00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

(00:00)

Như vậy tu đâu phải khó đâu. Chỉ mình sống đúng, ăn không phi thời, ngày một bữa. Ngủ không phi thời, giờ ngủ cho ngủ mà giờ không ngủ không được ngủ. Không được ngủ phi thời, để cho tỉnh, đặng chúng ta ngồi tu. Chứ nếu như nó, cái giờ mình tu mà nó lại buồn ngủ thì tu sao được. Cho nên ngủ không phi thời để cho tu. Và sống độc cư không nói chuyện, tức là mình không phóng dật. Còn mình tiếp duyên mình nói chuyện người này, người kia thì tâm của mình bị phóng dật, nó phóng dật. Cho nên vì vậy mà giữ ba hạnh này trọn vẹn, thì ở trong thất, chỉ sáu tháng, bảy tháng sau mình là chứng đạo. Chứng đạo tức là chứng cái trạng thái vô lậu, cái trạng thái tâm bất động, đó là trạng thái của những bậc A La Hán. Người chứng quả A La Hán là người ta chứng trong cái trạng thái vô lậu. Và khi mà chứng vô lậu thì nó đủ những cái lực để mà chúng ta làm chủ sự sống chết của chúng ta, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.

Cho nên người tu chứng đạo thì không có nghĩa là nó thay đổi hoặc là phóng hào quang ánh sáng gì cả, nhưng mà nó làm chủ bốn sự đau khổ. Ngày xưa đức Phật cũng vậy, khi đi tu là khắc khoải trong lòng của mình, là bốn sự khổ của kiếp người, đi ra bốn cửa thành. Quý Phật tử có đọc những lịch sử của đức Phật mà. Thấy nỗi khổ của con người cho nên đức Phật mới bỏ cung vàng điện ngọc, bỏ vợ bỏ con đi tu. Đi tu theo ngoại đạo, ngoại đạo dạy tu, nhập từ Không Vô Biên Xứ rồi Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ. Nhưng cuối cùng thấy lòng mình cũng chưa hết tham, sân, si, cũng không làm chủ được sự sinh, già, bệnh, chết, những sự đau khổ đó. Nhưng mà đến khi mà tu khổ hạnh sáu năm, hoàn toàn cũng không thấy được cái sự giải thoát, không thấy được sự giải thoát. Cho nên cuối cùng thì đức Phật tự tìm ra một cái lối đi, tự tìm ra được lối đi dưới cội bồ đề. Cuối cùng đức Phật tìm ra được cái phương pháp "Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện", tức là Tứ Chánh Cần. Sau khi tu Tứ Chánh Cần thì dùng cái ý thức mình tác ý để mà ngăn diệt. Mỗi lần có một ý niệm, có khởi một cái niệm thương ghét hay hoặc là lo lắng điều gì thì đức Phật đều cũng tác ý dẹp. Gọi là ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình, cuối cùng tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì đức Phật nhìn lại thấy rõ ràng trên thân quán thân. Cho nên sau này đạo Phật có Tứ Niệm Xứ. Trên thân quán thân là pháp của Tứ Niệm Xứ. Tứ Chánh Cần là pháp của Phật, đâu phải là của của ngoại đạo.

(14:01) Ngoại đạo dạy dùng, chúng ta dùng tu tập để ức chế ý thức. Cho nên khi mà đức Phật còn bé, đi với vua cha mà làm cái lễ hạ điền. Vua cha xuống ruộng cày thì đức Phật ngồi dưới cây hồng táo. Rồi cũng nghe ngoại đạo dạy là "Ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền" cho nên đức Phật cũng ngồi. Lúc bé, bây giờ cũng ngồi bắt chước, là ức chế cái ý thức của mình. Ngồi im lặng, coi như ly dục, ly ác pháp, không còn cái niệm đó, mới gọi là ly dục ly ác pháp. Đó là ngoại đạo nó suy ngẫm như vậy. Cho nên đến khi mà đức Phật theo ngoại đạo tu mà không thấy giải thoát, tìm đến cội bồ đề, rồi mới ngồi dưới cội bồ đề, mới suy nghĩ: "Lúc nhỏ mình ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền." Thì đức Phật nói nhập Sơ Thiền như vậy rõ ràng là bây giờ ý thức của mình không vọng tưởng. Không vọng tưởng, thì lúc bấy giờ mình đã rơi vào trong không. Mà không thì Không Vô Biên Xứ, là cái vị Thầy đã dạy mình nhập Không Vô Biên Xứ bằng cách ức chế ý thức của mình để lọt vào trong không. Như vậy là không thể được, không thể ly dục ly ác pháp mà nhập Sơ Thiền này được, như vậy không được.

Cho nên đức Phật mới tư duy suy nghĩ, mới thấy từng niệm của mình. Mình ngồi lại bao giờ cũng có vọng tưởng mà. Từng niệm khởi ra, đức Phật mới tác ý dừng, diệt nó. Cho nên đức Phật mới biết được pháp Như Lý Tác Ý, chứ ngoại đạo đâu có biết. Các con thấy không? Cho nên vì vậy mà khi đó cái pháp đầu tiên, cứ tác ý ngăn dừng tất cả cái niệm. Tới cảm thọ đức Phật cũng làm gan, cũng không sợ trước cảm thọ, cho nên cứ tác ý thôi. Cứ ôm chặt pháp tác ý, cứ tác ý đuổi, tác ý đuổi, cuối cùng thì thân tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Từ bất động, thanh thản an lạc vô sự đó, cái thời gian nó còn ngắn, từ ba mươi phút, một giờ, thì đức Phật mới nghiệm lại cái thân của mình, coi cái tâm của mình bây giờ không niệm vậy nó ở đâu. Rõ ràng nó đang ở trên Tứ Niệm Xứ. Cho nên đức Phật nhìn lại, nhìn lại nó để coi thử nó đang ở trên đó, nó bất động bao lâu. Nhưng khi nhìn nó quán trên thân thì nó lại kéo cái thời gian dài ra, cái thời gian nó được kéo dài. Cho nên suốt bảy ngày đêm toàn ở chỗ cái tâm bất động đó, không cần ăn uống gì hết mà cơ thể thấy khỏe mạnh chứ không thấy bị đói, bị khát, bị khổ. Cuối cùng thì chứng đạo, chứng đạo. Cho nên có bảy ngày đêm chứng đạo.

(16:04) Cho nên vào đây thì Thầy, thứ nhất là như quý thầy hay các Phật tử mà muốn tu, vào đây thì phải ăn ngày một bữa. Coi như cái nội quy của Tu viện. Mà phải phá cho sạch hôn trầm, thùy miên, nghĩa là không còn ngủ phi thời. Giờ ngủ cho ngủ, chứ không phải là không cho ngủ. Cho nên khi mà không ngủ phi thời rồi, thì vào đây thì phải sống độc cư. Chỉ biết có một mình mình ở trong thất, không nói chuyện, không đến thất ai, không ai nói chuyện gì với mình cả. Mà thấy người nào men men đến thất là đóng cửa lại không tiếp duyên. Và suốt thời gian ở trong thất như vậy thì cái người này, Thầy sẽ hướng dẫn, họ sẽ chứng đạo, họ sẽ biết cách tu chứng đạo. Có vậy thôi, đơn giản quá mà. Mà chứng đạo là làm chủ được bốn sự đau khổ của mình, chứ không có cái gì khác hơn hết. Cho nên đức Phật nói: "Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy." Khi chúng ta không đến thì thôi, mà đến là chúng ta thấy sự giải thoát liền.

Nói thí dụ bây giờ tâm mình có sân này, ai đang nói gì mình tức đó, thì đức Phật có dạy rất rõ mà, đang sân mà: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra". rồi hít vô thở ra năm hơi thở. Ngừng lại xem coi cái tâm sân đó nó mất. Tại vì ý của mình muốn không còn giận hờn nữa, cho nên mình nói: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết (tôi thở ra)". Nương vào hơi thở, cứ biết hơi thở ra vô vậy. Nhưng khi mà biết tập trung trong hơi thở, biết ra vô, thì khi dừng lại không cần chú ý hơi thở nữa, thì lúc bây giờ nhìn lại cái tâm sân của mình nó đã xả rồi. Còn bây giờ đó, mình biết là cái tâm mình còn sân, nhưng bây giờ chưa có ai động nó, cho nên nó không sân. Cho nên nó có một phương pháp khác là quán đoạn diệt tâm sân: "Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm sân (tôi biết tôi thở ra)." Mình tu một thời gian, một tháng, hai tháng, ba tháng, thì cái tâm sân của mình nó đoạn diệt. Nó đoạn diệt, nó không còn có trong tâm mình nữa, gọi là giải thoát.

Đó, tu lợi ích lắm mấy con, tu là được. Mà chỉ mình ra công, mình cố gắng mình tu là lợi ích thôi. Đừng để cho hoàn cảnh, hoàn cảnh nó chi phối mình. Lo lắng cái này, lo lắng cái kia, nó làm cho mình không tu tập được, không tu tập được mấy con. "Được thân người là khó, mà gặp được chánh pháp còn khó hơn." Bởi vì tà pháp rất nhiều. Mấy con cứ, bây giờ đến chùa người ta dạy mấy con cầu cúng, cầu siêu, cầu an, dạy tu thiền thì bị ức chế tâm. Đâu có pháp nào mà chơn chánh, đâu có pháp nào mà làm chủ sự sống chết đâu. Cứ ngỡ tưởng mình ngồi thiền là sau này mình làm chủ sự sống chết. Nhưng cuối cùng, ngay từ bắt đầu mình không làm chủ, thì làm sao mình làm chủ được. Còn cái này vô đầu, tâm tôi đang sân, tôi chỉ ngay đó mà tôi tác ý ra "Quán từ bỏ tâm sân" hoặc là "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Rồi ôm cái hơi thở, thở ra thở vô năm hơi thở. Tác ý lần thứ hai nữa, năm hơi thở nữa xả ra thì vẫn thấy tâm sân mất, nó ly được đó. Đó là pháp thực tế mà, ngay liền là có giải thoát liền, thấy liền kết quả.


Trích dẫn - Ghi chú - Copy