(57:44) Bây giờ quý thầy bắt đầu tu học, tập giới tuệ.
Khi tu tập giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch.
Nghĩa là khi mà tu tập giới đức rồi đó, thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt.
Nghĩa là lúc bấy giờ mà khi mà giới đức mà thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm, tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một cái chút gì thế gian hết, nó không còn có khởi một cái sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu cái sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa.
Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học cái giới tuệ thứ nhất của cái tâm này đây.
Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy…
Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó.
Những cái danh từ mà Thầy chỉ giải, chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó, Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi mà đã tu cái giới đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này này:
Với tâm định tỉnh - rất là định tỉnh, không có gì làm cho nó chao động được hết.
Thuần tịnh - thuần là thanh tịnh đó, nó không có còn mà bị một cái gì nhơ bẩn ở trong đó.
Cho nên nó không cấu nhiễm - không phiền não.
Nhu nhuyễn - nhu là nó mềm, nhuyễn là nó mềm dẻo.
Dễ sử dụng - cái tâm của quý vị bây giờ nó dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có cái chỗ mà nó cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu.
Vững chắc - nó luôn luôn nó rất là vững chắc, cái sự nhu nhuyễn đó nó mềm dẻo vậy chớ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động.
Nó bình thản - nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không một cái gì mà làm cho mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được.
Đó là lúc bấy giờ các vị đã học tu tập được cái giới đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này quý vị mới tập luyện được cái giới tuệ, chớ còn nếu nó không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái giới tuệ này đâu.
Lúc bấy giờ vị Tỳ Kheo dẫn tâm hướng đến Chánh Trí, Chánh Kiến…
(01:00:13) Đó. Bây giờ đó chúng ta mới dẫn cái tâm. Tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh Trí - tức là cái trí chân chánh của quý vị, rồi cái Chánh Kiến - cái hiểu biết chân chánh của quý vị.
… thì vị ấy biết rất rõ:
Nghĩa là cái người đó mà dẫn cái Chánh Trí, Chánh Kiến của mình thì biết rất rõ:
Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất.
Nghĩa là khi mà cái người đó mà có cái sức định tỉnh của tâm như vậy rồi thì mới hướng cái tâm đến Chánh Trí, thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy, và biết được cái thức nó đang bị trói buộc ở trong những cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó, và nó bị như lãng quên mất đi, và bây giờ nó đang hiện ra được.
Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức Thức nó đã từ lâu - chúng ta nói thân Ngũ Uẩn của chúng ta mà, Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức đó - thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, nó cột chặt, nó không có làm việc gì được hết. Tất cả mọi thằng khác thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy đó.
Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tỉnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.
Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập giới tuệ.
Đó, bây giờ mình nhìn nó mình thấy từ lâu nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ đó mình mới cần thiết mình dùng nó để cho mình sai nó làm những cái phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì nó cũng nghe theo hết.
Đó thì, như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh Kiến, Chánh Trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, nó mới dậy nó làm việc ở trong cái giới tuệ của nó mới được.
Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu, chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào.
(01:02:48) Nghĩa là Đức Phật ví như lúc mà cái tâm chúng ta mà thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến cái Chánh Trí và Chánh Kiến, mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị bỏ quên, giống như là chúng ta xỏ một cái sợi dây qua một cái hòn ngọc bảo châu mà nó trong suốt, cho nên cái sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy cái màu khác, mà không có mờ mịt chút nào hết.
Đó là Đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng:
Cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái Chánh Kiến và cái Chánh Trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là nó không có cái - nó luôn luôn là nó bị hoại diệt, nó luôn luôn là bị thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, nó làm chúng ta đau khổ.
Và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi, đó là cái Thức Thức của chúng ta bị bỏ quên đi, nó chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên đi, nó không có làm việc gì được hết.
Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh nó dậy, phải dùng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong cái sự tu tập của giới tuệ của chúng ta.
Nghĩa là chúng ta muốn mà tu tập giới tuệ thì chúng ta phải đánh Thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được giới tuệ. Còn cái Thức Thức chúng ta không có dậy thì chúng ta không có tu tập được giới tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?
Mà khi đó chúng ta phải thực hiện thiền định rồi thì chúng ta mới đánh thức nó dậy. Mà thiền định tức là giới đức, mà giới đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà giới đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được?
Đó thì hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức Thức của chúng ta bằng cái Chánh Trí, bằng cái Chánh Kiến của chúng ta.
Ví như một hòn ngọc… - cái này rồi.
Đó là giới tuệ thứ nhất trong giới luật của Đức Phật, mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy.
Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái giới tuệ của vị đấy đánh thức được cái Thức Thức dậy rồi đó, đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy, cái kết quả rất là vi diệu.
Đó là cái giới tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó, là lúc bây giờ đó mới dùng cái Chánh Trí và cái Chánh Kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì? Bằng cái pháp hướng.
Đó thì, đó là cái giới tuệ thứ nhất mà chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức Thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái giới tuệ của nó, tu tập những giới tuệ của nó.
(01:05:25) 2. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra.
Vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao; cũng ví như người rút thanh gươm, thanh kiếm ra từ bao kiếm; cũng ví như người lột xác một con rắn.
Đó, thì khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái giới tuệ của chúng ta, mà cái giới tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức Thức của chúng ta phải làm việc.
Bây giờ đó, từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác, mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ gì nó cũng mắt, tai, mũi, miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta, mà nó hiện ra nó ngồi y như hai người ngồi như là một, thì như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái giới tuệ của chúng ta thứ hai này.
Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức mà làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta, lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chớ không còn mà làm sai khác được cái ý của chúng ta.
Đó là giới tuệ thứ hai trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng.
Các thầy nghĩ coi bây giờ từ cái chỗ thiền định mà nhập Tứ Thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi, thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi, thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức Thức của mình dậy.
(01:07:21) Mình đánh Thức Thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đàng hoàng, mặc y áo đồ giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa.
Thì lúc bấy giờ quý thầy thấy cái giới tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chớ không phải là nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu!
Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chớ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chớ trong thời Đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc, chớ không phải nói vu vơ như thế này.
Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chớ chưa phải là cái người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu Hỏa Nhập Ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn bây giờ nói như thế này…
Hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.
Nói đến cái giới tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, nó không thể mà cái người thế gian mà lường được, thành ra Thầy nói tới đây người ta dường như là người ta nói Thầy nói láo. Nhưng mà nó là một cái sự thật, nó không phải là nói láo đâu!
Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người mà thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện, cho nên người ta vẫn nói đó là cái Phật cũng nói láo chớ chưa phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo, Thầy biết chớ làm sao ai biết được.
Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì mà bỏ một cái gì được.
Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới, nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.
(01:09:15) Bây giờ về cái phần giới tuệ thứ ba.
Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc.
Bây giờ đó tới cái Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ Dục Như Ý Túc đó, cái phần Dục Như Ý Túc đó.
Vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân.
Trước thì Đức Phật chỉ cái giới tuệ đầu tiên Đức Phật - một thân này hiện ra một thân, các căn mắt, tai, mũi, miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Thì các thầy thấy phải đi tuần tự chớ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu!
Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới cái giai đoạn là chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó!
Chớ hồi đầu thì nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu! Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức Thức chúng ta sống dậy nó biết điều khiển mà thôi. Đó, nó mới biết điều khiển mà thôi chớ nó chưa phải là hoàn toàn là nó đủ cái Dục Như Ý Túc đâu!
Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy tới cái giới tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.
Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân…
Nhiều thân nó gồm lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân.
… hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không; độn thổ, trồi lên ngay qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm rờ mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực như vậy.
Nghĩa là Đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó, mà bàn tay chúng ta với tới chúng ta rờ mặt nó được. Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay chớ không chơi!
… có đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi Phạm Thiên được.
Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích.
Đức Phật ví như người mà tu tới cái giới tuệ thứ ba này họ cũng như một cái người thợ đồ gốm mà khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất là nhuyễn rồi thì cái người đồ gốm này muốn làm cái chum, cái chén cái gì, tất cả cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hay hoặc là bình sứ cái gì, bình bông gì, họ làm cũng muốn làm cái nào là họ khéo tay họ làm được hết.
Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó, bấy giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải bảy mươi hai phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu, có bảy mươi hai à! Còn ở đây nó vô lượng chớ đừng có nói!
Đó thì, quý thầy phải hiểu rằng cái đường lối của đạo Phật nó không phải tập luyện có bảy mươi hai cái phép biến đâu, mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, chớ không phải!
Cho nên ví như một ông - một người thợ đồ gốm mà ông với cục đất sét mà ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ổng chỉ còn nắn, ổng muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Thì đó là một cái người mà đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!
Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo, dũa, có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích.
Nghĩa là cái người thợ đó nó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì đủ cách, họ tiện ông Phật chút chút vậy đeo cổ người ta cũng được nữa, không có cái gì mà khó khăn đối với ổng hết.
(01:12:48) Ví như người thợ vàng…
Thợ kim hoàn đó.
… khéo tay với vàng khéo tinh luyện, có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích.
Đó là Đức Phật ví dụ như những người mà làm ra những cái điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tỉnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chớ không có khó khăn gì hết.
Đó là giới tuệ thứ ba trong giới luật của Đức Phật.
Đây là cái giới tuệ thứ ba thôi chớ chưa phải là nó hết những cái giới tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu, nghĩa là bước qua đầu cái giới tuệ là chúng ta đã thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.
Đó là giới tuệ thứ ba trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường.
Bây giờ chúng ta - cái đầu óc của chúng ta bây giờ nghĩ không có được ra cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ làm sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Thì nghĩ sao cho ra không?
Mà thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được, nó đâu phải là cái chuyện đối với cái chuyện đó là chuyện khó đâu. Nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi, không có nghĩ làm sao ra. Cho nên khó nghĩ lường.
Ở đây nó vi diệu, thù thắng, mà thiết thực, hiện tại, chớ không phải là đợi ngày mai, ngày mốt đâu! Bây giờ - muốn bây giờ là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy chớ không phải là!
Bởi vậy Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu.”
Đó trong cái thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chớ không phải là nói mơ hồ như cái bóng ma, như bóng khói, như cái đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là cái sự thật như vậy.
(01:14:30) 4. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ Kheo dẫn tâm đến Thiên Nhĩ Thông. Tỳ Kheo với Thiên Nhĩ Thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai.
Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kiểng, người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ Kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên Nhãn Thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.
Đó là giới tuệ thứ tư trong giới luật của Đức Phật, mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường.
Đó thì, quý thầy thấy, khi người ta tâm như vậy người ta dẫn tâm người ta đến Thiên Nhãn Thông hoặc là Thiên Nhĩ Thông, hoặc là Tha Tâm Thông, tất cả những cái này đều là những cái điều kiện mà cái vị đó đã tu tập ở trong cái giới tuệ mà họ đạt được.
(01:15:44) 5. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha Tâm Thông.
Thì ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai cái danh từ: dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào? Và hướng tâm như thế nào? Sau này Thầy dạy về tới các pháp Thầy sẽ giải thích cái chỗ này ra. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi.
… đến Tha Tâm Thông.
Bây giờ hướng dẫn đến Tha Tâm Thông đây:
Tỳ Kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh…
Đó, mình dẫn tâm của mình đi sâu vào - hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh.
… của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có tham, biết là có tham; tâm không có tham, biết là tâm không có tham. Tâm của chúng sanh có sân, biết là tâm của chúng sanh có sân; tâm không có sân, biết là tâm không có sân. Tâm của chúng sanh có si, biết là tâm có si; tâm không có si, biết là tâm không có si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm, biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng. Tâm thiền định biết là tâm thiền định; tâm không thiền định biết là tâm không thiền định. Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.
(01:17:24) Đó thì quý vị - khi mà được cái giới tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì cái vị Thầy người ta đều biết hết, nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt người ta điều khiển, người ta hướng dẫn cho quý vị tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong cái tâm nào người ta biết hết chớ không phải là người ta không biết.
Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chớ còn nếu mà người ta không sử dụng được cái tâm người ta thì làm sao người ta biết quý vị?
Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị, nhưng mà người ta lần lượt người ta hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào cái con đường đúng mà thôi.
Bởi vì cái người mà tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ mà một ngày, một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo mà để giúp cho quý vị cởi ra.
Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết; da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen; mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi; mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo.
Đó thì Đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vầy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người mà người ta có được cái giới tuệ thứ năm này thì người ta dẫn cái tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm của các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết à, chớ không phải là người ta không biết đâu.
Đó là như là chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi cái gương trên mặt vậy đó, họ biết họ như thế nào cũng rõ như vậy, thì cũng ví một cái người mà người ta đã có được cái giới tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!
Đó là giới tuệ thứ năm trong giới luật của Đức Phật, vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.
Đó thì, chúng ta thấy tới cái giới tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được - không được người ta biết hết, tu đúng - tu sai người ta biết hết chớ không phải là người ta không biết.
(01:19:43) 6. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng đến giới tuệ Túc Mạng Minh.
Đó bây giờ mới hướng đến Túc Mạng Minh đây:
Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này; sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này; sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.
Như vậy vị Tỳ Kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng.
Đó, thì Đức Phật ví dụ như mà chúng ta dùng Túc Mạng Minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chớ không là thấy ít đâu.
Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này trở về làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này, từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.
Đó là trí tuệ thứ sáu trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.
Đó thì, quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời, nhiều kiếp người ta, như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy đó. Nghĩa là thấy từ cái quá khứ rồi trở về với cái hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây, bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp… (Mất tiếng)
Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục cái bài học vừa rồi thuộc về giới tuệ.
Đó là giới tuệ thứ sáu trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.
(01:22:26) Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến giới tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên Nhãn Minh.
Vị ấy với Thiên Nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống, chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do nghiệp của chúng tạo ra.
Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh Hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng, những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ! Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ.
Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo Chánh Kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt giới luật và giáo pháp của Đức Phật, thường theo giới luật của Phật, không làm khổ mình, khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh, có ác pháp, có sự chết chóc, đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh, những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống.
Với Thiên Nhãn Minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng. Ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, một người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra, đi qua, đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường, hay trèo lên đài thượng, rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.
Đó là giới tuệ thứ bảy trong Giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả giới tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường.
(01:25:30) 8. Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu Tận Trí.
Vị ấy biết như thật đây là khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của khổ, biết như thật đây là khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến khổ diệt, biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc.
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát. Như vậy, sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng: “Ta đã giải thoát, Sanh đã tận, Phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”
Đó là cái tuệ thứ tám của cái vị này mà nó hiện ra đó, thì đó là chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế.
Cho nên trong cái Ngũ Lực thì Đức Phật có nói là cái Tuệ Lực là cái gì? Tuệ Lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ.
Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nói nghe khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân khổ, rồi cái cảnh giới thoát khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cái cảnh giới thoát khổ đó, thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi.
Còn ở đây khi mà cái giới tuệ của chúng ta thực hiện được cái Lậu Tận Minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân khổ, khổ thật, chớ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý khổ.
(01:27:54) Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái giới tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: Đây là khổ, đây là chứng thật cái sự khổ, chớ không phải đây là nói là khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu, mà đây là cái sự chứng thật, biết như thật.
Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó, do sau những ngày tu tập cái Định Vô Lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được.
Thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết được cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm, đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng, tùy theo cái pháp mà chúng ta nỗ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó, cho nên gọi là bây giờ đó mới là cái trí tuệ vô lậu nó thực hiện ra, chúng ta mới thấy nó như thật, biết nó như thật như vậy!
Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ, và đây là con đường dẫn đến hết khổ.
Và kế đó thì Đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ Đế này rõ ràng, nhưng mà Đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ Đế nó nhằm vào bốn cái - những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.
Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc.
Đó, thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào.
Đó, nếu mà muốn cho lậu hoặc nó, muốn cho cái lậu hoặc - đó là cái khổ, phải không? Mà cái nguyên nhân mà có lậu hoặc thì đó là cái lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết cái lòng ham muốn thì nó sẽ là hết cái lậu hoặc, mà hết cái lậu hoặc đó là con đường - là Niết Bàn - là cái cảnh hết khổ.
Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được cái con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn, thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc hết ở trong tâm của chúng ta thì cái con đường đó là Bát Chánh Đạo - tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.
(01:30:20) Cho nên ở đây cái giới tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng - chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc, đó là chúng ta sẽ học.
Sau khi mà học xong giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh Kiến cho đến Chánh Định, mà từ cái Chánh Kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh Kiến.
Bắt đầu chúng ta phải tu cái định gì đối với cái Chánh Kiến đầu tiên. như bây giờ chúng ta tu - nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh Kiến, phải phòng hộ cái Chánh Kiến của chúng ta.
Phòng hộ Chánh Kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Như vậy là mới đầu vô mà được Chánh Kiến là phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp, cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào!
Sau đó thì chúng ta phải dùng cái - trên cái mắt, tai, mũi, miệng của chúng ta - chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi mà chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên, trở thành cái sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức.
Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu một cái nẻo Chánh Kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.
Rồi đến tu cái - đến khi mà để cho mắt chúng ta mà nhìn các vật được - trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức, sau khi tập luyện sức tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta nó không còn khởi ham muốn mọi vật nữa.
Vì vậy mà lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái định, và hai cái định đó để giúp chúng ta ở trong Chánh Kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch - trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc, do đó chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu nữa.
Từ đó nó còn những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện Tại An Lạc Trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam Minh mới quét nó ra được.
Cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ định trong một cái Chánh Kiến. Rồi từ cái Chánh Kiến rồi thì Chánh Tư Duy thì cũng phải tu như vậy, rồi Chánh Niệm - cho nên Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.
(01:32:40) Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, rồi cái đặc tướng của cái Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Nghiệp, Chánh Định, Chánh Tinh Tấn, chớ đâu phải là có một cái không!
Cho nên giảng về Tứ Diệu Đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng trên bước đường hướng dẫn cho một người tu để đạt đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ.
Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng, hiểu đúng, như thế này, thế khác bằng thiện pháp, như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào mà như một vị tu hành phải hiểu cho rõ, cho đúng.
Đến đây là cái giới tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.
Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ, rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che giấu được mắt họ.
Đó Đức Phật ví dụ khi mà cái tâm của chúng ta mà cái Lậu Tận Minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong, cũng như là cái nước hồ trong suốt mà chúng ta đứng ở trên cái hồ rồi nhìn xuống dưới cái đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng.
Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ giới tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt như vậy, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy.
Khi tu đến đây rồi thì cái tâm chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.
Đó là giới tuệ thứ tám trong giới luật của Đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả giới tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường./.
HẾT BĂNG