00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(22:56)

4.1- VĂN - TƯ - TU LÀ TRI KIẾN, KHÔNG PHẢI TRÍ TUỆ VÔ LẬU

(22:56) Nói trí tuệ người ta tưởng lầm là tri kiến.

Bây giờ mình nói trí tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái tri kiến của mình. Có nhiều người hiểu - bởi vì “tri” là biết, “kiến” là thấy, biết - thấy, thì người ta nghĩ như vậy.

Người ta cho tri kiến là trí tuệ, vì tri kiến là trí tuệ nên người ta phân chia làm ba trí tuệ:

Cho nên bây giờ Thầy nhắc lại, người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho nó là trí tuệ, cho nên người ta phân chia cái trí tuệ đó làm ba cái trí tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người mà chưa có biết tu. Cho nên vì vậy đó, trong kinh rõ ràng là ghi như thế này này:

1. Văn tuệ;

2. Tư tuệ;

3. Tu tuệ.

Ai mà nghe những người mà giảng ra trí tuệ đó thì họ phân chia ra làm văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ. Phải không, văn - tư - tu đó!

Cho nên cái này nó chỉ là tri kiến chớ không phải là cái tuệ đâu, nó không phải là trí tuệ đâu, nó là cái tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát nữa, cái chỗ mà văn - tư - tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa, nó chỉ mới ở chỗ tri kiến mà thôi.

Tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của kinh sách, của những người xưa, người nay để chúng ta thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là văn tuệ.

Từ cái chỗ văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này, bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ như thế này, thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu ra, hiểu thêm ra, thì cái đó gọi là tư tuệ.

“Tư” là suy tư hay là tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được một cái lý gì đó thì gọi tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái tri kiến của chúng ta chớ không phải là cái trí tuệ.

Còn đến phần tu tuệ thì ở trong kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết - như bây giờ Phật dạy là cho chúng ta hiểu biết đó - đó là cái thân chúng ta nè, Ngũ Uẩn của thân Ngũ Uẩn chúng ta nè, là vô thường, khổ, vô ngã nè, thì chúng ta lấy cái chỗ đó mà chúng ta - lấy cái chỗ mà hiểu biết đó mà để chúng ta tu tập làm cho cái thân của chúng ta, cái tâm chúng ta không có phiền não, không có đau khổ nữa.

Vì thấy cái thân vô thường này mình không chấp ngã nè, mình không có giận hờn ai nữa nè, mình thấy cái thân vô thường nè, mình không có sợ đau, sợ khổ nữa nè. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó, gọi là lấy cái trí tuệ đó mà tu thì gọi là tu tuệ.

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu ba cái trí tuệ này chỉ là một cái tri kiến của chúng ta thôi chớ không phải gì khác hơn hết.

Nó không phải là trí tuệ siêu việt, nó cũng không phải là trí tuệ viên mãn, nó chỉ là một cái tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này, ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có.

(25:32) Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là vay mượn của kẻ khác nói thì nó hơn là cái người không có vay mượn văn chương, cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia.

Nói một hơi chúng ta đem một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem một câu nho ra nói thì cái đó là mượn, mượn - cái vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.

Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vậy, như vậy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy.

Đó là cái vay mượn. Mà cái vay mượn đó là cái trí tuệ - không phải là cái trí tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một cái người thông về khoa học, thông về cái này, thông về cái kia.

Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.

Văn - tư - tu tuệ này chỉ là một tri kiến góp nhặt chớ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu Học Giới - Định - Tuệ của đạo Phật.

Bởi vì Giới - Định - Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại giới luật.

Mặc dù nói là Giới - Định - Tuệ có cái tên riêng, nhưng mà sự thật toàn bộ Giới - Định - Tuệ là một cái giới luật như Thầy hồi nãy nói: Giới bổn tức là giới hạnh, mà Định tức là giới đức, Tuệ là giới tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật - toàn bộ là giới luật chớ không phải gì khác hơn hết.

Vì người dạy giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nó riêng mà Định nó riêng, Tuệ nó riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan, làm cho con người ta học đến giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không có nổi với nó.

Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học, cho nên Giới - Định - Tuệ nó là một cái giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người.

Từ bước đầu vô cái giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến giới đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái giới tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái sự mà - cái quyền lực của giới tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.

Cho nên ở đây dạy về giới luật mà hiểu biết được giới kinh và hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới - Định - Tuệ này thì Thầy nói rằng người dạy giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, rất là làm cho cái người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy, dạy giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được giới luật.

(28:24) Đứng ở trên góc độ mà dạy giới luật như Thầy, Thầy tin rằng giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường giới luật, mọi người người ta khép chặt mình trong cái giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát.

Người ta không hề sợ khổ, mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người làm cho chúng ta làm chủ được cái sanh tử.

Từ lâu chúng ta bị sanh tử làm chủ, bây giờ chúng ta đòi lại quyền sanh tử bằng một cuộc cách mạng. Bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ: Nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền làm chủ sanh tử đâu.

Đó là cái mục đích của Tam Vô Lậu Học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu Học là một cái định lực của giới luật, nó làm chúng ta thay đổi toàn bộ của một cái cuộc cách mạng đời sống của chúng ta.

Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này, mà không quét sạch cái - không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.

Vì Giới - Định - Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn:

Nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái giới luật chớ không phải là hai.

Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được.

Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn: Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của giới luật thì hoàn toàn nó là - ba pháp môn là giới luật, không gì khác.

Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là trí tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc.

4.2- NGƯỜI TU XONG SỐNG VỚI TRI KIẾN GIẢI THOÁT

(30:10) Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không?

Đó, nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời:

Thưa không!

Nghĩa là cái tri kiến đó hoàn toàn họ không có.

Tại sao vậy?

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược.

Nghĩa là cái tri kiến đó đầy góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó cái hay, chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng, cái đó là sai nữa.

Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay, họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận hay chớ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay là Chánh Kiến, họ chưa biết đâu.

Cho nên cái người mà tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa, thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cái cuộc sống của họ hàng ngày họ còn đang sống?

Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy:

Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc…​

Cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy.

…​ và uế trược.

Nó rất uế trược.

Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với trí tuệ hay không?

Thưa không!

Nghĩa là họ cũng không sống với trí tuệ, cái trí tuệ siêu việt họ cũng không có sống đâu, họ không có sống với trí tuệ đó đâu. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn họ không sống với trí tuệ đó.

Đừng nghĩ rằng khi một người tu chứng luôn luôn họ sống với trí tuệ, không! Họ sống với cái gì đây?

Vậy thì như thế nào?

Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây?

Hàng ngày họ đang sống với tri kiến giải thoát.

Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà tri kiến giải thoát nó đâu có dính mắc! Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu chúng ta suy nghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta, nhưng mà mỗi vật đến với họ, họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.

(32:17) Thí dụ như bây giờ Thầy sống với tri kiến giải thoát nè, heng, mà bây giờ một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để mà Thầy thuyết giảng. Mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ, cho nên hoàn toàn, khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống.

Đó là không thể cám dỗ cái tri kiến giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được!

Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thấy thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đó đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến giải thoát là không cám dỗ được.

Cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà tri kiến giải thoát chớ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy.

Cho nên trong cái kinh thường chúng ta thấy này: giới hương, định hương, dữ huệ hương nè, giải thoát, giải thoát tri kiến hương, có năm loại hương.

Thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong cái tri kiến giải thoát chớ người ta không phải sống trong cái trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với tri kiến giải thoát.

Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật, bắt đầu mà cầm năm, ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã là nói đến cái chỗ nào sống của quý vị.

Cho nên cái tri kiến giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên: Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè, để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất.

Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được.

Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái tri kiến mà tích tụ, kết tập, nó không có giải thoát đâu mà nó dính mắc.

(34:03) Cho nên ở đây Thầy giảng như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng, không còn mờ mịt gì nữa hết.

Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng giới hạnh, còn gọi là giới hương. Họ sống đúng giới đức còn gọi là định hương.

Nghĩa là họ sống - cái hương tức là cái thơm chứ gì, các con hiểu không? Cho nên mình niệm hương đó, mình nói - mình thắp cây hương lên mình nói chớ không phải đâu!

Nghĩa là mình sống đúng giới hạnh đó, gọi là giới hương. Mà mình sống đúng giới đức thì gọi là định hương. Bởi vì giới đức nó thuộc về định mà cho nên gọi là định hương. Mà mình sống đúng giới tuệ thì gọi là tuệ hương. Phải không?

Họ sống đúng với tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết, không lầm lẫn, còn gọi tri kiến hương.

Nghĩa là sống đúng với cái Chánh Pháp của Phật dạy, với cái sự hiểu biết đúng cái Chánh Kiến, Chánh Pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là tri kiến hương.

Còn mình sống không đúng với cái Chánh Pháp của Phật dạy, không sống đúng với giới luật của Phật dạy cái tri kiến đó đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết, nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái tri kiến của Phật dạy, những cái lời của Phật dạy trong kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là tri kiến hương.

Còn mình sống đúng cái tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là tri kiến hương.

Họ sống đúng với tri kiến giải thoát nên còn gọi là tri kiến giải thoát hương.

Đó thì, Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại trí tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong giới luật, đó là những cái mùi thơm của nó, của giới luật đó.

Cho nên cái giới luật mà đầu tiên đó là giới hạnh thì gọi là giới hương. Cái giới luật thứ hai thì gọi là giới đức, thì gọi là định hương. Cái giới luật thứ ba đó, tức là cái giới tuệ thứ ba đó gọi là tuệ hương.

Cái tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những cái lời Phật dạy đó gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến mà hằng ngày mà các bậc mà viên mãn mà sống đó thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát hương.

Thấy như vậy chúng ta mới rõ được. Cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai cũng quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng.

Cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của giới đức, của giới tuệ, của giới hạnh, của tri kiến - của tri kiến đúng đó, chớ còn tri kiến sai thì cũng không được nữa, của tri kiến giải thoát, thì đó là những cái hương thơm của những cái loại giới luật này.

(36:56) Đối với Tam Vô Lậu học thì tri kiến không được gọi là Tuệ Vô Lậu.

Cái tri kiến của chúng ta không được gọi nó là tên Tuệ Vô Lậu đâu!

Trong mười ba giới tuệ này, giới tuệ thứ nhất: Dẫn tâm đến Chánh Trí và Chánh Kiến…​

Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này nè , nếu mà cái người mà tu tập cái giới tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có Chánh Tri Kiến, mới có được cái Chánh Tri Kiến.

Thì cái Chánh Tri Kiến này tức là cái tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái trí tuệ, cái giới tuệ đầu tiên, cái giới tuệ thứ nhất, lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để mà chúng ta mới đạt được cái tri kiến đó, chớ còn không phải cái tri kiến tầm thường như tri kiến của thế gian, cái tri kiến kết tập, cái tri kiến mà tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác, thì cái tri kiến đó là tri kiến phàm phu.

Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập, trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô Lậu nó đạt được cái giới tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là tri kiến hương.

Giải thích cho rõ vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng: Khi chúng ta muốn đạt được cái tri kiến hương này, thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô Lậu thứ nhất của cái giới tuệ của nó.

Trong mười ba giới tuệ này, giới tuệ thứ nhất: Dẫn tâm đến Chánh Trí và Chánh Kiến, tức là tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn.

Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân - Thầy xin lỗi, phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn.

Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp những cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa.

Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là cái chân lý không thể thay đổi được. Nói là cái nguyên nhân mà sanh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được.

Mà nói một cái cảnh giới Niết Bàn thì đó là một cái trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ, mà nói đến tám cái nẻo mà đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó là hoàn toàn là một cái chân lý không thể nào mà ai thay đổi tám cái nẻo giải thoát này được.

Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó là gọi là tri kiến.

(39:45) Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là tri kiến giải thoát chớ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái Chánh Kiến của đạo Phật mà thôi.

Cái kia còn gọi là tri kiến, mà tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp.

Còn cái người tu mà đến cái giới tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô Lậu, thì cái hiểu biết đó, cái tri kiến đó được gọi là cái tri kiến giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến giải thoát.

Cho nên cái người tu họ không sống ở trong tất cả các cái Tuệ Vô Lậu mà họ chỉ sống ở cái tuệ thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất là cái tri kiến giải thoát. Cho nên cái tri kiến giải thoát ở đây nó được gọi là cái giới tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô Lậu.

Đó thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy thì Thầy giảng nó hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho rõ hơn.

Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái tri kiến giải thoát chớ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên tri kiến giải thoát được nằm trong giới tuệ được gọi là Tuệ Vô Lậu.

Nó cũng được gọi là Tuệ Vô Lậu, nhưng nó là cái giới tuệ thứ nhất ở trong mười ba cái giới tuệ chớ không phải là cái tuệ cuối cùng.

Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái tuệ - cái giới tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái giới tuệ thứ nhất, cho nên cái giới tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa.

Ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình, tức là cái tri kiến giải thoát đó, hay hoặc là giới tuệ thứ nhất của trong mười ba giới tuệ.

Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới - Định - Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.

4.3- GIẢI THOÁT VIÊN MÃN THÌ KHÔNG CÒN CHẤP VÀO NIẾT BÀN

(42:05) Còn Niết Bàn là gì?

Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.

Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được thiện pháp của đạo Phật.

Và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa.

Nghĩa là chúng ta - đến đây thì người ta hỏi chúng ta: Còn cái Niết Bàn là gì?

Nghĩa là chúng ta đến đây, chúng ta đã viên mãn được Giới - Định - Tuệ như vậy, tức là từ giới hạnh, rồi giới đức, rồi giới tuệ, chúng ta hoàn thành được những cái giới luật này rồi, thì có người hỏi: Khi mà hoàn thành được các giới luật này rồi - Giới, Định, Tuệ này rồi - thì viên mãn rồi, thì cái Niết Bàn nó là gì?

Có người hỏi chúng ta là cái Niết Bàn là gì, thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi như vậy, là cái Niết Bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết Bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết Bàn, còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết Bàn của chúng tôi.

Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới - Định - Tuệ, mà nếu mà chúng tôi còn nói cái Niết Bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết Bàn.

Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết Bàn mà chúng tôi chỉ nói như thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lời:

Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa.

Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chớ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ở trong cuộc đời này nữa thôi, chứ chúng tôi không biết Niết Bàn nữa.

Mà những người nào mà tới đây mà còn nói cái Niết Bàn như thế này, thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế, chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế.

Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó. Cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức thường - lạc - ngã - tịnh trong đó thì người đó chưa tới.

Cũng như cái người mà tới rồi họ nói: “Tui chứng quả A La Hán!” - thì người đó chưa chứng quả A La Hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A La Hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu.

Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào: “Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết.

Nghĩa là tui không có còn sanh Thiên, sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết Bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi.

Đó thì, quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế nào, thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này.

Cho nên ở đây Thầy mới - khi mà viên mãn về ba cái giới này, vạch ra một cái đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay, thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói: “Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!”

Quý thầy thấy hiểu cái chỗ đó hiểu sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết.

Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy