy này cho thấm nhuần tận tâm can, thì mới mong sống đúng đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người.

Người đời chỉ vì biết chuyện người mà không (87) biết chuyện mình, nên từ đó lòng cung kính và tôn trọng mất đi. Lòng cung kính và tôn trọng mất đi thì tâm ta khó diệt ngã, khó xa lìa lòng ham muốn, khó ly dục ly ác pháp. Do không diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, nên cuộc đời thọ biết bao nhiêu sự đau khổ, chính vì vậy mà đạo đức làm người sống không trọn vẹn.

Cung kính và tôn trọng là đức hạnh giúp ta giải thoát khỏi khổ đau của kiếp làm người. Cung kính và tôn trọng giúp ta phát khởi lòng từ bi, nếu thiếu đức cung kính và tôn trọng thì tâm từ bi của chúng ta khó phát triển; tâm từ bi của chúng ta không phát triển thì không có cách thức nào và phương pháp nào đối phó với tâm tham, sân, si, phiền não của chúng ta được. Do đó diệt ngã xã tâm ly dục ly ác pháp để thực hiện thiền định thì chỉ là một giấc mơ mà thôi.

Tăng, ni và quý phật tử hãy lấy giới luật Phật tu tập xây dựng cho mình thành một con người có đạo đức, có đầy đủ lòng cung kính, khiêm hạ và tôn trọng tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh, thì con đường giải thoát của Đạo Phật sẽ hiện tiền trước mắt mọi người, không mấy khó khăn. Cho nên một tu sĩ Đạo Phật (tăng, ni) mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì những tu sĩ đó là những người thiếu đạo đức, không thể nào tu tập giải thoát được. Bởi vậy, nhìn các vị tỳ kheo tăng và tỳ (88) kheo ni tu hành chân, giả đều biết dễ dàng qua hành động sống đạo đức giới luật, chứ không phải ở chỗ thuyết giảng hay, lý luận giỏi hoặc có thần thông, phép tắc lạ hoặc có bùa chú linh thiêng hoặc ngồi thiền nhập định giỏi mà hãy nhìn họ sống có đúng giới đức, giới hạnh hay không, thì đủ đánh giá trị chân, giả sự tu hành của họ.

Nếu giới đức, giới hạnh đầy đủ thì những vị tu sĩ ấy là bậc chân tu giải thoát của Đạo Phật. Còn những người nào giới đức, giới hạnh không có, thì đó là tà sư ngoại đạo, quý phật tử và tăng, ni hãy tránh xa không khéo sẽ bị họ lừa đảo.

Cho nên, người đội dù, đội nón và đội khăn v.v.. khi bước vào nhà mà không lấy xuống là những người vô lễ thiếu giáo dục đạo đức, cũng như khi ngồi nghe pháp mà dù, nón, khăn không lột xuống tức là người vô giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng, những người như vậy không nên thuyết pháp cho họ nghe.

Trước khi nghe pháp những người này phải được dạy pháp cung kính và tôn trọng pháp bảo và còn phải biết cung kính mọi người, nếu không được dạy như vậy thì giảng sư không nên thuyết pháp cho họ nghe. Vì Pháp Phật là những giáo pháp cao quý và vô giá, giúp cho con người có đầy đủ đạo đức, đạo hạnh vượt thoát biển khổ, sông mê của kiếp sống làm người. (89)

(90)


Trích dẫn - Ghi chú - Copy