(1:33:11) Câu hỏi thứ nhất là cách thức tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự".
Con ngồi đi con.
Để Thầy trả lời chung: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" đó là Đức Phật giác ngộ cho chúng ta hiểu đó là cái Niết Bàn, cái chân lý của đạo Phật, Diệt Đế đó là cái Niết Bàn. Cho nên đây là cái kết quả của cái sự tu tập.
Mà kết quả của sự tu tập nó có mười hai tiếng đồng hồ thì chúng ta sống mãi ở trong cái trạng thái đó. Nhưng ở đây ngay từ cái kết quả đó mà chúng ta đã ngộ ra rồi thì chúng ta phải bảo vệ và giữ gìn cái kết quả đó, để chúng ta đạt được cái kết quả đó.
Cho nên Đức Phật nói: "Hộ trì chân lý, bảo vệ chân lý". Cho nên Thầy ngay từ cái nhận ra được cái tâm thanh thản, tức là nhận được cái kết quả, cái Niết Bàn rồi bắt đầu bây giờ chúng ta biết. Vì vậy mà tất cả ác pháp mà xâm chiếm làm cho mất cái Niết Bàn đó thì nhất định là chúng ta phải bảo vệ và giữ gìn.
Cho nên bảo vệ, giữ gìn thì trong Tứ Vô Lượng Tâm thì có tâm Xả Vô Lượng, xả tất cả các ác pháp hết. Cho nên nói giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, mà nếu không biết cách thức xả thì sẽ bị ức chế.
Vì vậy hôm nay Thầy dạy cho các vị tuổi lớn, các cụ tuổi lớn không còn tu lòng vòng, chỉ tu một pháp mà thôi, tức là Xả Tâm Vô Lượng. Thầy sẽ chỉ dạy cách thức Xả Tâm Vô Lượng như thế nào đúng và như thế nào sai.
Nếu từ cái câu tác ý "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" và cố gắng giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, không cho một niệm nào khởi ở trong tâm chúng ta, trong đầu chúng ta, thì đó là ức chế tâm. Tu như vậy là tu sai, không đúng.
Giống như Thiền Tông giữ tâm chẳng niệm thiện, niệm ác để cho Phật Tánh hiện tiền, tức là: "Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền"; như pháp “tri vọng” của Hòa thượng Thanh Từ dạy: "Biết vọng liền buông", nghĩa là thấy niệm liền buông.
Thấy niệm liền buông tức là ức chế ý thức của chúng ta không cho tâm tham, sân, si hiện ra, đến khi tâm không còn phân biệt khởi niệm thì chúng ta trở thành cây và đá, tức là chúng ta lọt vào Không Tưởng.
(1:35:40) Cho nên ở đây chúng ta tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", lấy trạng thái chân lý của đạo Phật mà tu, do đó phải biết cách, không khéo chúng ta cũng dẫm chân tại chỗ (như) Thiền Đông Độ "biết vọng liền buông".
Vì vậy mà hôm nay chúng ta có phương pháp: Thứ nhất là chúng ta có phương pháp Như Lý Tác Ý, thứ hai thì chúng ta phải học xong lớp Chánh Tư Duy, những gì thông hiểu cần thông hiểu.
Khi chúng ta thông hiểu xong thì chúng ta mới biết xả tâm, chưa thông hiểu thì tức là chúng ta bị ức chế tâm.
Mỗi niệm trong tâm chúng ta khởi ra đều mang theo bản chất tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên ở đây nhắc "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" mà không có pháp nào cả. Khi có một niệm khởi ra thì chúng ta không được nhắc: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", đó là cách thức ức chế tâm.
Khi có niệm khởi ra thì chúng ta dùng tri kiến của mình hiểu niệm, để rồi thông suốt được niệm đó là niệm gì?
Đây là khởi niệm thương nhớ gia đình, thì đó là ái kiết sử. Thì lúc bấy giờ hiểu nó là ái kiết sử, thì nghĩ nó đây là nhân quả, chùm nhân quả, thì phải làm cho xong nhiệm vụ của chùm nhân quả này.
Bây giờ con còn nhỏ mà ngồi đây tu mà nhớ nghĩ thương con mình không ai chăm sóc, nuôi dưỡng, thì đây là trách nhiệm đạo đức chưa đủ, phải mau mau trở về mà lo lắng cái đạo đức làm người, lo cho con mình lớn khôn, có công ăn việc làm, có đôi có bạn, hoặc là đi tu thì mới có thể ngồi mà tu được "tâm thanh thản, an lạc, vô sự".
Đó là cách thức chuyển nhân quả làm cho tâm chúng ta được thanh thản, an lạc, vô sự bằng cách giải quyết mọi nhân quả.
Còn hiện giờ do các cụ đã lớn tuổi rồi, con cái lớn khôn chỉ còn chút ít cháu, mà cứ ôm cháu thì sự tu tập không bao giờ được. Do đó chúng nó sinh con ra thì bổn phận chúng phải nuôi dưỡng, chứ không phải mình nuôi dưỡng con mình nữa.
Bởi vì nhiệm vụ trước kia mình sinh con ra, là mình phải nuôi dưỡng con mình đến lớn khôn, có công ăn việc làm thì chúng ta mới tròn nhiệm vụ, mới ngồi lại tu tâm thanh thản, an lạc, vô sự mới được.
(1:38:24) Vì vậy khi mà chúng ta tu tâm thanh thản, an lạc, vô sự, mà có niệm ái kiết sử, mà trách nhiệm bổn phận làm người đối với chùm nhân quả này đã xong, thì ngay đó mình tác ý ngay liền: "Đạo đức nhân bản, nhân quả đã làm xong, tại sao còn thương nhớ nữa? Việc này là phải chấm dứt ngay!"
Vì vậy mình đã nhắc cho tâm mình biết rằng thương nhớ này là không đúng, do đó niệm ái kiết sử sẽ tan làm không bị ức chế. Còn khi mình chưa làm hết bổn phận mà mình nhắc: "Đây là ái kiết sử, lui đi" thì bị ức chế, là vì mình chưa hết bổn phận.
Còn mình hết bổn phận, mình làm xong đạo đức làm người. Bởi vì đạo đức của Phật giáo là dạy từ mọi người, từ gia đình phải sống có đạo đức, không được bỏ vợ con mà đi tu.
Ngày xưa Đức Phật vì không có biết đạo đức làm người, cho nên Đức Phật bỏ cha mẹ, bỏ vợ con đi tu, nhưng khi tìm ra được chân lý cho nên sau này những người nào mà đi tu theo đạo Phật, chưa có vợ con mà cha mẹ không bằng lòng thì Đức Phật không chấp nhận vào tu. Có vợ con mà vợ con không bằng lòng thì không chấp nhận vào tu.
Đó là đạo đức của đạo Phật, thực hiện ngay từ thời Đức Phật. Do đó cho nên vì vậy mà đạo Phật có đạo đức cụ thể rõ ràng, chứ không phải lấy gương Phật mà cho rằng đúng: “Phật còn bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ vợ con mà đi tu; tại sao bây giờ mình bỏ lại không được?”
Nhưng trước đó chưa có đạo Phật, nếu có đạo Phật thì chắc chắn Đức Phật không bỏ vợ con mà phải tu ngay trong gia đình của mình, làm cho vua cha bằng lòng để chấp nhận cho mình đi tu; làm cho vợ con mình phải được đầy đủ trọn vẹn, con phải được lớn khôn rồi mới đi tu.
Vì chưa có đạo Phật nên chưa có đạo đức nhân bản, nhân quả, cho nên Đức Phật nghe sự giải thoát, tìm thấy bốn sự đau khổ của kiếp người cho nên Ngài vội vã ra đi, cho nên đầu tiên coi như Đức Phật thiếu đạo đức gia đình.
Vì vậy mà sau này Ngài cấm: Con mà muốn xin đi tu theo Phật thì phải cha mẹ đồng ý, mà không đồng ý thì Đức Phật không cho tu.
(1:40:57) Cho nên ngay cả con ông Cấp Cô Độc muốn theo Phật tu hành, do ông Cấp Cô Độc nói: "Của cải tài sản của ta như thế này, mà con đi tu để đây cho ai?" Cho nên ý không muốn cho, đến xin Phật, Phật không cho.
Cho nên con ông Cấp Cô Độc về muốn đi tu phải làm sao? Thì con ông Cấp Cô Độc nói với cha: "Nếu ba không cho con đi tu, con nguyện con không ăn uống nữa", nói: "Mày không ăn uống mày chết kệ mày, tao không có muốn cho mày đi tu. Châu báu, vàng bạc, của cải tài sản bỏ đây cho ai? Tao có một thằng con, mà mày đi tu rồi bỏ đây cho ai? "
Cho nên do đó con ông Cấp Cô Độc nhịn ăn ngày đầu thứ nhất, nhịn tới ngày thứ hai cho đến bảy ngày con ông không còn đứng dậy nổi. Ông hoảng, ông sợ nó chết: "Thôi mày đi tu đi, chứ không mày nằm đây chắc mày chết!" Thì bắt đầu nó ăn uống trở lại, và nó khỏe bắt đầu đến xin Phật tu tập.
Các con thấy đây là một cuộc đấu tranh để làm cho cha mẹ mình bằng lòng để được theo Phật. Cho nên đấu tranh có nghĩa là làm sao cho cha mẹ vui lòng, chứ không phải đấu tranh theo kiểu con ông Cấp Cô Độc mấy con, cũng là cái thế làm cho cha mẹ rất khổ tâm.
Cho nên ở đây chúng ta phải là con người học đạo đức nhân bản, nhân quả mà Phật đã dạy chúng ta tám lớp học này, thì chúng ta khi có một sự gì ngang trái trong nhân quả thì chúng ta phải sử dụng nó.
Thầy trở lại vấn đề hướng dẫn tu tập là phải hướng dẫn người già trong cái giai đoạn tu "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự"; còn người trẻ thì không được.
Nhưng người trẻ mà không có vợ, không con đều tu tập được pháp môn này, vì Xả Tâm Vô Lượng. Còn người có vợ, có con thì không được tu cái này. Người có hoàn cảnh cha mẹ già yếu, bệnh tật tu này không được.
Pháp nào phải ra pháp nấy. Pháp cho người già để cho người già tu, pháp cho người cư sĩ còn trách nhiệm, bổn phận đạo đức gia đình thì không được bỏ đi tu trong pháp này, nên tu những pháp khác.
(1:43:13) Cho nên Xả Tâm Vô Lượng mà giữ được cái trạng thái chân lý của đạo Phật là hộ trì, bảo vệ cái chân lý này được kéo dài mười hai tiếng đồng hồ, thì có phương pháp Như Lý Tác Ý là trước tiên, phương pháp Định Niệm Hơi Thở là trước tiên.
Bây giờ khi có niệm chúng ta hiểu biết niệm đó thì chúng ta tác ý ngay niệm đó, đã thông suốt nó rồi thì cần tác ý: "Hãy tin tưởng đây là nhân quả! Lui! Chỗ này không phải chỗ của mày tới viếng tao!"
Khởi một cái tâm ham muốn, bây giờ giờ này không phải giờ ăn mà khởi đói bụng muốn ăn, hoặc thấy cái bánh ngon muốn ăn: "Đây không phải giờ mày ăn, ăn uống phi thời là không giới luật", do đó ngăn chặn liền.
Vì vậy mà cái niệm như vậy thì ngăn chặn liền, đó gọi là xả tâm. Vì vậy bây giờ giờ này là phải "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", rồi bắt đầu ngồi thanh thản, an lạc, vô sự, không ức chế nó, xem xét coi thân và tâm có những chướng ngại gì?
Tâm hoàn toàn không chướng ngại; thân nghe đau nhức chỗ nào thì ngay đó chướng ngại của thân, để xả cái chướng ngại này để cho tâm và thân được thanh thản, an lạc, vô sự thì chúng ta đối với thân có đau nhức chỗ nào thì chúng ta sử dụng Định Niệm Hơi Thở hoặc là cánh tay chúng ta.
Bây giờ chân này đang bị mỏi, bị tê, thì chúng ta sử dụng, do ngồi xếp bằng mà tê chân thì chúng ta đứng dậy đi kinh hành xả ngay liền cơn tê.
Nếu mà do ngồi mà đau bụng hoặc là trường hợp xảy ra nhức đầu, nóng lạnh, hoặc thấp khớp do đi mà không có thể hết thì chúng ta ngồi lại dùng Định Niệm Hơi Thở tác ý:
"Thọ là vô thường, cái đầu đau này phải ra khỏi thân ta! An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô! An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra!" - Nương vào pháp Định Niệm Hơi Thở để đẩy lui cái chướng ngại của bệnh đau trên thân của chúng ta, thì một lúc sau thân chúng ta sẽ hết đau, và trở lại thanh thản, an lạc, vô sự.
Tức là cách thức bảo vệ và hộ trì chân lý của chúng ta, phương pháp đó là phương pháp hộ trì bảo vệ. Chứ không phải là tu theo Thọ Bát Quan Trai có bốn pháp là Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở.
(1:45:40) Không phải tu tập các pháp đó, mà đây không có tu pháp gì hết, có chướng ngại dùng pháp áp dụng đuổi chướng ngại trên pháp tu "Thanh thản, an lạc, vô sự" - là pháp hộ trì bảo vệ chân lý, cho nên chúng ta sử dụng mọi lúc.
Đứng dậy đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên, bởi vì bây giờ chướng ngại pháp đã đến làm cho mờ mịt không còn thấy thanh thản, an lạc, vô sự nữa, cứ gục tới gục lui. Mà cứ ngồi đó gục tới gục lui gọi là thanh thản, an lạc, vô sự sao được? Cho nên đứng dậy đi kinh hành.
Trong khi đi kinh hành vẫn thấy tâm thanh thản, an lạc, vô sự, hôn trầm thùy miên tan biến. Đó là biết áp dụng trong những pháp đã tu học trong Thọ Bát Quan Trai vào pháp tu bảo vệ và hộ trì chân lý "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự".
Như vậy chúng ta có pháp để tu chứ không phải gọi là tu "Thanh thản, an lạc, vô sự" rồi cứ tập trung trong trạng thái "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" là sai. Để cho tất cả các niệm khác đều khởi lên và mỗi niệm khởi lên chúng ta đều thông suốt những niệm đó, và cuối cùng tác ý một câu để đuổi niệm đó, đó là Xả Tâm Vô Lượng.
Về thân có đau nhức chỗ nào thì dùng Định Niệm Hơi Thở, dùng cánh tay đưa ra đưa vô, nương vào cánh tay đưa ra đưa vô trong một giây, một phút, hai phút, ba phút, năm phút; tất cả những chướng ngại đó, những ác pháp đó đều lui, để lại cho trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, đó là bảo vệ hộ trì chân lý của chúng ta.
Cách thức của người già nên tập tu như thế này là đúng. Và đồng thời trước khi tu tập Thầy khuyên có một điều là nên đọc lại những bài vở của những tăng sinh đã học lớp Chánh Kiến qua.
Những bài vở đó Thầy dạy từ đạo đức nhân quả thảo mộc, đạo đức con người, đạo đức nhân bản - nhân quả và các pháp vô thường, thân vô thường, thực phẩm bất tịnh, thân bất tịnh và Tứ Vô Lượng Tâm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, phải học tất cả những pháp này cho thông suốt.
Nhờ thông suốt những điều này mà áp dụng vào phương pháp xả tâm để hộ trì và bảo vệ chân lý thì chúng ta sẽ thành tựu trong bảy ngày hoặc bảy tháng, cao lắm là bảy tháng quý vị cũng chứng đạo, làm chủ được sự sống chết, muốn sống hồi nào thì sống, muốn chết hồi nào thì chết, rất dễ dàng, không có khó khăn.
Đó là phương pháp hộ trì bảo vệ chân lý để chứng đạt được chân lý. Đến đây Thầy xin trả lời câu thứ nhất.