00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(14:58)

(14:58) Ba năm gần đây, thì những người Phật tử miền Bắc họ có duyên trong những năm hạ đó, họ đi về đây. Họ cũng ngồi đông như các con. Thậm chí những cư sĩ, các bà già ở ngoài miền Bắc, họ về đây họ tập trung.

Họ về đây được là nhờ gì? Nhờ ở đây có một thầy ở miền Bắc, tức là thầy Chơn Trí. Lúc bấy giờ ông ta về đây thì ông có tiền nhiều, cho nên khi được nghe Thầy thuyết giảng những cuộn băng của Thầy, thì ông ta gửi về miền Bắc, ông bỏ số tiền ra, ông sang cái băng đó. Ông sang, ông cho mọi người ở miền Bắc. Cho nên người miền Bắc họ được biết Thầy trước hơn là miền Nam. Từ đó, khi mà Thầy mở khóa để mà Thầy giảng “Giáo án tu tập đường lối của đạo Phật”, thì họ tập trung về đây, để họ nghe trong những tháng hạ. Cho nên từ đó, họ được nghe những lời Thầy dạy. Vì Thầy thấy rằng người ta theo giáo Pháp của Phật mà tu Giới, là sống không lầm.

Các cư sĩ cứ nghĩ rằng: một số người rất đông về đây tu tập. Thậm chí như ở đây mở Hạ nữa mà, thì các cư sĩ nghĩ số người như vậy. Thế mà cho ăn ba bữa thì thôi, tập trung tu rất đông. Vì ở đây đâu có lao động, đâu có làm gì đâu. Người đông như vậy, sáng quét ba, bốn chổi là thấy sạch sẽ hết rồi. Không có trồng tỉa, không có gì hết. Thật sự thì đông người bao nhiêu, thậm chí như mà Thầy muốn cho họ không ăn bữa chiều thì Thầy xin sữa cho họ uống buổi chiều, thì chú Tâm chú kéo về đây cả mấy chục thùng sữa. Thậm chí như Thầy còn phải đem bố thí cho Cô Nhi, cho những nơi mà người ta nuôi trẻ con. Thì quý Phật tử biết rằng, về tinh thần giúp đỡ cho người tu, người cư sĩ người ta có tinh thần rất lớn.

Thế rồi, có nhiều vị ăn sữa không hết. Họ nói rằng sữa đặc đó (hộp như thế này này) họ chỉ ăn có nửa hộp, còn nửa hộp họ quăng. Họ nói ở dưới là bột mì, họ bỏ, họ không ăn. Đó thì đủ biết rằng tu sĩ thời nay, Thầy nói chứ chỉ ăn, ăn thừa là quăng bỏ, chứ không tiếc mồ hôi nước mắt người ta làm ra được một hộp sữa đâu có dễ. Các con hiểu không? Cho nên vì vậy mà Thầy thấy rằng họ không phải những người tu hành theo đạo Phật. Tu ăn, tu ngủ, chứ không phải Thiền Định gì hết. Giờ giấc thì làm bộ ngồi cho có tướng để mà ăn, ngủ thôi chứ không có gì hết.

(17:24) Thầy thật sự Thầy khép vô. Bắt đầu, Thầy cho ăn buổi sáng; buổi chiều Thầy không cho uống sữa, Thầy cho uống nước chanh. Sau đó Thầy dứt nước chanh, Thầy cho buổi sáng không cho ăn, cho uống sữa. Và tới chừng khi khép vô ăn một ngày một bữa là không cho ăn uống gì nữa hết, thì họ bỏ đi mất sạch. Đủ biết là cái thời đại người ta tu ăn, chứ không phải thật sự người ta đi tìm sự giải thoát.

Cuối cùng, Thầy khép vô. Thầy tăng giờ lên. Nghĩa là, ngủ phải từ giờ nào, thức phải giờ nào. Thí dụ như Thầy tăng lên mười giờ đi ngủ, tới hai giờ phải thức dậy tu. Thì trong lúc đó họ bị hôn trầm đánh họ, họ không chịu nổi được nữa, họ bỏ. Ở đây chỉ còn có năm, mười người.

Thầy khép vô độc cư: không được đọc kinh sách, không được nghe băng, không được nói chuyện, thất của ai người nấy ở, không được đi qua đi lại, chỗ nào nấy ở, chết chỗ đó. Họ đi sạch, còn có một người, mà sống không nổi độc cư đâu.

Thì các con biết rằng đời nay thì người ta sống vui, mà người ta đòi đi theo đạo Phật thì thôi, thực ra đạo Phật không thể dung chứa cho những hạng người đó. Người ta đòi ăn, thì không thể nào chấp nhận cho những người theo đạo Phật mà ham ăn như vậy. Bởi vì, thầy nhắc lại cho các con nghe: Đạo Đức của đạo Phật thì trong Giới luật đã dạy cho chúng ta rất rõ. Đức Phật ví chúng ta là loài động vật. Con người là loài động vật, chúng ta còn mang bản chất của loài động vật, chứ chưa phải con người của chúng ta là thoát khỏi loài động vật. Cho nên những cái mà thiếu đạo đức, nó là còn ở trong loài động vật.

Thí dụ như một ngày mà chúng ta ăn vặt, ăn không giờ giấc, đó là con thú vật, chứ không phải là con người. Con người thì phải ăn có giờ, có giấc, có bữa. Thí dụ ba bữa là ba bữa, còn lát ăn cái bánh, lát ăn cái trái, lát uống chai nước ngọt, đó là con thú vật. Nó gặp hồi nào, nó ăn hồi nấy. Nó không đúng.

(19:20) Nhưng bây giờ một người có đạo đức: ăn ba bữa, hai bữa đâu ra đó đàng hoàng, không ăn vặt, thì người đó phải là người có đạo đức.

Kế đó, một vị Thánh Tăng, một bậc Thánh mà còn ăn ba bữa, còn ăn đêm, thì thử hỏi đó là Thánh sao?

Cho nên đức Phật nói: “Thừa tự Pháp, chứ không thừa tự thực phẩm”.

Vì vậy một bậc Thánh ăn ngày một bữa mà người ta không thèm khát. Còn mình ăn ngày ba bữa mà đụng cái gì cũng thèm. Như vậy có phải ăn mà hết thèm không? Đâu hết! Càng ăn lại càng tham ăn. Còn người ta ăn một bữa mà người ta không thèm, mà người ta có chết không?

Quý vị thấy không, nội Giới luật của Phật, cái Giới luật cấm ăn phi thời, ăn đúng Ngọ, ăn đúng giờ, không được ăn phi thời, là hành động của sự sống một bậc Thánh chứ không phải là của phàm phu được. Như vậy, chúng ta nhìn vào giới đức là chúng ta biết vị đó Thánh tăng hay là Phàm tăng.

Một vị gọi là Hòa thượng, Thượng tọa mà bây giờ ăn phi thời: sáng ăn, trưa ăn, chiều ăn. Thử hỏi đó là Thánh hay là Phàm? Thì cũng như quý cư sĩ thôi, có gì đâu mà lại Thánh, Phàm? Thế mà quý vị đảnh lễ, thì đảnh lễ ai đây? Cái ăn của người ta cũng như mình. Người ta đâu phải Thánh mà mình đảnh lễ?

Hôm nay Thầy nói, đây là quý vị chưa đọc bộ “Kinh Giới Đức Làm Thánh”. Quý vị sẽ thấy được đức hạnh của một bậc Thánh. Họ sẽ làm hành động nào mà gọi là Thánh, mà hành động nào là con người, mà hành động nào là con thú. Trong Giới luật của Phật đã dạy rõ để chúng ta biết được điều đó, để xác định bậc chân tu, bậc giả tu, bậc dối gạt người. Mặc dù bậc đó có thần thông, bậc đó có cấp bằng cao, nhưng vẫn là phàm phu tục tử, vẫn là ác quỷ ma vương, chứ không phải là người chơn chánh tu hành.

Hôm nay Thầy nhắc lại, để cho tất cả các cư sĩ, các con sẽ hiểu sơ sơ, để nhận ra một vị chơn tu, một bậc thầy của mình như thế nào xứng đáng.

Sau này đọc cuốn “Tập VIIIĐường Về Xứ Phật”, Thầy sẽ xác định một bậc thầy của quý vị.

(21:52) Trưởng lão: Một bậc thầy của quý vị là một bậc phải sống đúng Giới luật của Phật, Giới đức của Phật hẳn hòi, đàng hoàng. Tại sao vậy? Tại vì đức Phật di chúc: “Các vị Tỳ kheo hãy lấy Giới luật ta làm thầy”. Vậy thì mình nương vào Giới luật, là nương vào chỗ nào? Nương vào Giới luật tức là nương ông thầy giữ gìn Giới luật nghiêm túc, chứ không phải nương ông thầy phạm Giới, phá Giới. Có phải đúng vậy không?

Đức Phật đã di chúc mà, đừng lấy ai làm thầy, đừng lấy ai làm tổ, mà hãy “lấy Giới luật làm thầy”. Nhưng Giới luật nó là một bộ sách, một đống giấy, thì nó là một vật vô tri. Lật ra đọc, chúng ta hiểu nổi không? Nó có nói lên được cái đức hạnh đó không?

Nhưng một vị Thánh Tăng mà người ta sống đúng đức hạnh, thì đó là một gương hạnh sống, một Giới luật sống, để chúng ta nương vào đó mà chúng ta thực hiện đời sống đạo đức của chúng ta. Có phải là đức Phật muốn di chúc vậy không? Muốn di chúc cho chúng ta, để chọn lấy một bậc Thiện hữu tri thức sống đúng Giới luật của Phật là thầy của mình, chứ không phải đụng ai cũng là thầy của mình!

Nếu đụng một người mà không đức hạnh làm thầy của mình, thì mình sẽ ảnh hưởng cái không đức hạnh đó. Cũng như bây giờ Thầy theo một vị thầy, vị thầy đó có vợ, có con, thì như vậy vị thầy đó đâu có dạy chúng ta đức hạnh gì đâu. Khi chúng ta cũng thấy vậy, chúng ta cũng tu mãi thì chúng ta cũng có vợ con.

Vì vậy mà trong các chùa chúng ta thấy ở nông thôn, nhiều ông thầy có vợ, có con sống y như gia đình. Rồi bây giờ mình cũng cho con mình vào đó học tu theo Phật đi. Mai mốt nó cũng làm ông thầy cạo đầu có vợ, có con đi ra gõ mõ, tụng kinh, làm thầy tụng để kiếm tiền sống; rồi về trồng lúa, trồng khoai cũng như mọi người, nuôi gà, nuôi vịt, đủ thứ. Thử hỏi cái đó có phải là làm tốt Phật giáo không, hay là phỉ báng Phật giáo?

Thế mà cái số tu sĩ này đâu phải là ít. Đó là một cái sai. Làm cho Phật pháp suy đồi. Làm cho người ta nhìn vào Phật pháp người ta ngao ngán. Cho nên vì số tu sĩ này mà những câu ca dao, những lời mỉa mai rất nhiều. Người ta nói: “Xoài cà lăm nhỏ trái mà chua. Thầy tu mê gái, bỏ chùa không ai coi”, có phải không? Là cái số tu sĩ này nó mới làm vậy chứ. Nó cạo đầu như thế này, nó đi ra nó chọc gái, thì người ta không nói sao được? Đó thì Thầy nói những câu ca dao, những câu mà người ta coi thường Phật giáo rất nhiều.

Cho nên ở đây Thầy nói thật sự, khi mà mình tu hành xong, mình đau lòng. Mình nhìn thấy Phật giáo là một con đường chân chánh, là một tôn giáo xuất hiện ra đời để giúp cho con người thoát bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết. Thế mà nó trở thành quá tầm thường.

(25:01) Thật sự ra, chúng ta ngồi đây, chúng ta là những người Phật tử, chúng ta còn có niềm tin. Chứ nếu người mà không biết, không tôn giáo, họ nhìn Phật giáo chẳng ra gì đâu quý vị. Họ coi thường lắm quý vị. Đừng có nghĩ chiếc áo mà chúng ta mặc thế này họ kính chúng ta đâu, họ coi chúng ta như bọt. Thực sự ra họ cho chúng ta chẳng ra gì. Một đứa nhỏ bảy, tám tuổi, mười một, mười hai tuổi, chúng ta đi ngang, nó chế nhạo chúng ta liền tức khắc: thầy chùa này, thầy chùa kia, đủ thứ hết.

Các con đã từng mang chiếc áo này đi, các con đã từng nghe được lời người ta. Thầy nói thật sự, trên con đường ngang qua cái hàng rào chùa này, mọi người đi ngang qua lại, họ nói chuyện với nhau, họ châm biếm với nhau rất nhiều. Tại sao họ châm biếm như vậy? Chúng ta không nên trách họ. Tại vì trong chúng ta, có những người làm sai, làm không đúng. Cho nên chúng ta phải sửa sai. Lời trách mắng, lời châm biếm của họ làm chúng ta phải cảnh tỉnh.

Thế mà cái bọn tu hành kia có cảnh tỉnh đâu. Càng lo cất chùa cao Phật lớn, càng lo làm những chuyện danh lợi, chứ đâu lo tu hành, giữ gìn nghiêm chỉnh Giới Đức của Phật đâu. Ăn uống phi thời, xe cộ chạy nhảy bon chen như một người đời, lừa đảo Phật tử để sống trong mồ hôi, nước mắt, khổ đau của người khác bằng cách này, bằng cách khác.

Thí dụ như bây giờ quý Phật tử về đây, Thầy tổ chức năm tổ, mười tổ. Bây giờ Thầy cần dùng cái gì, ông tổ này phải đi lại đằng kia kêu gọi Phật tử, hay người này người kia góp cho có năm trăm, ba triệu, một triệu hay năm triệu, mười triệu để làm cái này, làm cái này để có phước báo. Thì bà tổ trưởng này, hoặc ông tổ trưởng kia đi lại kêu gọi, dối gạt người ta: “Làm cái chuyện này phước báo lắm về sau, này kia nọ…​ đủ thứ hết”. Gạt người ta phước báo, để rồi lấy tiền người ta được, để xây chùa cho đẹp. Đó là cái lừa đảo, phỉnh gạt người ta làm cái này.

Thí dụ như bây giờ đúc cái chuông cho lớn như này. Bây giờ tổ này, tổ kia, tổ nọ - bây giờ tổ chức có những cái tổ, bây giờ về gọi: “Đây là cái tiếng chuông mà gióng lên một cái, là thông Thiên Đường xuống dưới Địa Ngục. Ai có tội gì thì ghi vào cái chuông này, thì sẽ tiêu tội, tiêu tai hết”. Chà! Bà con nghe hay quá rồi! Đóng tiền nhau để đúc cái chuông cho thật lớn, để gióng cái tiếng chuông đó nó kêu tới Thiên Đường, đặng cho cái lời cầu ước của mình nó theo trên đó, đặng cho chư Phật, Ngọc Hoàng, Thượng Đế ghi thêm cái tuổi thọ của mình sống thêm vài ba trăm năm nữa để cho hưởng hết cái dục lạc thế gian này, có phải vậy không? Cho nên xúm nhau đóng tiền để mà đúc chuông. Thật sự làm cái điều mê tín đó. Làm gì ở đây mà chúng ta làm tội mà gióng tiếng chuông đó để mà bay theo sự cầu nguyện của chúng ta lên đó, mà giải quyết cho chúng ta, đặng chúng ta làm ác nữa sao? Đó là những cái sai mà chúng ta bị lừa đảo.

Đúc chuông để làm gì? Thật sự ra, trong thời đức Phật, chúng ta chẳng thấy một cái chuông nào để lại hết. Trong thời đức Phật, chúng ta cũng chẳng thấy để lại một cái nền gạch, đá cho tốt nữa. Về sau người ta mượn cái danh ông Phật, người ta xây tháp. Người ta nói nào chỗ này là Bồ Đề đạo tràng, nào chỗ này là nơi đức Phật tắm, nào chỗ này đức Phật đản sanh. Để làm gì? Để cho bà con đi du ngoạn, đi xem, ham thích để xem đó, để kiếm lấy tiền, chứ để làm gì. Đó là chúng ta bị lừa đảo mọi cái. Người ta đem Phật ra người ta bán. Người ta đem di tích của Phật ra, người ta bán. Mà trong khi ấy di tích hồi đức Phật sống, thì tịch rồi người ta đến đó, người ta thấy một cái hình tan rã. Không còn một cái nền chứ đừng nói. Không còn cục gạch ở trên cái nền đó nữa. Thì đủ biết đạo Phật như thế nào.

(28:39) Còn bây giờ chúng ta xây nền, xây này kia. Thầy nói đây cái nhà của Thầy, cái chùa của Thầy, Thầy cất bằng tầm vông. Thầy chết rồi nó tan hoại. Nhưng cái nền này còn là Thầy phải còn nợ. Một viên gạch bông này nó không mất, là Thầy còn phải nợ của đàn na thí chủ. Nhưng mà làm sao, khi mà các con về đây đông quá không có chỗ nào ngồi. Bàn ghế làm sao đâu mà ngồi được? Cho nên phải làm như thế này để mấy con có chỗ ngồi. Cho nên, Thầy chịu cái tội lỗi này, mặc dù Thầy biết rõ ngàn năm sau viên gạch này chưa tan. Đó là cái nợ của Thầy mà.

Đừng nghĩ rằng chúng ta cất một cái chùa kiên cố là làm cho tên tuổi chúng ta vang lừng mãi mãi: Nhờ Hòa thượng đó, tên đó, mới trùng tu được cái chùa đó, không phải đâu. Cái chùa đó là cái cục nợ của ông ta đó. Nghĩa là muôn đời, muôn kiếp ông ta trả không hết. Chừng nào cái chùa đó hoại diệt toàn bộ, thành như đất, thì ông ta mới hết cái nghiệp.

Người ta thấy được nhân quả, người ta quá sợ. Người ta quá sợ! Người ta làm những điều lợi ích cho chúng sanh, mà người ta còn mang nợ thật sự. Như Thầy làm một cái bia đá, là vì những lời của Phật dạy người ta đã dìm mất rồi. Bây giờ mình móc lên, mình phải ghi vào trong đó, để cho một ngàn năm sau nó không bị xóa đi.

Nhưng việc làm đó đâu phải là không mồ hôi, nước mắt. Thầy có trồng khoai, trồng củ Thầy bán đâu. Cũng là tất cả mồ hôi, nước mắt của quý Phật tử làm ra. Quý Phật tử đi ăn cướp người ta được sao? Cũng phải là bán buôn, cũng phải lương thiện, làm ăn cái gì cũng phải lương thiện. Thì, làm được một cái bia đá như vậy bao nhiêu tiền? Do ai mà làm được? Thì Thầy đã chủ trương điều này thì Thầy phải nhận lãnh cái tội đó chứ. Cho nên vì vậy mà dù sao đi nữa, Thầy cũng ước nguyện: “Kiếp này chưa xong nhiệm vụ của mình, thì tiếp tục để làm xong những con đường chấn hưng lại Phật giáo, đem lại sự lợi ích cho chúng sanh”. Do đó Thầy mới làm.

Chứ nếu mà không, Thầy chẳng làm một cái gì hết. Thầy chết đi, hoàn toàn cái thất của Thầy bằng tầm vông, cốt tre, Thầy chết ba hôm, năm hôm, một năm sau là bao nhiêu cái nhà này, nó sẽ bị bao nhiêu mối mọt ăn mục ruỗng hết thành ra một đống đất, Thầy không còn một cái nghiệp gì của chúng sanh nữa hết, thì Thầy an ổn trong Niết Bàn vĩnh cửu. Còn bây giờ Thầy lưu lại cái này, cái nọ kia, không chắc Thầy an ổn trong Niết Bàn. Mà cái nợ đó muôn đời, muôn kiếp phải trả.

Các con biết: “Vay một, trả mười”. Đời nay Thầy ăn các con một bát cơm, đời sau Thầy phải trả các con mười bát cơm. Cho nên của đàn na nặng lắm chứ không phải nhàn. Thế mà người ta đã ăn, mà còn phung phí bỏ. Chưa thấy cái đó là cái đau khổ, cái nước mắt của người khác. Người ta tìm ra một đồng đâu phải chuyện dễ, tại sao chúng ta không thấy được điều đó? Nhiều khi người ta cúng dường mình: năm nay người ta cúng dường, năm sau người ta đi ở tù.

Thầy nói thật sự mà. Có nhiều Phật tử đã đi ở tù, vì làm ăn của người ta thất bại, vì làm ăn người ta mang nợ, Nhà nước bắt người ta bỏ tù. Người ta muốn làm thiện, chứ không phải ai muốn làm ác. Con người chúng ta làm ăn, muốn làm điều tốt, không ai muốn làm điều xấu. Nhưng môi trường đẩy người ta đến chỗ người ta phải trở thành giả dối, gian xảo, chứ không ai mà làm cái chuyện gian xảo. Vì cuộc sống mà chúng ta phải vươn lên, vươn lên. Mà không có lối thiện được, thì phải đi vào lối ác chứ, để mà sống. Chúng ta không cảm được nỗi khổ đau đó, mà chúng ta nỡ tâm nào để mà ngồi đây, để mà lợi dụng người khác, lợi dụng tôn giáo để mà ở trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của người khác? Chúng ta phải làm cho đúng.

Cho nên bổn phận của Thầy soạn thảo những bài “Giới Đức Làm Người”, “Giới Đức Làm Thánh” để chấn chỉnh lại Phật giáo. Và đồng thời, soạn thảo “Đạo Đức Nhân Quả” không làm khổ mình, khổ người để giúp cho con người chúng ta mọi người đều hiểu và thực hiện đời sống của chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Như vậy, chúng ta cũng đủ giải thoát lắm rồi.

(32:48) Từ giải thoát không làm khổ mình, khổ người, tâm hồn chúng ta yên ổn, thanh thản, an lạc, thanh tịnh. Từ đó chúng ta mới đi vào Thiền Định. Lúc bấy giờ, hỏi về Thiền Định, Thầy sẽ dạy. Còn bây giờ quý vị hỏi về Thiền Định, hỏi để mà chơi, chứ quý vị làm gì được?

Đối với Thiền Định, quý vị biết, Thiền Định không phải như các vị ngồi thiền hít thở mà có Thiền Định được. Một ngàn năm sau, quý vị có ngồi mười giờ, hai mươi giờ không vọng tưởng, quý vị cũng chẳng ra gì. Thiền Định của Phật đã xác định rất rõ, là phải tịnh chỉ hơi thở. Nếu thân mà “định” mà còn thở, là thân gì, làm sao gọi là “Thân định”? Định là không động đậy. Định mà còn động đậy, là “định” gì? Cho nên khi mà nói “Thân định”, là thân không thở. Mà thân không thở, không phải là nín thở. Nó phải tịnh chỉ, chứ không phải đình chỉ, hay định chỉ nó, không phải nín thở để mà nhập Định được. Nó khó là ở chỗ chúng ta phải biết tu tập đúng cách thì chúng ta sẽ làm rất dễ dàng, yên ổn, không sai. Và như vậy, chúng ta mới làm chủ được cái sự chết, sự sống của chúng ta.

Cái này để dành riêng cho những người tâm đã thanh tịnh, tâm đã không làm khổ mình, khổ người. Tức là người đó đã sống đúng đạo đức. Còn những người sống chưa đúng đạo đức bây giờ dù muốn, Thầy cũng chẳng dạy. Vì họ chưa sống đúng đạo đức, thì họ còn tham. Họ còn tham mà bây giờ họ tịnh chỉ hơi thở được, thì họ có đủ sức thần thông, họ ra họ lòe bịp, họ lừa đảo bằng cái sức thần thông này, họ làm tiền, hoặc là họ làm bá chủ hoàn cầu nữa là. Cho nên, cái này đạo Phật không thể hướng dẫn cho những người còn tâm tham vọng mà có những hành động siêu việt, thì quả đất này, loài người này sẽ ra sao?

Cho nên đặc biệt, đạo Phật là lấy tâm “ly dục, ly ác pháp” mà làm chủ để tiến tới Thiền Định. Cho nên kẻ nào tu hành mà không ly dục, ly ác pháp mà tu tập Thiền Định, đó là một tham vọng rất lớn: một tham vọng mình muốn hơn người, mình muốn trở thành người siêu việt, mình muốn trở thành người có thần thông phép tắc.

Như các vị sư Lạt Ma, không ly dục ly ác pháp, mà tạo ra cho mình có những thần thông bằng các con đường Mật Tông, bùa chú. Rõ ràng các ngài đã tái sanh luân hồi, đã biết chuyện tái sanh luân hồi của mình, đã làm cho thế giới người ta điêu đứng, người ta không biết cách nào mà các ngài đã biết được như vậy. Đó rõ ràng là lừa bịp người khác.

Cho nên ở đây, đối với Thầy, những vị sử dụng thần thông không thể gạt Thầy được. Nhưng mà đối với các con, họ có thể gạt được các con. Cho nên họ gạt được các con, từ cái ông thầy bói nói tầm bậy, tầm bạ, các con cũng vẫn tin, vẫn bỏ tiền ra để coi bói. Thật là điên đảo, thật là ngu si! Thầy nói lời nói hơi quá nặng đối với các con, nhưng cũng là lời cảnh giác với các con, đừng quá ngu như vậy, để bị người ta lừa đảo.

(36:09) Hôm nay, các con có điều gì, thì hỏi Thầy, Thầy sẽ nói. Ngày mai, ngày mốt Thầy sẽ là du tăng khất sĩ, muốn gặp Thầy rất khó, tùy duyên. Có phước mới gặp, mà không phước là không gặp. Vì đức Phật đã nhắc nhở Thầy rất nhiều, rất đúng: “Có danh có lợi thì hãy ẩn bóng”. Nghĩa là bây giờ Kinh sách Thầy viết ra như vậy tức là có danh. Ngày nay, các con thấy một số người nhỏ, ngày mai nó sẽ chật cả chùa này, mà nếu Thầy cứ ngồi ở một chỗ, thì chắc chắn số lượng người mà đọc Kinh sách Thầy - họ tha thiết giải thoát, họ tha thiết biết đúng Chánh pháp của Phật. Hôm nay đọc được Kinh sách này, thì họ nghĩ rằng: “Đây là con đường có thể đưa họ đến giải thoát” và họ cầu mong sẽ gặp được người thiện tri thức.

Nhưng cầu mong để mà cầu mong, chứ sự thật họ tu được hay không? Hay biến Thầy trở thành một vị, một người đào kép hát, để hát cho họ nghe, để rồi về nhà, bản chất nào họ trở về bản chất nấy? Thầy đâu phải là một người ngu để trở thành một đào kép hát mà hát cho họ nghe. Các con nhớ kỹ, Thầy nói ra lời nói là vàng bạc để giúp cho các vị giải thoát, chứ không phải nói để mà nghe chơi. Cho nên người nào hữu duyên thì mới gặp, mà không hữu duyên thì không gặp.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy