(01:23:58) Kế tiếp chúng ta "trên thân quán thân", tu về hành tướng nội. Hành tướng nội của thân là gì? Là hơi thở của chúng ta. Do vì vậy chúng ta nương vào hơi thở, cho nên Kinh Phật có dạy, bài Kinh Xuất Tức Nhập Tức. Chúng ta dùng Định Niệm Hơi Thở mà tu tập.
(01:24:10) Nương vào hơi thở tu tập bằng cách nào? “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra.” Tại sao chúng ta phải hướng tâm nhắc như vậy? Nhắc như vậy tâm chúng ta tỉnh thức mà không khởi một niệm thiện, niệm ác nào trong đầu chúng ta. Ví dụ:
“Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.”
“Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài. Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài.”
“Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn. Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn.”
Nếu tôi âm thầm, không hướng tâm, không tác ý mà nhắc tâm mình mà chỉ biết hơi thở hít ra, hít vô, thì như vậy tôi đã tự ức chế tâm tôi chứ không phải tôi nhắc tâm tôi.
Khi chúng ta tác ý nhắc tâm, tức là chúng ta tu cái định gì đây? Chúng ta tu "Định diệt Tầm mà giữ Tứ". Tứ tức là tác ý ra, thường xuyên tác ý ra.
Ví dụ như tôi nói, tôi nhắc tâm tôi: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra”, tức là nhắc tôi để tôi nhớ tôi biết tôi đang hít vô và thở ra. Đó là pháp hướng đầu tiên để giúp cho chúng ta tỉnh thức trong hơi thở. Sau khi chúng ta tỉnh thức trong hơi thở thì chúng ta tiếp đến để nhắc cho thân và tâm của mình. Ví dụ:
“Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.
Hay: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra”.
(01:26:32) Đó là nhắc để chúng ta tỉnh thức từng trong cơ thể của chúng ta. Thân của chúng ta đang có sự cảm giác gì? Cũng như tâm chúng ta có những sự cảm giác gì? Bây giờ chúng ta đã chính thức, đã tập trung nơi thân và tâm chúng ta, cảm giác rất rõ ràng, thì chúng ta tiếp tục đến mà chúng ta hướng đến trong mười sáu đề mục thiền, mà trong bài Xuất Tức, Nhập Tức Phật đã dạy.
Đến cuối cùng thì chúng ta: “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra.”
Vì :“Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra. Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô”, có nghĩa là chúng tôi tỉnh thức tại nơi hơi thở. Nhưng "quán ly tham" tức là Chánh Niệm của tôi ở chỗ ly tham. "Quán ly sân", tức là ở chỗ ly sân. Hàng ngày chúng tôi tu tập Định Niệm Hơi Thở tức là "trên thân quán thân" tu về hành tướng nội của thân.
Chúng tôi tu tập như vậy có nghĩa là chúng tôi thực hiện Pháp Định Niệm Hơi Thở, để ly dục, ly ác pháp, nghĩa là khắc phục được tâm tham ưu của mình. Khắc được tâm tham ưu của mình tức là ly dục, ly ác pháp.
(01:28:19) Khi tâm ly dục, ly ác pháp được rồi thì tâm như thế nào? Lúc bây giờ tâm không còn phóng dật. Trạng thái tâm không còn phóng dật nữa, tâm không còn phóng dật tức là tâm đã quay vào trong thân, hay nói cách khác là tâm đã định vào trong thân.
Tâm đã định vào trong thân, trạng thái như thế nào? "Tâm Thanh Thản An Lạc và Vô Sự", cho nên Đức Phật dạy: “Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Do ly dục sanh Hỷ Lạc, có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm”.
Lúc bây giờ người nhập Sơ Thiền không có còn niệm khởi, tự do niệm khởi, lúc khởi niệm này, lúc khởi điểm khác cho nên gọi là Nhất Tâm.
Trạng thái thường thanh thản, an lạc. Chữ Hỷ Lạc của Phật dạy ở đây không phải là trạng thái của dục lạc mà gặp, như chúng ta nghĩ là hỷ, là có điều gì làm chúng ta mừng. Ví dụ như có anh em, cha mẹ đi xa về, bây giờ gặp lại nhau mừng rỡ. Nỗi mừng đó nó không phải là nỗi mừng của người ly dục, ly ác pháp. Cho nên chữ Hỷ ở đây, người Hoa đã dạy Hỷ là mừng. Nhưng cái mừng đó chúng ta, người mà chưa ly dục không thể hiểu được chữ mừng này cho đúng nghĩa của nó.
Ly dục, cái mừng của nó, gọi là Thanh Thản, An Lạc, chứ không phải có nỗi mừng vui gì cả hết. Những người chưa biết tưởng là chúng ta mừng vui như dục lạc của thế gian thì không đúng. Trạng thái Hỷ Lạc của Thiền Định của Sơ Thiền không gì khác hơn là chỗ "Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự", chứ không phải có niềm vui mừng như người thế gian, như trạng thái của người thế gian.
(01:30:32) Người ly dục, ly ác pháp thì nhập được Sơ Thiền. Chứ không phải ngồi thiền mà ức chế tâm để được nhập Sơ Thiền, khi hết vọng tưởng, điều này là điều sai.
Người ly dục, ly ác pháp, là người từng tu tập "ngăn ác, diệt ác" thì người đó mới ly dục, ly ác pháp. Nhưng nòng cốt của nó là do sống đúng đời sống Giới Luật thì mới ly dục, ly ác pháp được.
Nếu chúng ta sống có tu tập "trên thân quán thân", tu về nhân tướng, "trên thân quán thân", tu về hành tướng nội và ngoại mà không có Giới Luật thì sự tu tập này cũng vẫn là hoài công vô ích. Vì đời sống Giới Luật là nòng cốt, là căn bản để chúng ta thực hiện được ly dục, ly ác pháp và các pháp này là những pháp trợ lực. Cho nên gọi là trợ pháp, giúp cho Giới Luật thanh tịnh, tạo cho tâm ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.
Tâm ly dục tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm định trên thân, luôn lúc nào trong thân có những sự hoạt động gì, như tim đập, hơi thở thở, là luôn luôn lúc nào tâm cũng biết những hoạt động đó, mà không lưu ý, để ý những hoạt động bên ngoài của các pháp. Do vì vậy mà chúng ta nhận ra được tâm quay vào trong. (01:31:50)
HẾT BĂNG