00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(52:03)

9.1- SIÊNG NĂNG HỌC TẬP, GIỮ GÌN GIỚI LUẬT VÀ OAI NGHI TẾ HẠNH

(52:03) Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba.

Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như vậy.

Cắt ái là đoạn lìa đó, những cái thương, ghét của chúng ta đối với gia đình, đối với tài sản đó.

Quý vị phải siêng năng học tập giới luật.

Nghĩa là bây giờ cạo tóc rồi đó, thì tất cả những cái giới luật của Phật là phải học trước chớ không được học kinh. Quý vị nhớ kỹ! Học kinh quý vị không thấy được cái Phạm hạnh của quý vị, không thấy được những cái oai nghi tế hạnh của quý vị đâu, cho nên quý vị phải học luật.

Cho nên khi mà xuất gia, ở trong kinh luật cũng dạy: Phải năm năm học luật, rồi sau năm năm đó mới học thiền. Quý vị hiểu điều đó!

Không có giới luật nào mà quý vị không thuộc. Quý vị phải thường hằng cố gắng, sống đúng giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật.

Nghĩa là bắt đầu vào cái giai đoạn thứ ba thì quý vị phải đoạn dứt cái tâm đời của quý vị, cái cuộc sống đời của quý vị, mà quý vị phải siêng năng học tập giới luật, thuộc tất cả những cái hành động, cái oai nghi tế hạnh trong giới luật. Quý vị phải cố gắng giữ gìn không có cho phạm những cái lỗi nhỏ ở trong giới luật.

Muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phải tu tập bốn pháp hạnh đầu tiên.

Đây, nếu mà muốn sống đúng cái nếp sống của người tu sĩ đạo Phật thì quý vị phải tu bốn cái pháp hạnh đầu tiên:

Đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.

(54:01) Quý vị phải tu tập bốn cái pháp này.

Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh; từ bỏ trượng, gậy, kiếm, đao; bỏ những loại vũ khí giết hại chúng sanh.

Đó là cái giai đoạn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh. Nhưng mà muốn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh thì quý vị phải tu tập những cái giới đầu tiên của quý vị, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh. Đó là cái giới đầu tiên của quý vị.

Nhưng ở đây chúng ta, ở đoạn trên là chúng ta đã học những cái giới đó rồi, thì bây giờ ở đoạn dưới mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta sẽ, bắt đầu chúng ta phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, thì cái này sẽ được Thầy giảng dạy: Từ bỏ sát sanh như thế nào, mà tránh xa sát sanh như thế nào. Nhưng trước khi giảng dạy cái này thì Thầy sẽ giảng dạy Tứ Bất Hoại Tịnh.

Hôm nay thì đã hết giờ, ngày thứ năm tới, chúng ta sẽ tiếp tục cái giáo án này.

(55:47) Trước khi học tu Tứ Bất Hoại Tịnh, Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ hai của đạo Phật:

Sau khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một lối sống đối với người thế gian thì được xem là rất mới mẻ và còn lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này.

Mà muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình; luôn luôn phải bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa; vui theo nếp sống trong sự an tịnh; thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc, không Phật tử thân thương; sống với mục đích chủ động, thân tâm bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên đều chủ động.

Đây là cái người mà muốn đi vào cái lộ trình thứ hai - xuất gia của đạo Phật, thì đương nhiên là phải có một cái lối sống, không phải sống như hồi còn ở thế gian được, mà phải dứt bỏ hết những cái sự của cải tài sản, cái lòng thương yêu, và dứt bỏ hết không còn có gì gọi là mang theo trong thân tâm của mình.

Nghĩa là bỏ sạch, thật sạch và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng, sống không còn thân hữu, bạn bè; không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống; không còn thích cái này, cái nọ, kia nữa.

Và cũng không còn sợ hãi phải có Phật tử thân thuộc để lo cho mình miếng ăn, áo mặc, mà chỉ cần phải sống với một mình. Trước hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình không để cho dao động trước mọi cái hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.

(58:40) Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Vậy dứt bỏ những gì?

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha;

Nghĩa là cái người tu sĩ, cái người mà bước qua cái lộ trình của người tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy cái giới luật của Phật làm cái cuộc sống của mình. Cho nên, hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự cái lời nói của mình phải đúng ở trong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay hoặc là Patimokkha.

Luôn luôn phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh; phải thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt.

Phải nhận ra được cái sự nguy hiểm khi mà chúng ta phạm phải những cái lỗi nhỏ nhặt ở trong cái giới bổn, ở trong những cái oai nghi mà thiếu sót làm chúng ta không xứng đáng là một cái vị tu sĩ, thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác cho nó rõ ràng.

Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân, khẩu, ý của mình, do vì vậy mà mình mới giữ gìn cái giới hạnh, chế ngự cái thân, khẩu, ý của mình trọn vẹn ở trong cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề.

Còn nếu mà mình không có chế ngự, không có giữ gìn thân, khẩu, ý của mình thì những cái lỗi nhỏ, cái oai nghi tế hạnh nhỏ mình sẽ bị phạm, và bị phạm thì nó làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự sợ hãi trong chúng tăng, trong những vị tu hành.

Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay còn gọi là Patimokkha; luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ; phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn; phải luôn luôn thọ trì, học tập, trau dồi, tu tập trong giới học; thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập, hằng ngày sinh hoạt trong cuộc sống luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn, đầy đủ.

Lúc nào người tu sĩ cũng luôn luôn phòng hộ sáu căn - giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.

(1:01:31) Vì lúc bấy giờ mình biết: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc sáu trần, dễ bị say đắm, lôi cuốn sáu trần. Nhất là cái đời sống giới hạnh và giới đức của Phật làm cho cái cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với con người mới vào tu, vì vậy mà sáu căn tiếp xúc sáu trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu.

Cho nên phải cố gắng mà phòng hộ sáu căn: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, đừng cho duyên sáu trần sẽ sanh ra sáu thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đi đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về cuộc sống thế tục.

Muốn được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ sáu căn giống như một người lính gác cổng thành: luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra, người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu, kẻ nào gian, kẻ nào thật; phải luôn luôn đề cao cảnh giác, ý tứ từng chút một. Đó là bổn phận và trách nhiệm của một người lính gác cổng thành.

Thì đối với người tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người tu theo đạo Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy: Phải luôn luôn ý tứ và cảnh giác từng chút, vì đó là bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu một sự cảnh giác thì bị các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là xâm chiếm thành, những kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm.

Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu cảnh giác là tâm bị xâm chiếm. Nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được yên ổn; nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn, không bị dính mắc các trần, cũng như người lính đã giữ trật tự an ninh trong thành.

Đã cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc.

Tức là phải biết ít muốn mà biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ, mà còn phải giữ gìn cái sự ít muốn, ít ham muốn, biết đủ của mình. Cái gì có thì mình sống cái nấy, không được đòi hỏi thêm nhiều hơn.

(01:04:11) Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật là phải sống hiểu biết như vậy, không có đòi hỏi hơn.

Vì lúc bấy giờ, khi chưa bước chân vào đạo Phật là sống đầy đủ những vật chất, những sự ham muốn theo dục lạc thế gian. Nhưng khi đã bước chân vào đây rồi thì phải hiểu rằng, đời sống hôm nay không phải đời sống của ngày mai, đời sống hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế tục.

Vì vậy, tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả, vì mục đích lớn lao của cuộc sống đầy đau khổ và sanh tử luân hồi, muốn ra khỏi nó phải sống như thế này thì mới ra khỏi được!

Còn nếu muốn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, sống đời sống đầy đau khổ và tiếp diễn sanh tử luân hồi thì cứ sống theo dục lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy, thì không bao giờ có ngày giải thoát được, thì không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi! Vì chính tâm ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi, không thể nào làm sao tránh khỏi.

Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu tiên mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết.

Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ như đã dạy ở trên. Tức là phải dứt trừ sát sanh, tránh xa sự sát sanh. Phải từ bỏ những vật dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy, kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ. Phải biết xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh.

Phải biết luôn luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi.

Như vậy đó là giới hạnh của vị tu sĩ đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong được những vật đã cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn, trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp, không có lấy của không cho dù cây kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy.

Như vậy, người tu sĩ phải hiểu đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật.

(01:07:40) Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói; nói chắc chắn, nói đúng, tin cậy không nói lường gạt ai; không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của mọi người, của đời sống của mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi đến nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia.

Như vậy, vị tu sĩ ấy sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác; vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người; lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; nói đúng thời, nói những lời chơn thật; nói những lời có ý nghĩa; nói những lời về Chánh Pháp; nói những lời về giới luật nghi; nói những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

(01:09:57) Kế đến, người tu sĩ phải dứt bỏ ăn uống phi thời, ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm; dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật. Những giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ, không được để vi phạm những lỗi lầm này.

Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được vi phạm. Có vi phạm nhỏ phải xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là người bước đầu vào đạo Phật.

9.2- TIẾP TỤC DỨT TRỪ ĐIỀU ÁC VÀ TĂNG TRƯỞNG ĐIỀU LÀNH

(01:11:22) Và người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ các điều ác mà tăng trưởng các điều lành:

Quý thầy hãy nghe những cái lời dạy này để mà cố gắng cho giai đoạn mới bước đầu vào đạo Phật:

Hãy mau mau làm điều lành,

Thường ngăn tâm làm điều ác.

Hai câu kệ đầu thì khi mà chúng ta mới bắt đầu vào đạo Phật, đi vào cái lộ trình thứ hai, trở thành một vị Tỳ Kheo tu hành, thì tất cả những cái điều lành chúng ta đều là thực hiện, làm tất cả những cái điều lành. Còn những cái điều ác, thì luôn luôn chúng ta phải ngăn chặn cái tâm của mình không được làm cái điều ác. Bất kỳ điều ác lớn, điều ác nhỏ gì thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại.

Đây là bốn cái câu kệ kế:

Nếu người làm điều ác

Chớ tiếp tục làm ác

Đừng ước muốn điều ác

Chứa ác chịu khổ đau

Ở đây thì Phật dạy bảo, người mới bắt đầu vào tu thì tâm của chúng ta còn quen đi ở trong cái đời sống thế tục, cho nên nó có những cái pháp ác còn lẫn lộn ở trong tâm hồn của chúng ta.

Cho nên Đức Phật dạy: Nếu người mà còn đang ở trong các pháp ác thì chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra đi, và đừng có muốn, ước ao, muốn, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, ham ăn đó; hay hoặc là còn tham sân si đó, thì cái đó là các pháp ác đó.

Cho nên đừng có ước muốn điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều cái sự đau khổ, mặc dù là hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn có gặp những cái khó khăn chớ không phải là không có cái khó khăn.

Muốn cho được an ổn, yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác, đừng có ước muốn nữa, đừng có ham muốn nữa, vì tất cả những sự ham muốn đó nó sẽ đem đến sự khổ đau, mà cái sự khổ đau đó toàn là những cái điều ác đem đến cho chúng ta.

Nếu người làm điều thiện

Tiếp tục làm thiện thêm

Lòng ước muốn điều thiện

Chứa thiện được an lạc.

Nếu mà chúng ta bước qua cái giai đoạn lộ trình tu theo đạo Phật bắt đầu mới vào tu, thì luôn luôn chúng ta đều ước muốn làm cái điều lành, tiếp tục làm cái điều lành và chất chứa những cái sự điều lành đó, thì con đường tu chúng ta sẽ được an lạc, nó không còn khó khăn nữa.

Còn trái lại, chúng ta có những cái tâm niệm chứa những cái ác, coi như là nghi ngờ thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này, bằng cách kia.

Trước khi mà chúng ta muốn đến với một vị thầy đó, thì ít ra chúng ta cũng phải chọn lấy có đủ niềm tin hay không?

Không đủ niềm tin mà khi đến đó mình nhận người ta là thầy mình rồi, mà mình đâm ra nghi cái này, nghi cái kia, đứng núi này mà trông núi nọ, rồi dùng những cái lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này bằng cách khác, thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình.

Và chứa những cái điều ác trong tâm mình như vậy là tự mình đã đem lại cái sự bất an, đem lại cái sự muôn đời của mình chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát.

Một khi biết thầy mình, là mình đến xin vị đó làm thầy mình, mà mình biết thầy mình chưa có đạt được đến cái mức giới luật cũng như thiền định cao siêu thì mình vẫn là quý trọng thầy mình, đừng có dùng cái lời lẽ phỉ báng thầy mình bằng cách này, bằng cách khác đối với một vị thầy mà đã đưa dắt mình bước đầu.

Ơn không có mà trả oán! Những cái hạng người đệ tử như vậy thì suốt đời của họ tu hành cũng chẳng ra gì. Vì đó là những điều mà họ đã chứa trong tâm họ toàn là cái thứ ác.

(01:15:09) Người ác thấy là lành

Khi ác nghiệp chưa đủ

Đến khi đã chín mùi

Người ác mới thấy khổ.

Nghĩa là bây giờ chúng ta nói cái này, nói cái kia, thì cái nghiệp ác nó chưa có đến cho chúng ta đâu. Nhưng mà khi nó đến đủ rồi thì chúng ta mới thấy rõ được cái khổ đó là do cái hành động ác của mình, cái hành động mà do cái tâm không tốt của mình.

Người hiền đang sống khổ

Khi thiện nghiệp chưa đến

Nay thiện nghiệp chín mùi

Người lành được an vui.

Nghĩa là hiện bây giờ chúng ta làm lành, nhưng mà cái cuộc sống của chúng ta đang gặp những cái khó khăn, là do cái nhân quả của đời trước mà hôm nay mình chịu lấy.

Khi mà cái thiện nghiệp hiện giờ mình đã làm, nó chưa có đến đâu, một ngày nào đó nó sẽ đem đến cho mình. Mà nó đem đến cho mình, nó chín muồi rồi thì cái người mà làm cái điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ, họ sẽ không có thiếu thốn một cái gì cả.

Bài kệ kế:

Chớ khinh chê điều ác

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.

Nghĩa là hiện giờ chúng ta coi cái chuyện ác nhỏ chẳng ra gì hết: Mình chê, mình nói người này thế này, người khác hay hoặc là mình làm đau khổ người này thế này, thế khác, mình coi nó không có gì. Nhưng mà nó sẽ là những giọt nước mà nhỏ lần lần, nó sẽ đầy cái bình của chúng ta.

Cho rằng nó chẳng có hại mình gì được hết, nhưng mà cuối cùng khi mà cái nghiệp nó đầy đủ rồi, thì cái bình kia nó vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy thì chúng ta sẽ thấy thọ lấy những cái quả khổ, mà không ngờ trước những cái quả khổ mà do từng cái giọt nước ác nhỏ, tuy nhỏ, nhưng lâu ngày nó sẽ đầy một cái bình.

Tuy giọt nước nó mềm nhưng nó có thể soi mòn được đá cứng, và cái giọt nước ác nó cũng vậy, nó có thể giết hại đời sống của chúng ta toàn là gặp những đau khổ.

Chớ khinh chê điều thiện nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng tràn đầy.

Người trí chứa đầy thiện

Do chất chứa dần dần.

Cái người trí thì luôn luôn mỗi việc thiện nhỏ chúng ta đều cố gắng làm, giống như từng giọt nước nhỏ, đến ngày nào đó một bình nước đầy chúng ta mặc sức mà dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.

Đây là những điều mà phải nói rằng, trên cái bước đường tu hành theo đạo Phật thì phải nói rằng, cái giai đoạn đầu tiên bước qua cái lộ trình thứ hai này, trở thành một vị tu sĩ của đạo Phật, thì chúng ta phải nhớ những cái bài kệ này là những cái hành động mà đầu tiên chúng ta phải dứt trừ những cái điều ác.

Những cái điều ác mà nó đưa đến cho cái đời sống của chúng ta nó cái nhiều cái quả khổ, mặc dù là chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng mà dứt trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính mình.

(01:18:02) Bởi vậy hằng ngày trên cái đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng chút cái việc làm lành: Thấy một con vật mà bị trôi trên một cái vũng nước, đang sắp chết đuối trên cái vũng nước nhỏ, chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một cái việc làm lành nhỏ của chúng ta.

Thấy một cái miếng miểng chai, hoặc là một cây đinh, hoặc là một cây gai nằm ở trên đường mà người qua, kẻ lại, thì do đó chúng ta nên nhặt cái vật đó đi, không khéo thì có người vô ý họ sẽ đạp phải, họ sẽ gây cái đau khổ cho cái thân người đó. Do đó, chúng ta muốn tránh sự đau khổ cho mọi người thì chúng ta nên lượm cái vật đó đi. Đó là một cái việc làm lành nhỏ.

Cũng như chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân mà chúng ta tránh đi, đừng có để đạp con kiến hoặc là côn trùng dưới chân, tránh cái sự chết hoặc là cái sự gãy chân đau khổ của chúng, chính cũng là một cái điều lành nhỏ mà chúng ta hằng ngày chúng ta (gặp) phải.

Thấy một con vật đang đói khát, trong khi đang quằn quại trên cái sự đau khổ của cái cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi mà chúng ta nhìn, rồi chúng ta khởi một cái tâm thương yêu, mong rằng cái sự đau khổ của chúng sanh này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta nó cũng được cảm thông với cái sự đau khổ của chúng sanh.

Đó là những cái việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu chúng ta không làm được những cái điều nhỏ này thì khó mà có thể dứt trừ được những điều ác.

Hằng ngày chúng ta ngồi lại, thấy hai con vật đang cắn lộn nhau, đang giành nhau một cái vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.

Hằng ngày chúng ta có những điều mà vô tình chúng ta có thể làm đau khổ chúng sanh. Khi chúng ta đang ngồi ăn, thấy một con kiến hoặc là một con vật gì rớt ở trên mình chúng ta, bị nó cắn làm cho chúng ta ngứa hoặc đau. Trong khi bị đau, ngứa chúng ta không có ý tứ, không nghĩ đến thương chúng, cho nên lấy tay chúng ta vò đi, chà đi làm cho con vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một cái điều ác nhỏ.

Cũng như chúng ta ngồi chơi, có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ: “Trên mặt chúng ta có chỗ ngứa, có lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, phải từ từ nhẹ tay để làm cho con vật đó không chết!”, đó là một việc làm thiện nhỏ.

Hằng ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta đổ một cái xô nước nóng, chúng ta nhìn trước sau coi dưới đất chúng ta đổ có loài chúng sanh không, nếu không có chúng ta sẽ đổ. Và đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.

(01:21:14) Chúng ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ như một con rắn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc là một con kiến, nó cũng làm cho con vật đau khổ.

Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc cây rớt để làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng khúc cây vào cái nơi vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta rất là nhẹ nhàng, rất là có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sanh.

Đó là những cái hành động thiện nhỏ mà chúng ta cần phải nhặt nhạnh từng chút, từng ngày để tạo cho chúng ta có những cái điều lành lớn sau này.

Đối với cái hành động ác hằng ngày mà hành động nhỏ chúng ta cũng cần lưu ý. Và đối với cái hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cũng cần lưu ý để mà trau dồi thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của một người tu sĩ mới bắt đầu tu tập giới hạnh của Phật, thực hiện cái đời sống tu hành oai nghi tế hạnh đầy đủ, nhẹ nhàng, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà đau khổ.

Đây là những điều căn bản đầu tiên, giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải.

Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt cái quãng đường xuất gia tu hành để đi đến chấm dứt sanh tử luân hồi được, mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, và phải tu tập nhiều hơn nữa.

9.3- SỐNG TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ VÀ TU TẬP CÁC LOẠI ĐỊNH

(01:22:53) Người tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình; còn phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt.

Đó, cho nên chúng ta không bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy về cái hạnh độc cư rất là quan trọng đối với người tu sĩ.

Bởi vì cuộc sống của chúng ta ngoài đời, chúng ta rất thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói móc, nói máy, nói mỉa mai người này, người nọ, người kia để cho mình thỏa thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình.

Nhưng khi mà bước vào nẻo xuất gia tu hành rồi, thì chúng ta phải thấy những cái sống như vậy nó không đúng là cái hạnh của người tu sĩ.

Mà sống đúng hạnh người tu sĩ là phải sống độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn phải ưa thích trầm lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để tâm mình hợp nhất, đừng bị phân tán (bởi) các cái ngoại cảnh, các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh.

(01:24:04) Vì vậy mà chúng ta thường xuyên phải tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái Định Vô Lậu, và phải sống hằng ngày trong cái Định Sáng Suốt.

Và hằng ngày, muốn sống trong cái Định Sáng Suốt, thì người tu sĩ mới bắt đầu qua cái lộ trình thứ hai - cái lộ trình của người xuất gia thì phải tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Mà cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì lấy cái sự đi kinh hành, lấy cái việc làm hằng ngày của mình trong lao tác, trong lao động mà tập trung tâm mình ở nơi cái hành động, để biết cái hành động của mình đang ý tứ làm những công việc cho tỉnh táo, cho sáng suốt, và thường phải dùng pháp hướng nhắc cái tâm của mình.

Thí dụ như mình đang lặt rau, hay hoặc đang nấu cơm, thì đang lặt rau nói: “Tôi biết tôi đang lặt rau". Và khi lặt rau xong rồi, thì đến cái giai đoạn nấu cơm thì: "Tôi biết tôi đang nấu cơm", thì thỉnh thoảng mình lại nhắc: "Tôi biết tôi đang nấu cơm".

Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong cái hành động đó để cho nó luôn luôn nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào, và cũng không có một cái niệm vô ký quên đi cái hành động của chúng ta.

Vả lại thì cái đó là cái phần tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, thì cái phần đó nó giúp cho chúng ta được ý tứ trong cái hành động để mà giữ gìn cái giới hạnh cho nó đừng có vi phạm, đừng có phạm phải.

Và kế tiếp thì chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu. Và cái Định Vô Lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt cái niệm ở trước mắt của chúng ta.

Bây giờ chúng ta là những người mới rời khỏi gia đình, tình cảm của chúng ta nó còn dính dấp đối với những người thân, cho nên mình đặt cái niệm nhân quả đối với những người thân như cha, mẹ, vợ, con, anh, em. thì chúng ta mới nhìn nó mà quán xét cái nhân quả.

Nếu không có cái nhân quả thì làm gì ngày nay chúng ta trở thành con cái hay hoặc là trở thành cha mẹ của mình? Chúng ta quán xét. Rồi chúng ta quán xét: Nếu không có nhân quả thì làm sao mà những người này họ trở thành vợ con mình được? Có nhân quả, một là mình nợ họ, hai là họ nợ mình!

Do cái chỗ đó, chúng ta quán xét suy tư, từ đó chúng ta mới dứt được cái tình thương yêu một cách rất là vô minh, không có sáng suốt, làm cho cái tâm của chúng ta càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, nó không rộng lớn như cái tâm từ bi của Phật dạy.

Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng cái đường lối của nhân quả, bằng những cái nợ của mình: Hoặc là mình nợ, hoặc là họ nợ mình, cho nên đây là một cái sự vay trả, một cái sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong cái hiện kiếp này, mà cái kiếp kia là những người con nợ với nhau, mình nợ họ, họ nợ mình!

(01:27:41) Do như vậy thì chúng ta mới dứt được những cái điều thương, những cái điều ngồi mà suy nghĩ gia đình, suy nghĩ vợ con. Do đó, chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm mà giữ gìn giới hạnh để chúng ta ly dục ly ác pháp. Nhờ thế chúng ta mới ngồi lại mà tu được cái Định Sáng Suốt.

Vậy Thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.

Bây giờ Thầy sẽ đọc cái bài kệ:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Chỉ có pháp hiện tại

Chánh Niệm Tỉnh Giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Không động không rung chuyển.

Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm

Đêm ngày không mỏi mệt

Xứng gọi Nhất Dạ Hiền

Luôn luôn sống trầm lặng.

Đó là một cái bài kệ mà Thầy nhắn nhủ quý thầy. Trầm lặng đây là độc cư đó, sống một mình mình đó, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ là hai cái định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định.

Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày, hằng đêm quý vị cố gắng mà tu tập:

Chánh Niệm Tỉnh giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Đó là hai cái định mà quý thầy cần phải tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu mà tu theo đạo Phật không phải đi vào cái định, mà phải đi vào cái sức tỉnh giác chớ không phải là cái định.

Vì cái định nó phải ngưng các hành, còn cái tỉnh giác thì nó không ngưng các hành. Mà chính cái sức tỉnh giác nó làm cho cái tuệ tri chúng ta mới sáng suốt, mới diệt được cái lậu hoặc, làm cho tâm chúng ta vô lậu. Nhớ kỹ mà tu tập, siêng năng mà tu tập cái định này.

Vì quá khứ nó cũng không ích lợi gì cho chúng ta, mà tương lai thì chúng ta có mơ mộng, có ước vọng cái này kia thì nó cũng chưa cái đến. Cho nên chúng ta đừng có sống ở trong cái thời gian quá khứ, cũng đừng có sống trong cái thời gian tương lai, mà hãy chỉ có cái hiện tại. Mà cái hiện tại thì chúng ta tu cái gì đây? Tức là chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

(01:30:30) Và tuệ tri Quán Vô Lậu để cho cái tâm chúng ta không dính mắc vào cái ngã, để tâm chúng ta không dính mắc vào các pháp mà sanh ra tham, sân, si, phiền não.

Đó là phương pháp mà quý thầy phải tu tập, siêng năng mà tu tập. Đó quý thầy nhớ ghi lại cái bài kệ đó. Đó là như vậy. Cố gắng hàng ngày lúc nào cũng phải tu tập, không có được biếng trễ những cái pháp này.

Cho nên quý thầy nhớ kỹ, cái đời sống của quý thầy hiện giờ ở đây là luôn luôn sống trầm lặng, phải sống trầm lặng, không được nhôn nhao, không được nói chuyện, không được đi lăng xăng mà chỉ đi với sự kinh hành thanh thản trong pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà thôi.

Làm việc cũng vậy, khi những giờ lao động thì quý thầy quét dọn hoặc là nhổ cỏ, cũng tuần tự làm nhẹ nhàng để tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác chớ không được làm vội vàng, làm không có tu tập ở trong đó thì nó không ích lợi cho sự tu tập của mình.

Cho nên qua bài kệ này thì quý thầy phải nhớ học thuộc lòng, và thường từng nhắc nhở sự tu tập của mình hằng phút, hằng giây để cho sức tỉnh giác và trí tuệ quán xét diệt lậu hoặc, làm cho tâm không còn lậu hoặc nữa thì mới có sự giải thoát chân thật của đạo Phật.

Qua cái bài kệ này để nhắc nhở trong hiện tại, quý thầy về đây tu tập, nỗ lực thực hiện, có pháp để mà tu. Không khéo rồi chỉ không biết pháp nào mà tu, cứ lo ôm chặt hơi thở mà tu thì không đúng.

Vì lúc nào dạy hơi thở thì Thầy sẽ dạy hơi thở, mà chưa dạy thì quý thầy phải tu hai cái định đó trước tiên. Chớ nếu quý thầy mà không tu hai cái định đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đi vào hơi thở, không đạt được kết quả tốt của hơi thở đâu.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy