00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(30:20)

3.1- NHẬN BIẾT, ĐỐI CHIẾU MƯỜI ĐIỀU LÀNH VÀ MƯỜI ĐIỀU DỮ

(30:20) Bây giờ Thầy xin ôn lại những điều lành Thầy đã dạy cho quý thầy ở lộ trình thứ nhất.

Bây giờ ôn lại để chúng ta thấy mình đã học những cái pháp lành nào, cái điều lành nào, để cho mình biết.

Thứ nhất như là mười cái điều lành, đó, mười cái điều lành tức là Thập Thiện đó, quý thầy đã học rồi phải không? Rồi bốn Tâm Vô Lượng đó, thì quý thầy đã học rồi.

Và mười cái điều lành bây giờ chúng ta mới đem áp dụng vô cái Tứ Chánh Cần này đó. Còn bốn cái Tâm Vô Lượng thì mình đã trau dồi về cái pháp hướng để làm cho cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, của mình nó rộng lớn hơn, thì cái hành của Tứ Vô Lượng Tâm rồi.

Bây giờ mới nhắc lại mười cái điều lành này. Hồi trước Thầy chỉ giảng cái lý của mười điều lành này chớ chưa có dạy quý thầy hành mười cái điều lành này. Bây giờ mới tới đây là quý thầy sẽ hành mười cái điều lành này.

Nó mới hiểu biết rằng khi dạy Thập Thiện tức là để cho chúng ta biết mười điều lành và mười điều ác. Và khi biết rồi, bắt đầu bây giờ mới tới Tứ Chánh Cần mới đem nó mà áp dụng vào Tứ Chánh Cần để chúng ta thực hiện mười điều lành, mười điều ác.

Bởi vì trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì đoạn dứt. Mà các pháp thiện chưa sanh thì phải cho khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng.

Cho nên chúng ta biết được cái đó vì vậy mà chúng ta phải dạy các pháp ác như thế nào? Các pháp thiện như thế nào? Để chúng ta hiểu pháp ác làm sao, pháp thiện như thế nào, để mà chúng ta áp dụng vào Tứ Chánh Cần cho đúng đắn.

(31:11) Qua mười điều lành và bốn tâm vô lượng, quý thầy đã quan niệm rõ nét về điều dữ và điều lành trong đạo Phật rất cụ thể.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ. Là vì qua những cái điều mà Thầy dạy đó, thì quý thầy đã thấy điều lành và điều dữ, không có mơ hồ nữa, quá rõ ràng. Vì đã học xong rồi, quý thầy đã hiểu rõ rồi.

Mỗi khi ai đã học xong những điều Thầy đã dạy ở trên mà không hiểu được điều lành, điều dữ thì người ấy quá là si mê!

Nghĩa là Thầy dạy rồi mà không hiểu được thì thật là si mê.

Nếu Thầy dạy điều lành, điều dữ mà người nào không hiểu thật rõ, là đáng thương cho người đó, người đó là kẻ si mê tận cùng!

Nghĩa là Thầy dạy như vậy, chắc chắn là Thầy tin một cái người mà bây giờ ngu si như thế nào mà dạy xong rồi thì chắc chắn là quý thầy cũng phải thấy rõ được cái điều Thầy dạy, chớ không phải là không thấy rõ.

Bởi vậy, trước khi làm một điều lành, tránh một điều dữ, chúng ta phải hiểu rõ thế nào là lành, thế nào là dữ?

Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như mai sau.

Đó thì, quý thầy thấy những cái điều lành, điều dữ là như thế nào. Điều lành là làm cho người vui, làm cho lợi người, mà điều dữ ớ thì làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ, thì đó là những cái đặc tánh của điều dữ và điều lành nó như vậy.

So sánh ta thấy rất rõ và nhận định chính xác không lầm. Nếu ta so sánh giữa mười điều dữ và mười điều lành đối chiếu nhau thì ai ai cũng rõ.

Bây giờ chúng ta sẽ đối chiếu lại mười cái điều lành và mười điều dữ thì chúng ta thấy rất rõ.

Bây giờ mình để cái điều dữ trước và cái điều lành sau, thì chúng ta thấy nè:

1. Sát sanh.

Sát sanh thì cái người đó phải cầm dao, cầm gậy, cầm gộc, đánh cho chết người, hoặc là giết con vật này. Cho nên không sát sanh thì không giết không hại, không làm đau khổ, không làm chết chóc chúng sanh. Đó là không sát sanh. Đó là lành phải không? Bởi vì không làm khổ ai hết thì đó là lành.

Điều dữ đây:

2. Trộm cắp.

Trộm cắp - mình lấy của người ta không cho, làm cho người ta mất của, người ta buồn rầu, người ta khổ sở, thì cái đó có khổ không? Đó là ác. Cho nên mình thấy rõ cái pháp ác mà, đâu có gì là không ác.

Còn mình không trộm cắp tức là không lấy của người, thì người ta đâu có mất của người ta khổ? Do đó thì mình thấy không có khổ, vì vậy mà đối chiếu lại thì chúng ta thấy trộm cắp là pháp ác, mà không trộm cắp là pháp lành.

(34:16) Bây giờ đến:

3. Tà dâm.

Cái người mà tà dâm, có vợ con rồi mà đi lại nhà người ta ve vợ người ta, hoặc làm thế này, thế khác, làm cho gia đình người ta tan nát rồi gia đình mình tan nát, có khổ không? Đó là pháp ác, là cái pháp làm cho đau khổ mình, đau khổ người.

Còn không tà dâm thì gia đình hạnh phúc yên vui, nhà người ta có tan nát cửa không? Đó là mình vui mà người khác cũng vui. Do đó là không tà dâm là pháp thiện, mà tà dâm là pháp ác.

4. Nói dối.

Nói không thật đó, mà nói không thật tức là gạt người ta chớ gì?

Thí dụ như con người ta không có té giếng chết, mình chạy về mình nói: “Con bà đi ra ngoài coi trâu ngoài ruộng, nó té chết, nó lọt giếng, nó chết dưới rồi!” - làm cho bà ta sợ hãi, khóc lóc chạy ra coi con mình chết không, ai dè thấy nó ngồi trên bờ ruộng!

Thì do đó là nói láo như vậy làm cho người ta khổ như vậy đó, có ác không? Ác! Cho nên cái nói như vậy làm cho người ta khổ, đó là pháp ác.

Còn mình không nói dối, không gạt ai hết thì có ác không? Không có làm cho ai khổ sở hết thì cái đó là cái pháp lành. Cho nên chúng ta phải nhớ, so sánh để chúng ta biết chúng ta phải giữ cái nào mà dứt cái nào.

5. Nói thêu dệt.

Mình nói thêu dệt, mình thêu dệt cái này, thêu dệt cái kia để cho người ta thù hằn nhau, rồi người ta giận với nhau, người ta ghét với nhau, thì cái đó là pháp ác hay pháp thiện? Vì người ta có giận hờn ghét nhau, thì do đó là pháp ác, làm cho người ta đau khổ, người ta tức giận. Đó là pháp ác.

Còn mình không nói thêu dệt thì đâu có làm ai khổ? Mình không nói xấu người khác thì đâu có làm ai khổ? Cho nên do vì vậy đó mà đó là pháp thiện.

6. Nói lời phù phiếm

Mình nói lời phù phiếm, mình nói cái này, cái kia nó không đúng cách, nó làm cho người ta nghe cái chuyện này rồi dính mắc vào chuyện kia, đi làm chứng làm trái này kia, làm cho người ta phải mất thì giờ, làm cho người ta tổn phí những cái công sức để mà ngồi nghe những cái chuyện tào lao không có đúng. Đó là cái pháp ác.

Còn mình không nói lời phù phiếm thì có phải là người ta không mất thì giờ không? Người ta không có ngồi nghe cái chuyện tào lao, cho nên người ta nó không có hao tổn tinh thần, mà cũng hổng hao tổn cái thời gian của người ta, thì như vậy là thiện pháp.

(36:33) 7. Nói lời hung dữ.

Nói lời hung dữ là mình chửi mắng, mình rủa người ta, hoặc là mình nạt nộ, thì làm cho người ta giận, tức, làm cho người ta đau khổ, thì cái đó là pháp ác phải không? Do vì vậy đó là nó pháp ác.

Còn chúng ta không nói lời hung dữ thì đâu có làm ai khổ sở? Cho nên đó là pháp thiện.

8. Tham lam.

Tham lam là ham muốn, mình ham muốn cái này cái kia, nó sanh ra những cái (mà) đạt được thì mình mừng vui chút, mà không đạt được thì nó khổ sở, nó lo toan đủ thứ ở trong đầu của mình. Do đó tham muốn cái này, tham muốn cái kia nó làm chúng ta phải lo lắng, thì như vậy là cái sự lo lắng ở trong tâm của mình đó là cái pháp ác.

Còn cái người mà không tham lam, không ham muốn thì họ có an ổn không? Họ thanh thản, họ an vui, cho nên cái pháp đó là pháp thiện.

9. Sân.

Sân thì quý thầy thấy người sân có giận dữ không? Giận dữ thì tức tối, mặt đỏ, tay múa may, tay chân múa may. Do như vậy là cái người sân là cái người quá khổ. Mà sân là khổ như vậy đó là pháp ác.

Còn cái người không sân là có khổ không? Không có khổ, không có giận dữ, không có múa may, không có chửi mắng, không có la lớn, thì cái người đó là người không khổ. Còn cái người kia là cái người sân, là cái người trong pháp ác, cho nên khổ.

10. Si.

Là ngu si, không thấy, cho nên thấy người ta uống rượu cái thì mình a tòng vô mình uống rượu, thấy người ta giết gà thì mình cũng a tòng vô giết gà để ăn thịt, hoặc là làm những cái chuyện trộm cướp theo những cái điều người ta không có thấy cái tội lỗi.

Cho nên do những cái si mê đó mà nó đưa cho con người ta đến những cái khổ đau liên tục. Cho nên đó gọi là - chúng ta phải biết đó là cái pháp ác.

Người không si tức là người thấy cái điều đúng, điều sai để chúng ta tránh mà không tạo ra chúng ta khổ và người khác khổ, thì người đó là người không si. Vậy không si đó là pháp thiện.

Vậy so sánh mười pháp này xong rồi chúng ta biết pháp nào thiện, pháp nào ác. Vì vậy mà chúng ta hãy:

Do cái bảng so sánh này để cho quý thầy thấy rõ mà nhận định điều ác mình cần phải dứt bỏ, điều lành mình cần phải tăng trưởng và nuôi lớn.

Như vậy là chúng ta sẽ nuôi lớn mười cái điều thiện mà “không”, “không” này đó: Không làm những cái - mười cái lần không làm cái này nè.

Thì trong khi lần lượt chúng ta phải tu tập, trau dồi như thế nào để chúng ta thực hiện được, tăng trưởng được những cái pháp lành, mười cái pháp lành này, mà đoạn dứt được mười cái pháp ác này, đó là một cái điều quan trọng. Chớ không thể nói rồi chúng ta dứt được liền đâu, rất là khó chớ không phải dễ.

Tuy rằng nói như vậy, so sánh như vậy để chúng ta hiểu, nhưng đến khi mà thực hành tu tập là một điều mà chúng ta phải rèn luyện, dứt bỏ, trau dồi, và có những sự phải quyết tâm chúng ta mới dứt được. Chớ không phải là muốn dứt là cái chúng ta dứt ngay liền được đâu, nó rất là khó chớ không phải dễ.

Vì vậy mà cái giáo án này Thầy phải ghi lại cho nó được đầy đủ những cái pháp hành để chúng ta thực hành để mà dứt các pháp ác, mà tăng trưởng các pháp lành làm cho chúng ta càng ngày càng tiến bước trên con đường giải thoát.

3.2- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM LÀ BÀI HỌC VỠ LÒNG THIỆN PHÁP CHO LOÀI NGƯỜI

(39:25) Như vậy, ở đây những điều lành mới khởi sự bắt đầu để cho người mới tu mà thực hành dứt bỏ mười điều ác, tăng trưởng, nuôi lớn mười điều lành.

Nhưng nói đến điều lành của đạo Phật mà không dạy con người trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả cao quý tuyệt đỉnh lành trong các pháp…​

Nếu mà nói về pháp ác, pháp lành mà không dạy người ta trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ Xả - như Thầy đó, tại sao Thầy không dạy các thầy tu Tứ Chánh Cần trước? Dạy Thập Thiện rồi thì lẽ ra thì phải dạy Tứ Chánh Cần trước chớ, tại sao lại không dạy Tứ Chánh Cần mà lại dạy Tứ Vô Lượng Tâm?

Tại vì muốn mà dứt trừ được các pháp ác thì phải có tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả thì nó mới có dứt trừ được, và dứt trừ được thì phải nuôi lớn những cái tâm nào, trau dồi những cái tâm nào để mới tăng trưởng được các pháp lành? Còn nếu mà không có tăng trưởng được các pháp lành thì làm sao mà pháp lành khởi sự ra được!

Đó là những cái điều mà quan trọng, phải biết sắp xếp cái pháp nào tu trước, cái pháp nào tu sau, mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại trên cái con đường mà xây dựng cái giáo án này.

Bởi vậy, Tứ Vô Lượng Tâm là pháp lành cao nhất của đạo Phật, mà cũng là bài học vỡ lòng tuyệt thiện pháp cho tất cả loài người.

Mình phải hiểu: Muốn mà dứt trừ các pháp ác thì phải học Tứ Vô Lượng Tâm, phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, là cái bài học vỡ lòng đầu tiên mà là cũng là tuyệt đỉnh của thiện pháp cho tất cả con người ở trên thế gian này nếu muốn đi vào con đường của đạo Phật.

Nếu ai chưa học pháp vỡ lòng này thì khó mà dứt bỏ mười điều ác.

Nghĩa là chúng ta nói như vậy mà chúng ta chưa có trau dồi được cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì chắc chắn là mười cái điều ác này chúng ta khó mà dứt bỏ.

Nhờ có trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm ta mới đủ sức thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ đó ta mới dứt trừ được tận gốc của ác pháp.

3.3- TU TẬP ĐÚNG TRÌNH TỰ TỪ THẤP ĐẾN CAO MỚI CÓ KẾT QUẢ

(41:26) Nếu ta xây dựng giáo án tu tập theo đạo Phật mà đặt sai vị trí pháp tu, thì cũng như người viết giáo trình học tập văn hóa, thay vì lớp một đem đặt thành lớp hai, vậy thì học sinh mới vào phải học lớp hai làm sao chúng học được?

Chưa biết A, B, C mà đã đọc chữ thì học như vậy có được hay không? Và tu như vậy có tu được hay không?

Cho nên người viết giáo trình phải là người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong ngành giáo dục.

Cũng vậy, nếu người soạn giáo án của đạo Phật mà không có thực hành, không có kinh nghiệm, thì giáo án ấy không thể áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ được, vì không đem lại kết quả thiết thực, cụ thể.

Vì thế, đạo Phật bây giờ không có một giáo án tu tập, nên đời sống của tu sĩ ương ương, gàn gàn, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.

Bởi vậy, sắp xếp lại những pháp môn tu hành của đạo Phật từ thấp đến cao, từ dễ đến khó là một công trình phải được xem là khó khăn nhất.

Nếu sai đi chỉ cần một chút cũng làm mất thời gian của người tu rất lớn, và cũng phí bỏ cả cuộc đời tu hành của họ, chẳng có ích gì cho chính bản thân họ mà lại còn cho người khác đau khổ, tốn công tốn của, tiêu phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ mà chẳng ra ma nào cả!

Đó thì, quý thầy thấy trên bước đường tu tập, từ cái ngày mà Thầy biết đạo đến giờ, vì không có cái giáo án thiết thực, cụ thể từ bước thấp đến bước cao, cho nên nhìn chung các thầy, huynh đệ cùng nhau chẳng ai ra ma nào cả!

Đời thì chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, dở chết, dở sống trên chiếc áo tu sĩ. Cười thì cũng cười chẳng được, mà khóc thì khóc cũng chẳng xong, cho nên cuộc đời tu hành lỡ dở.

3.4- ĐIỀU LÀNH MÀ THIẾU TRÍ TUỆ SẼ TRỞ THÀNH ĐIỀU ÁC

(43:30) Ở đây quý thầy phải hiểu: Những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ, và lúc nào cũng phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Nghĩa là nói về pháp thiện thì chúng ta phải hiểu là nó luôn luôn phải hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái; nó phải có thêm là là trí tuệ, mà phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Cho nên khi mà Thầy dạy Tứ Vô Lượng Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì Thầy thấy hầu hết là có một số sai lạc rất lớn. Họ sai lạc rất lớn, cỏ họ không dám nhổ nữa, đi họ không dám đạp nữa! Đó là cái sai lạc rất lớn thứ nhất.

Cái sai lạc thứ hai là họ đem cơm đem thực phẩm họ, họ đem cho kiến cho này kia ăn. Họ sai lạc, nhiều cái sai lạc lắm, họ không có biết được một cái gì. Bởi vì trí tuệ con người sao mà nó mờ mịt, nó ngu đến cái mức độ Thầy không có tưởng được!

Cái môi trường của mình đâu phải là du tăng khất sĩ, thế mà họ làm như là họ du tăng khất sĩ! Họ tưởng tượng ra họ là thành như Phật rồi, cho nên từ đó họ không dám đạp cỏ, họ không dám nhổ cỏ. Mai mốt cái thất của họ nó như là cái đống rác!

Bởi vậy cho nên, khi chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ thì chúng ta từ từ tập, tâm chúng ta đâu phải một ngày nó Từ liền, hay nó Bi liền được? Mà nó cả một quá trình tu tập, cả một thời gian dài.

Chừng nào chúng ta biết chúng ta buông xả được không? Bây giờ trong thất chúng ta còn bao nhiêu đồ, chúng ta có dám quăng ném ra không? Thế mà chúng ta muốn làm ông Phật liền à? Đó là chúng ta muốn làm ông Phật ngay liền, thiệt là cái tâm tưởng tượng!

Đó thì, chúng ta phải hiểu được cái hiện tại chúng ta đang sống ở trong cái chiếc áo này phải làm cái gì, tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả như thế nào cho nó phù hợp, cho nó đúng.

Chớ bây giờ chúng ta ngay liền muốn không có đạp cỏ, không có giết cỏ, không có làm gì hết, mà còn lấy cơm thiên hạ cho kiến đồ ăn nữa thì thử nghĩ - quý thầy nghĩ, quý thầy như thế nào không?

Ông Phật nói ổng ăn dư ổng đem ổng bỏ ở đất trống. Sự thật ra, chắc chắn là ông Phật ổng nghĩ của đàn na thí chủ, mà mồ hôi nước mắt, chưa chắc đã ổng xin thừa để mà ổng đem bỏ đâu. Còn một chút ổng cũng ráng ăn hết chớ ổng chưa chắc bỏ đâu!

Còn chúng ta nghe nói vậy, ăn thấy nghe hơi no no bụng rồi mà cái đó bộ không ngon, thôi đem bỏ đi! Phí của đàn na thí chủ đó, chớ không phải là quý vị tưởng cái đó là quý vị bố thí cho chúng sanh đâu!

Bởi vì chúng sanh nó có cái nghiệp riêng của nó mà, nó phải chịu khổ, chịu sở là do cái nghiệp nó, chớ đâu phải là cần chúng ta bố thí? Cho nên khi mà chúng ta bố thí là làm cho chúng sanh mang thêm nghiệp nữa!

(46:05) Cho nên ông Ca Diếp nói mà : “Nếu mà bà cúng dường cho tôi thì bà được sanh vào cái sự đầy đủ hơn, mà tôi bố thí cho bà thì bà càng khổ sở hơn!” Cho nên chúng ta nhận của bố thí là chúng ta lại nghèo khổ hơn.

Mà người đời thì tưởng là bố thí được cái an lạc có một chút thôi, mà tiếp tục đó là cái sự nghèo khổ, tiếp tục khổ hơn nữa, vì mình thọ của người ta.

Cho nên do vì vậy mà không thấy được. Mình đem mình cho con kiến ăn, con kiến nó lại khổ hơn nữa, nó lại sanh những con vật khác nhỏ hơn nữa, đói khổ hơn nữa. Chớ đâu phải mình làm như vậy là nó no đâu! Nó no có một chút đó mà nó nợ của người ta biết bao nhiêu!

Quý thầy tưởng làm cái điều đó là quý thầy từ bi, nhưng mà không ngờ quý thầy đã giết nó thêm một cái kiếp khác nữa!

Đó, hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng tu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào đúng, như thế nào sai. Tưởng là giảng như vậy quý thầy đã hiểu được cái vai trò, cái hiện tại của cái thân phận của mình là như thế nào. Mình có phải thành Phật được chưa?

Bởi vậy, lời nói là một lẽ, mà hiểu đạo là một lý, không thể nào mà hiểu sai như vậy được! Nếu không có Thầy nhắc đi, nhắc lại thì chắc chắn là quý thầy đã lầm lạc trong cái sự hiểu biết này.

Thầy xin nhắc lại:

Ở đây quý thầy phải hiểu, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người, trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ.

Quý thầy nhớ: “đầy đủ trí tuệ”, từ bi, bác ái phải đầy đủ trí tuệ!

Và lúc nào cũng phải đúng với chân lý của đạo Phật.

Nó phải áp dụng đúng với chân lý của Đạo Phật, tức là đúng cái thời gian và không gian, cái thời điểm của nó phải ứng dụng cái gì, cái gì.

Chứ quý vị ứng dụng cái cách đó là quý vị ứng dụng sai, không có đúng cách, cho nên làm sao mà đạt được cái đạo giải thoát này?

Nó khéo léo, nó thiện xảo mà áp dụng pháp nó, và cái đời sống của mình đúng cái lúc đó, đúng cái thời điểm đó thì nó mới có kết quả nó.

Nếu không đúng chân lý của Đạo Phật thì được xem đó là điều ác.

Đó! Thí dụ như quý thầy đem cơm, đem này kia bỏ cho kiến, không dám đạp trên cây cỏ, không dám quét, đi lúm túm, lúm túm làm như là cái người cúm vậy, thì như vậy là quý thầy đã là cái sai của quý thầy rồi. Cái tu đó là cái tu sai rồi, chớ đâu phải là cái tu đúng! Cho nên đó là thiếu trí tuệ. Nó không đúng được cái chân lý của Đạo Phật rồi, cái đó là cái sai.

Thì được xem đó là những hành động đó là những hành động ác, làm cho người ta thêm khổ nữa, làm cho người ta chuyển kiếp qua những cái nợ nần người ta nữa.

Vì đạo Phật gọi là đạo từ bi, thiếu từ bi là ác pháp.

Mà từ bi đúng cách nó mới đúng, mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Đó quý thầy hiểu cái chỗ đó. Nếu mà quý thầy thực hiện từ bi mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy cứ đem cơm, đem gạo cho người khác, tức là quý thầy sẽ làm cho người ta đói khổ thêm chứ chưa hẳn đã hết. Bởi vì đó là cái nợ mà.

3.5- TẬP HUẤN CHO Ý THỨC BIẾT RÕ ĐIỀU LÀNH ĐIỀU DỮ

(49:06) Như chúng ta đã được biết: Có ba nơi hành động xuất phát thiện hay ác.

Tức là xuất phát pháp thiện. Như hồi nãy Thầy đã nói: Có ba nơi hành động trong thân của chúng ta mà nó xuất phát pháp thiện hay pháp ác ở đó, để chúng ta biết nó mà chúng ta trau dồi ngay những cái hành động đó chớ.

Còn nếu mà không biết thì chúng ta làm sao mà trau dồi nó được, hay tu tập ở trong cái hành động đó! Nó không phải thường.

Cho nên ở đây Thầy đã nói: Nó có ba nơi hành động, vậy thì ba nơi đó ở đâu? Ba nơi đó ở chỗ nào?

1. Ý hành;

Ý hành là cái ý mình suy nghĩ ở trong đầu của mình đó. Đó là cái ý hành.

2. Khẩu hành;

Hai là cái miệng mình hay nói đó, hay nói lép chép đó. Đó là cái khẩu hành đó.

3. Thân hành.

Thân hành của mình là đi đứng nắm, bắt, nằm, ngồi, đó. Đó là cái thân hành của mình đó.

Thì đó là có ba cái chỗ mà nó lưu xuất thiện pháp, ác pháp ở chỗ đó. Đó, như vậy thì chúng ta phải biết được ba cái chỗ mà nó xuất phát đó.

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Ý hành là nơi trung tâm xuất phát điều lành, điều dữ.

Cái trung tâm - cái đó là cái trung tâm nó xuất phát, nó sai khiến cái miệng, nó sai khiến cái thân của chúng ta làm, nhưng mà cái ý hành đó là cái trung tâm xuất phát, nó điều khiển, nó chỉ huy đó.

Nói cho đúng, ý hành là bộ chỉ huy các pháp ác cũng như các pháp thiện.

Nghĩa là cái ý hành của chúng ta nó là bộ chỉ huy.

Khi còn vô minh thì nó chỉ huy làm các điều ác.

Đó, khi mà mình vô minh, mình mê mờ thì nó chỉ huy, nó chỉ huy thì mình cứ cho đó là tốt, là đẹp, là hỷ, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, là thích, là thú, cho nên làm những cái điều ác mà không thấy, cho nên đó là cái vô minh.

Cho nên khi vô minh thì cái ý hành nó chỉ huy các thầy làm các điều ác mà các thầy không hay biết gì hết.

Khi nó đã minh…​

Tức là nó đã hiểu rõ rồi.

…​ thì nó chỉ huy làm các điều lành.

Cũng như bây giờ chúng ta hiểu Tứ Vô Lượng Tâm nè, chúng ta hiểu mười điều ác, mười điều lành nè, đó là chúng ta minh rồi đó.

Đó! Phải hiểu chữ “minh” và chữ “vô minh”. Minh là mình đã hiểu rõ cái nào ác, cái nào lành, cái nào đúng, cái nào sai, mình đã hiểu rõ nó gọi là minh.

Bây giờ đó cái ý hành của chúng ta bắt đầu nó điều khiển để làm các điều lành, mà vì mình đã minh rồi, cho nên mình làm các điều lành là đúng lành, nó không sai. Còn khi mà mình chưa có minh thì mình làm các điều ác mà mình cứ tưởng đó là lành.

Cũng như mình đi ăn trộm ăn cắp, mình có tiền có của về nuôi vợ nuôi con thì mình tưởng là lành, vợ con mình được êm ấm, không ngờ là người ta mất của người ta khổ. Thì đó là mình cứ ngỡ tưởng là mình lành, không ngờ là điều đó điều ác. Đó thì đó là gọi là vô minh.

Còn cái minh là mình không làm khổ mình, khổ người. Đó là pháp thiện.

Vì thế chúng ta bắt buộc bộ chỉ huy phải tập huấn mười điều dữ, mười điều lành.

Nghĩa là bắt buộc nó phải học tập đó. Tức là bắt cái ý thức của chúng ta phải học tập cho nó biết cái nào là lành, cái nào là dữ. Đó thì vậy đó, phải bắt buộc nó, phải tập huấn nó, cho nó học tập cho nó biết rõ.

Còn nếu mà không có bắt buộc cái ý hành của chúng ta mà nó học tập, thì nó chỉ huy tầm bậy, nó chỉ huy sai, nó đưa đến chúng ta nhiều điều đau khổ.

Và còn phải huấn luyện quân đội, trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm để áp dụng chiến đấu với mặt trận Lành và Dữ.

Đó, mình bây giờ mình phải trau dồi được cái tâm của mình nữa, mình ý thức của mình là đã minh rồi đó, đã hiểu rồi, nhưng mà phải huấn luyện bốn cái Tâm Vô Lượng của chúng ta.

Chớ nếu mà không huấn luyện, trau dồi bốn cái Tâm Vô Lượng này thì chúng ta lấy đâu mà chiến đấu với mặt trận Lành - Dữ này được?

Đó thì, chúng ta thấy cả một mặt trận mà để mà chúng ta mở màn cho một cuộc chiến trận đánh cái mặt trận Lành - Dữ ở trong cái cuộc đời của chúng ta, để chúng ta trở thành những con người chiến thắng.

3.6- TU TẬP TRAU DỒI BẰNG PHÁP TÙY VÀ PHÁP HƯỚNG

(53:04) Bây giờ chúng ta cũng cần phải biết nội dung của Tứ Chánh Cần.

Nghĩa là, hồi nãy tới giờ đó mình đã học biết nó như vậy rồi, nhưng mà mình cũng còn phải xem xét cái nội dung của Tứ Chánh Cần như thế nào?

Để giải rõ ra, nãy thì đại khái cho chúng ta biết là có bốn cái phần, nhưng mà chưa có giải rõ ra. Còn bây giờ thì chúng ta phải giải rõ ra cái nội dung của cái Tứ Chánh Cần cho nó rõ ra. Hồi nãy thì khái lược bốn cái nội dung đó.

1. Siêng năng, cần mẫn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh.

Đó là đại khái đó như vậy. Bây giờ mình giải thích ra cho nó rõ ra cái đại khái đó như thế nào.

Nơi ý hành lúc khởi ác, lúc không khởi ác…​

Nơi cái ý hành của chúng ta lúc thì nghĩ cái ác, lúc thì không nghĩ cái ác.

…​ ta biết làm sao ngăn cho được? Mà trong kinh dạy ngăn ngừa những điều ác?

Hầu hết các kinh sách giảng đến đây không thấy pháp hành, chỉ nói ngăn ngừa, ráng giữ gìn. Ngăn ngừa và ráng giữ gìn thì tâm không hình sắc lại không có dây dàm làm sao mà nắm, giữ nó được?

Cho nên lời nói ngăn ngừa và ráng giữ gìn là lời nói suông.

Muốn ngăn ngừa và giữ gìn không có ý hành ác pháp thì phải áp dụng tu tập trau dồi tâm bằng hai pháp:

Nghĩa là khi mà chúng ta muốn trau dồi về cái phần ngăn ngừa và giữ gìn này đó thì chúng ta phải - bởi vì ngăn ngừa và giữ gìn thì chúng ta phải trau dồi bằng hai cái pháp:

Một là Tùy Pháp, hai là Hướng Pháp.

Đó mình phải vạch ra cho nó rõ để mình biết cái cách pháp hành như thế nào thì mình mới hành. Chớ bây giờ nói Hướng Pháp không thì quý thầy cũng không biết, mà nói Tùy Pháp không thì quý thầy cũng không biết, mà Tùy Pháp không thì không đủ, mà Hướng Pháp không thì cũng không đủ.

Cho nên ở đây chúng ta phải câu hữu lại hai cái pháp này để mà chúng ta tu tập, để trau dồi, để mà đoạn dứt cái pháp ác mà tăng trưởng cái pháp lành.

Đó thì, Tùy Pháp là như thế nào, mà Hướng Pháp như thế nào?

Tùy Pháp là pháp tu tập như thế nào, mà Hướng Pháp tu tập như thế nào?

Để nói rõ ra để cho chúng ta biết được cái pháp tùy, pháp hướng thế nào.

Tùy Pháp là phải nương theo cái pháp mà Đức Phật đã chỉ dạy…​

Đó, thì bây giờ có cái pháp sẵn mình mới tùy theo, còn bây giờ chưa pháp thì làm sao tùy? Đó, các thầy phải hiểu chỗ đó.

Thì như vậy là chúng ta đã được Phật dạy những cái pháp nào thì chúng ta phải tùy theo cái pháp đó, tức là theo cái pháp đó, mà nương theo cái pháp đó mà chúng ta tu tập hằng ngày trau dồi mình theo cái pháp đó, thì đó là có cái pháp để chúng ta trau.

…​ để hằng ngày theo cái lý đó mà trau dồi các hành thân, khẩu, ý của mình để ngăn chặn các pháp ác không cho sanh.

(56:11) Ví dụ Phật dạy pháp Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy vừa dạy. Đã học và đã trau dồi tâm mình để cho tâm của quý vị phát sanh lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, khi tâm này đã phát sanh thì tâm của quý vị không còn khởi ác pháp.

Nghĩa là, khi mà quý vị đã tu tập bốn cái Tứ Vô Lượng Tâm này thì các ác pháp không còn khởi sanh ở trong đó nữa.

Cái hành động hằng ngày mà quý vị trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả là cái hành động ngăn ngừa, giữ gìn các pháp ác…​

Đó, cái hành động mà mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó, cái tâm buông xả của mình đó, tâm vui theo đó, thì cái đó là cái hành động ngăn ác.

Bởi vì mình có thương yêu thì mình mới không có làm cho người ta đau khổ, cho nên đó là cái hành động ngăn ác, mình biết đó là ngăn ngừa.

Vì vậy cho nên ở đây nói ngăn ngừa mà nói danh từ suông thì chúng ta biết cái gì ngăn ngừa? Nếu mà chúng ta không trau dồi cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả thì làm sao chúng ta ngăn ngừa được!

Quý thầy thấy rõ không? Bởi vậy cho nên thấy rõ như vậy chúng ta mới biết đó là cái pháp ngăn ngừa.

…​ tức là quý vị dứt bỏ các pháp ác, hay nói một cách khác là đoạn dứt các pháp ác nơi tâm của quý vị.

Nghĩa là cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình có rồi thì tức là mình đoạn dứt các pháp ác. Đó là đoạn dứt nó đó.

Bởi vậy, Phật dạy các pháp ác cần phải dứt bỏ, đoạn trừ.

Ở đây lộ trình của người cư sĩ, của người tu sĩ cần phải trau dồi tâm mình trong pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm thì đó là pháp dứt ác, tăng trưởng pháp lành, chớ không phải Tứ Chánh Cần.

Nghĩa là bắt đầu chúng ta trau dồi cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm của mình đó, đó là mình đã ngăn ngừa cái tâm ác của mình đó, tức là không có cho nó phát sanh ra, thì đó là Tứ Vô Lượng Tâm.

Còn Tứ Chánh Cần là chúng ta dùng nó để mà đoạn dứt. Nhưng trong Tứ Chánh Cần nó còn có cái pháp ngăn ngừa chứ không là phải chỉ riêng có Tứ Vô Lượng Tâm mới ngăn ngừa mà thôi.

3.7- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM VÀ TỨ CHÁNH CẦN LÀ HAI CÁNH TAY TRÁI PHẢI

(58:34) Đến đây Thầy sẽ giảng thêm để cho quý thầy thấy rõ cái điều mà quý thầy cần phải rõ: Tứ Chánh Cần và Tứ Vô Lượng Tâm.

Chớ nếu mà không giảng chỗ này thì quý thầy tưởng Tứ Vô Lượng Tâm nó tu cái góc độ của Tứ Vô Lượng Tâm, nó không ăn nhập gì với Tứ Chánh Cần không. Không phải đâu!

Nó - Tứ Vô Lượng Tâm là cái pháp để ngăn ngừa các pháp ác, chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng. Và Tứ Chánh Cần nó có những cái pháp ngăn ngừa riêng của nó nữa. Chớ không phải Tứ Chánh Cần nó không có pháp ngăn ngừa đâu, nó có cái pháp ngăn ngừa. Và nó có cái pháp đoạn dứt của nó nữa.

Đó, thì ở đây chúng ta thấy: Đức Phật nhắm xây dựng cho chúng ta đi trên con đường thiện, cho nên hoàn toàn chúng ta dứt ác để tâm chúng ta “tịnh, rồi do đó mà chúng ta “chỉ” mà chúng ta làm chủ được sanh tử luân hồi. Chớ không phải là chúng ta ức chế tâm.

Chúng ta phải hiểu được cái đường lối của đạo Phật. Ngồi đó mà chổng khu ức chế tâm đó là cái tu điên, tu sai, tu không đúng. Với ngồi nhiều mà không chịu đi kinh hành đó là tu điên, tu khùng.

Đến đây quý thầy thấy rõ Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần là như hai anh em song thai, là hai cánh tay: tay mặt và tay trái, nếu thiếu một tay thì không làm nên việc được.

Có pháp Tứ Vô Lượng Tâm mà không có Tứ Chánh Cần thì đương nhiên ta tu hành còn thiếu khuyết lớn.

Đó cho nên Thầy xếp hai cái pháp môn này nó đứng gần ở bên nhau để chúng ta thực hiện được cái pháp thiện. Còn nếu mà chúng ta xếp nó vào các pháp khác thì nó không thể đúng được.

Tứ Chánh Cần là bốn pháp bắt buộc chúng ta tu hành phải siêng năng cần mẫn; luôn luôn tu tập không được bỏ qua, cho nên gọi nó là Chánh Cần, tức là siêng năng trong Chánh Pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác.

Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta - khi mà tu tới Chánh Cần nó còn siêng năng hơn là Tứ Vô Lượng Tâm nữa.

Nghĩa là nói Cần - tức là Chánh Tinh Tấn đó. Bởi vậy khi mà Phật nói Tấn Lực, thì tức là nói Tứ Chánh Cần đó là Tấn Lực. Cho nên nói về cái pháp mà siêng năng nhất ở trong các pháp của Phật thì phải nói Tứ Chánh Cần là cái pháp siêng năng nhất.

Mà siêng năng nó mới diệt được cái ác, nó mới dứt trừ được cái ác, nó mới tăng trưởng được cái thiện. Còn nếu không siêng năng thì nó không dứt trừ được ác, mà nó không tăng trưởng được thiện, và vì vậy cuộc đời chúng ta tu cũng chỉ hoài công thôi.

Cho nên cái pháp này gọi là pháp Chánh Tinh Tấn, ở trong cái nẻo Bát Chánh Đạo thì cái Chánh Tinh Tấn thì nó nằm ở trong cái Tứ Chánh Cần này.

Nếu mà người siêng năng mà hằng ngày trui luyện mình để dứt ác mà tăng trưởng thiện, thì cái người này gọi là Chánh Tinh Tấn.

Chớ không phải là Chánh Tinh Tấn mà ngồi nhiều, hay hoặc là ngồi thiền nhiều, nhiếp tâm nhiều là Chánh Tinh Tấn đâu, hay hoặc là ngồi nhập định nhiều là Chánh Tinh Tấn đâu.

Chánh Tinh Tấn là dứt ác mà tăng trưởng thiện, đó là Chánh Tinh Tấn.

Cho nên ở đây Thầy giảng từ cái pháp này nó có chuyền leo qua những cái pháp khác để chúng ta hiểu được Phật Pháp cái đúng cái sai của nó, chớ không khéo thì chúng ta chưa có biết ở chỗ nào.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ Vô Lượng Tâm.

Đó, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rằng Tứ Chánh Cần thì nó cũng phải có pháp tu riêng của nó, chớ không phải là nó chỉ có ở trong cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm đâu, nó có cái sự riêng của nó.

Đến đây bây giờ nó cũng gần hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy