00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(18:15)

4.1- TU TẬP TỈNH THỨC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG, VIỆC LÀM

(18:15) Sau khi tu tập Tứ Chánh Cần xong, các thầy nên tiếp tục tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức Định.

Ở lộ trình này, các cư sĩ đang tu, phải tu tập theo mọi hành động việc làm của mình. Hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị cứ chú ý việc ấy, không được xao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm.

Đó, nghĩa là luôn luôn cái người cư sĩ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một cái giai đoạn mới, cái lộ trình mới, cái lộ trình của người tu sĩ, thì mình luôn luôn tu tập ở trong các việc làm của mình, để tập cho có cái sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong đó.

Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu.

Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo cái hành động của mình, chú ý theo hành động, tu sao mà cứ chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi! Làm sao mà tỉnh thức được! Cho nên không có cách thức tu.

Cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy về tu trong mọi công việc, nhưng mà cái kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này đến ngày khác mà không có niệm vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được hết.

Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy có sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy được tỉnh thức suốt ngày này qua ngày khác, trong mọi công việc, mà không cần phải có cái sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.

4.2- VÔ KÝ VÀ VỌNG TƯỞNG ĐỀU LÀ THIẾU TỈNH THỨC

(19:40) Quý vị nên lưu ý: Tu trong hành động có hai điều cần tránh.

Đó bây giờ mình phải biết: Tu ở trong cái hành động, việc làm của mình có hai điều mình cần tránh:

  1. Tránh suy tư chuyện khác…​

Nghĩa là, mình tránh suy tư ở trong hành động đó, mình tránh có sự suy tư có vọng tưởng ở trong đó. Nói thì dễ hiểu.

…​ đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là, vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.

  1. Tránh vô ký…​

Đó, cái hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia, đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý là cái phần (thứ) nhất. Cái phần thứ hai là tránh vô ký.

…​ tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm, lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng. Đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.

Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác phải biết dùng hai pháp.

Nghĩa là, trước Thầy nêu lên hai cái lỗi ở trong cái sự tu tập đó: Cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động; cái thứ hai là vô ký ở trong hành động. Thì hai cái đó phải tiệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để ở trong cái sự tu tập thì như vậy là không đúng.

Chớ không phải là bây giờ tui tu vậy tui giữ tỉnh thức được năm, ba phút rồi kế đó nó có vọng tưởng, rồi tui tu năm, ba phút nữa rồi kế đó có vọng tưởng; hàng ngày tôi cũng tu ở trong công việc mà thường xuyên nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời cũng không được.

Tức là chúng ta phải biết tu như thế nào để làm chủ tuần tự cái thời gian chúng ta tăng dần, tăng dần lên, chớ không phải là ngày nào nói tu trong hành động rồi lúc nào cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài, cũng tu vậy mà tu Chánh Niệm Tỉnh Thức kiểu đó là kêu tu dậm chân.

Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một cái thời gian nhất định, là chúng ta tu ba mươi phút ở trong cái hành động làm, hay hoặc là quét sân hay hoặc gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, rồi bắt đầu chúng ta xả, chúng ta làm theo cái sự suy nghĩ gì của nó kệ nó.

Nhưng mà đúng giờ chúng ta tu, đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay là mười phút mà chúng ta đạt được cái kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong năm phút, ba phút thôi, rồi hoàn toàn chúng ta xả nghỉ. Chớ sức của chúng ta không có thể mà suốt ngày làm công việc mà chúng ta giữ nó được.

Cho nên phải hiểu được cái sức của mình. Nhiều khi nghe nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì?

Chúng ta tỉnh thức được năm phút, ba phút đó là may lắm rồi, rồi từng đó mà chúng ta tập dần chúng ta tăng dần lên thì chúng ta sẽ có chất lượng cao, và từng đó chúng ta sẽ chiếm tất cả cái thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.

Bởi vì tu phải biết chớ. Chớ còn tu mà không biết, mà cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời cũng nói là tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, nhưng mà cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô, làm sao tỉnh thức được!

Đó, thì hôm nay Thầy dạy để cho quý thầy biết cách thức mà tu tập pháp tỉnh thức.

Cũng như nghe thầy nói tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, thôi đi kinh hành luôn lung tung, lung tung, suốt ngày Thầy thấy đi chăm chăm. Thầy nói tu cái kiểu này là tu mù, tu ngu. Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức!

Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai. Càng sai là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…​

Thôi bây giờ chúng ta sắp tới giờ ăn cơm.

4.3- DÙNG PHÁP TÙY VÀ PHÁP HƯỚNG ĐỂ KÉO DÀI SỨC TỈNH THỨC

(22:54) Bây giờ bắt đầu tiếp tục cái bài học vừa rồi là tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác. Vậy thì phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác như thế nào?

Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó, ở cái sức của mình nó ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện cái mức thời gian đó, chớ không phải luôn lúc nào ở trong mọi cái hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền.

Mà ngay trong cái thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn cái thời gian ngắn nhất với cái sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao. Trong lúc đó, mình giữ gìn mọi hành động của mình mà cái sức tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì cái sức tỉnh thức nó mới có.

Muốn được vậy thì chúng ta phải nương vào hai cái pháp: cái pháp tùy và cái pháp hướng.

Tùy pháp là nương theo cái hành động.

Bởi vì cái hành động của chúng ta, đó là cái hành động mà chúng ta gọi là pháp. Vì hàng ngày cái đối tượng, cái hành động của chúng ta đó là cái pháp hành. Cho nên, chúng ta lấy cái hành động hàng ngày: đi, đứng hay hoặc làm công việc, thì đó là cái pháp tùy theo cái hành động đó.

Cho nên cái tâm nó chú ý vào cái hành động đó gọi là tùy pháp.

Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó.

(24:11) Cho nên chúng ta tu tập như thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên.

Thí dụ như tùy pháp là cái thân của chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹ thì chúng ta tùy theo cái sự nhanh nhẹ đó mà chúng ta tập luyện. Hoặc là chúng ta làm nó chậm chạp thì chúng ta cũng tuỳ theo cái sự chậm chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên.

Chớ còn bây giờ, chúng ta thấy bây giờ mình phải chú ý cái hành động thân của mình, cái bắt đầu mình phải làm cho chậm thiệt chậm mới chú ý được, hay hoặc là làm cho nhanh để chú ý được, thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai cái pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm.

Cũng như bây giờ có người thì đi nhanh, mà cũng có người đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo cái pháp hành đi chậm của mình mà mình tập cái tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tập tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở chỗ nhanh.

Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà bây giờ phải tu tập mình phải đi cho chậm trở lại. Mà đi chậm như vậy thì nó không thể nào là đúng cái cách tự nhiên của nó.

Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết, chúng ta tu, con người thì nhanh nhẹ, thanh thoát, mà tu riết rồi đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.

Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là cái sức tập trung của mình - tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy, nhanh nhẹ để nương theo cái chỗ nhanh nhẹ như vượn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật.

Tùy theo cái pháp hành của thân của chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vô cái khuôn khổ nào, chậm nhanh theo cái ý của mình được.

Bởi vì đây là cái pháp, tự nó nó có cái pháp của nó, cho nên mình chỉ có cái hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà mình tu tập.

Đó là tùy pháp theo hành động, công việc làm sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức.

Muốn đạt được sức tỉnh thức này, người tu sĩ phải dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý.

Bây giờ mình kèm theo cái pháp hướng tâm đó, mình nhắc để cái tâm của mình nó luôn luôn nó nhớ được cái hành động việc làm của mình.

Như mình nhắc: Tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi làm việc đó. Nghĩa là mình làm cái gì thì mình nhắc theo nó. Thí dụ như bây giờ mình đang quét nhà, đang chú ý - bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà, và hướng tâm nhắc: “Tôi đang quét nhà!”

Đó thí dụ đó, thì bây giờ mình dùng cái câu pháp hướng của mình thì: “Tôi đang quét nhà!” Bây giờ mình đang quét nhà, cho nên mình nhắc: "Tôi đang quét nhà!" Như vậy là mình sẽ có nhắc cái tâm của mình nhớ được cái hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm, thì mình lại nhắc: “Tôi đang nấu cơm!”

Đó thì, đó là những cái mình hướng theo để giúp cho cái ý thức của mình nó tỉnh thức ở trong cái hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong cái chánh niệm của nó.

Cho nên cái chánh niệm của nó là cái hành động, vì chúng ta đặt lấy cái hành động để làm cho cái sức tỉnh của chúng ta có.

Cho nên lúc bấy giờ, cái chánh niệm là không phải là cái niệm nào mà nó thông suốt cái này cái kia gọi là chánh niệm, mà chính cái hành động đó là cái chánh niệm của chúng ta đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước cái ý của chúng ta, cho nên cái đó gọi là chánh niệm.

Mà nó chánh niệm ở luôn luôn lúc nào nó cũng biết được cái hành động đó đó, thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.

(27:57) Hiểu như vậy thì chúng ta biết rằng cái niệm của chúng ta là cái niệm gì. Cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang hiện đang làm công việc gì đó, đó là cái niệm, mà cái niệm mà đang hiện tiền trước mặt của mình đó gọi là chánh niệm.

Chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào ở chỗ đó được, hay hoặc là mình đặt cái hơi thở ở chỗ đó được. Vì chánh niệm mà ở trên cái hành động thì phải là cái hành động chớ không phải là cái hơi thở.

Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành, vừa biết cái chân đi mà vừa biết hơi thở, thì như vậy là chúng ta đã đặt hai cái niệm một lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó là không phải chánh niệm, mà nó niệm đôi ở trong đó thì nó trật.

Cho nên chúng ta chỉ biết có mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt cái chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong cái chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Hiểu như vậy thì chúng ta nó không có đi hàng hai, và không có đặt sai cái niệm. Mà nếu mà trong khi đương đi kinh hành có một cái niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai.

Là tại vì, cái niệm khác chớ không phải là cái niệm hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm? Vì cái niệm đó không phải là cái niệm mình đặt, cho nên nó là tà niệm.

Đi trên hè phố thì nhắc: “Tôi biết tôi đang đi trên hè phố!”

Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: "Tôi biết tôi đang đi trên hè phố!" Đó là cái pháp hướng của mình, để cho cái chánh niệm của mình là đang đi ở trên hè phố.

Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để cho cái tâm, cái ý của chúng ta luôn luôn lúc nào nó cũng tỉnh thức ở trên cái hành động mà chúng ta đang đi. Mà cái hành động đó là cái chánh niệm.

Chứ nghe chánh niệm thì chúng ta nói - bây giờ nói về cái niệm chân chánh của chúng ta thì nói: “Bây giờ nói “Đời là khổ” là cái niệm chân chánh”, thì như vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, cái loại định khác chớ không phải là cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức ở đây.

Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm của trong khi mà đi kinh hành là cái niệm nó như thế nào.

Mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, Đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đương đi kinh hành mà mình quên mình đi kinh hành, tức là mình bị thất niệm. Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết cái chỗ tu chúng ta đúng hay là sai.

(30:10) Cũng như một người đang tu Định Vô Lậu, mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng cái nhớ chuyện gì khác đi, không có quán cái thân bất tịnh mà lại quán một cái câu kinh "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", thì suy nghĩ về cái câu đó, thì như vậy là thất niệm.

Cái niệm đó - đang có cái niệm đó, cái niệm đó nó nói về cái tâm của mình như thế này, thế khác ở trong kinh điển, mà trong khi đó mình quán bất tịnh của cái thân này, thì cái thân này đang quán bất tịnh đó là cái chánh niệm, mà quán một cái câu kinh nào đó thì đó là thất niệm, nó là cái tà niệm chớ không phải là cái chánh niệm của cái người đang tu cái pháp môn Vô Lậu. Đó phải hiểu.

Mặc dù là cái niệm đó nó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là một cái niệm không có đúng cái chỗ vị trí nó đứng, mà mình đặt cái niệm đó nó ngay cái chỗ mà mình đang tu cái pháp đó, nó không đúng cái pháp, thì do đó là cái niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm.

Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên coi như người tu hành đó bị thất niệm.

Đang súc miệng thì nhắc: “Tôi biết tôi đang súc miệng!”

Nghĩa là mình đang súc miệng, mình rửa mặt đó, thì mình nhắc: "Tôi súc miệng tôi biết tôi đang súc miệng!" Đang ăn cơm thì nói: "Tôi biết tôi đang ăn cơm!" Đang nhai thực phẩm: "Tôi biết tôi đang nhai thực phẩm!" Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai.

Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: "Tôi biết tôi đang mặc áo!"

Đó mình nhắc như vậy, tức là cái pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết cái hành động mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì đó là những cái mà nhắc chúng ta biết đang trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó.

Cho nên cái ý của chúng ta luôn luôn nó bị cái pháp hướng mà nó không có chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó, cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.

Như vậy là hôm nay, quý thầy đã biết một cái chánh niệm của nó là cái niệm gì khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo - thí dụ như, mình ngồi cái định nào, mình tu cái định nào, thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt.

Thì bây giờ đó, mình đặt cái niệm Chánh Niệm Tỉnh Thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt của mình, luôn luôn phải giữ nó, đừng có cho thất niệm đó, thì như vậy là chúng ta mới có cái sức tỉnh giác, tỉnh thức cao. Còn nếu mà bị thất niệm thì nó không có cái sức tỉnh giác cao đâu.

Đó là người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh thức ra.

Mình cứ nhắc như vậy thì nó sẽ kéo dài cái thời gian tỉnh thức.

Nhưng như vừa rồi, Thầy cũng đã nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo như thế nào, là vì cái sức của chúng ta nó không thể từ giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu.

(33:05) Cho nên chúng ta thí dụ chúng ta tập chừng năm phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả ba mươi phút hay hoặc là mười lăm phút cái bắt đầu chúng ta tu lại năm phút. Cái sức của chúng ta tu lại, cái sức tỉnh rất cao, rất tốt mà cái chánh niệm của chúng ta hoàn toàn nó an trú ở trong cái hành động, cái chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất.

Còn chúng ta tu nhiều quá, nó lờ mờ. Mặc dù là nó không mất cái chánh niệm, tức là cái niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao, vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn.

4.4- CÓ SỨC TỈNH CAO MỚI PHÓNG RA ĐƯỢC TRI KIẾN GIẢI THOÁT

Lưu ý cái phần này thì quý thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từng cái sức tỉnh chúng ta ngày càng cao lên thì chúng ta lại tăng dần lên, thì cái thời gian chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh.

Thà là mình tu ít, mà lúc bấy giờ đó mình tập trung vào một cái gì đó cái sức tỉnh mình rất cao. Và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có một cái tri kiến giải thoát nó phóng ra, nó mới tu cái Định Vô Lậu, nó quét sạch những cái lậu hoặc.

Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái cái Niệm Vô Lậu để mình quán xét, thì mình ngồi hoài nó ỳ hoài mà nó không phóng ra được. Đó là cái sức tỉnh mình không có cho nên cái tri kiến giải thoát phóng ra không được.

Vì vậy mà khi mà mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến. Cái tri kiến tức là cái huân cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này, bằng cách khác.

Còn khi mà chúng ta đã có được cái sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai nữa hết, mà chúng ta chỉ đặt cái niệm trước mặt, thí dụ như: niệm thân bất tịnh, hay niệm thân vô thường, vô ngã.

Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm của chúng ta phóng ra cái tri kiến giải thoát, từ đó nó quán sát , nó thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát, nó không vay mượn của ai hết mà nó thông suốt như vậy đó. Đó là cái tri kiến giải thoát.

Nhưng vì cái sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên chúng ta ngồi lại nó ỳ đó mà nó không phóng ra được. Bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy mà khi chúng ta tu tập chừng năm phút hay mười phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền.

Bởi vì người ta nói: "Định thì có Tuệ". Mà mình chưa có cái Định, tức là chưa có được cái sức tỉnh thức. Cái sức tỉnh thức tức là cái sức định chớ đâu phải là cái gì? Nó là cái sức nhất tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta chưa có nó thì cho nên cái Tuệ nó không phóng ra được.

Mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì bây giờ cái tâm chúng ta nó còn bao nhiêu cái sự ràng buộc, dính mắc, cho nên chúng ta muốn giải quyết cái sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo, để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào, để chúng ta quán xét theo cái sự hiểu biết của vay mượn, chớ không thể có tri kiến giải thoát được.

Đó thì, cái sự tu tập nó phải rõ như vậy. Chớ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà cái tri kiến giải thoát nó không phóng ra rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định chớ sự thực ra mình bị thất niệm.

Mình thất niệm là vì cái định này nó không thể nào là ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng rằng ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng đó là mình không có thất niệm, nhưng mà thật sự đó mình tu lầm lạc rồi, mình tu sang qua một cái pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sức làm chủ.

4.5- HƯỚNG TÂM KHÔNG PHẢI LÀ NIỆM CÂU PHÁP HƯỚNG

(36:23) Nhưng quý vị lưu ý, ở đây hướng tâm chớ không phải niệm câu pháp hướng.

Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chớ không phải là niệm. Để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật.

Ở đây hướng tâm chớ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia.

Nghĩa là nó phải có một cái thời gian với câu - ví dụ bây giờ chúng ta hướng nè, bắt đầu: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” Thì không thể nào mà chúng ta lặp lại một lần thứ hai kế tiếp nữa: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” - rồi nói: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân!” - mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm.

Còn mình nhắc một cái câu: “Tôi quét sân, tôi biết tôi quét sân!” Rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi cái hành động chánh niệm của nó, cái hành động đó đang quét. Thì một lúc, khoảng độ chừng ba phút, năm phút chúng ta lại nhắc một lần nữa. Thì cứ có cái khoảng cách để cho cái tâm nó lặng theo cái hành động, nó tập trung theo cái hành động mà không cần tác ý ra nữa thì do đó gọi là pháp hướng.

Còn nếu mà không - còn nếu mà cứ liên tục niệm thì nó là niệm pháp hướng chớ không phải là hướng tâm.

Cho nên ở đây chúng ta cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết, thì cứ luôn luôn liên tục lúc nào cũng nhắc - thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành!" *- *rồi lúc nữa họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai.

Cho nên, khi mà nhắc rồi thì họ phải tuần tự để cho có khoảng thời gian để lắng tâm xuống trong cái chánh niệm - cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái sức tỉnh nó tăng lên.

Và đồng thời, cái thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức là cái sức tập trung của chúng ta nó sẽ dần dần - cái ý thức nó chưa có quen, cho nên nó không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng.

Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng một cái câu hướng nữa, chúng ta lại nhắc nó lần nữa: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành!" Thì bắt đầu, từ đó nó lại tập trung vào cái hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa.

Do đó chúng ta tiếp tục cứ như vậy thì cái sức tỉnh nó càng cao.

4.6- CÓ THỂ KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC

(38:43) Nhưng mà rồi nó có cái trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá. Thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác, bây giờ nó lại quen hơi thở đi, vừa đi mà vừa lại biết hơi thở.

Cho nên Phật dạy tất cả các pháp đều chúng ta có thể nương hơi thở mà tu tập được, do đó thì chúng ta nhắc cái câu ám thị, nó vừa là có hơi thở mà vừa có cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hành động chúng ta đi nữa, thì: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra!” - “Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành!”

Đó là những cái câu nhắc để lấy dùng cái hơi thở để mà cho tập trung xuống với cái hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở.

Nhưng mà tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở, cho nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: “Hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành!” Mình dụng cái hơi thở, mình tập trung xuống cái hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay liền, và đồng thời mình bỏ cái hơi thở được.

Đó là những cách mà có thể nương hơi thở mà tu vào cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, để cho chúng ta càng sức càng tỉnh thức hơn.

Đó, đó là những cái cách thức mà tu tập để chúng ta tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao.

4.7- HƯỚNG TÂM PHẢI CÓ CÁCH KHOẢNG THỜI GIAN

(40:02) Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia: Người mới tu ba mươi phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc hai phút hướng một lần.

Nghĩa là người mới tu mà tu ba mươi phút, thì họ phải tu trong một phút họ phải hướng một lần, hay hoặc hai phút họ hướng một lần. Còn người tu lâu thì có thể nó khoảng từ năm phút hay mười phút họ mới hướng một lần.

Nếu mà thấy cái sức tỉnh của mình mà nó luôn luôn nó bắt đầu nó tập trung ở dưới cái hành động đi của mình, thì lúc bấy giờ đó, lâu lâu mình mới hướng.

Mà nó thấy nó lờ mờ, nó không có (tỉnh), nó bị hàng hai như nó nương hơi thở hoặc là nó bị âm thanh gì tác động nó, nó đi hàng hai trong đó, thì ngay đó mình phải hướng liền để cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ, lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.

Cho nên khi đó chúng ta - người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong cái sự tu tập. Người ta biết cái tâm mình lúc bấy giờ nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi, mà lúc lờ mờ người ta biết.

Cho nên người ta rất khéo léo ở chỗ người ta dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, cái chỗ tỉnh. Hễ tỉnh thì người ta không có dùng hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì chúng ta phải ngay đó dùng pháp hướng để phá liền, để cho cái ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh hơn. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả.

Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng. Như vậy là tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lạc đường giải thoát của đạo Phật.

Nghĩa là rơi vào những cái định tưởng. Niệm riết rồi thành nó sẽ rơi vào những cái định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc ở trong cái niệm mà nó không đúng cái pháp hướng.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy