(00:00) Trưởng lão: Thầy giảng cho các con biết cái ức chế tâm, chế ngự tâm và an trú tâm, giải thoát cái tâm chúng ta, đó là chế ngự tâm có nghĩa như thế nào, ức chế tâm như thế nào, an trú tâm như thế nào. Đó là những danh từ mấy con, nhưng mà không khéo thì mình không biết, cho nên Thầy thấy những danh từ này, cô hỏi cũng có đúng cái nghĩa để cho mấy con hiểu, bởi vì không khéo thì mình bị ức chế trong cái chế ngự tâm như thế nào, cái an trú tâm là như thế nào.
Ví dụ như đức Phật giảng: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.", biết thở ra, biết thở vô tức là là an trú trong hơi thở, các con hiểu không? Mà an tịnh tức là phương pháp tác ý làm cho cái thân của chúng ta an, không còn bệnh đau, không còn đau nhức nữa. An trú tâm để mà đuổi các ác pháp ra khỏi thân tâm của mình. Vậy thì cái an trú có nghĩa như thế nào, để cho mình hiểu, chứ còn mình nghe chữ "An trú" mình biết an trú cách nào đây.
Đó là cách thức để các con hiểu nghĩa cho rõ và câu hỏi như vậy thì Thầy cũng giảng chung để cho mấy con hiểu ức chế tâm là như thế nào. Ức chế tâm là mình cố gắng mình tập trung vào một cái đối tượng. Nghĩa là bây giờ cái hơi thở có nhịp thở của nó, nhưng mình cứ cố nhìn chăm chăm để mình thở cái hơi thở thì đó là mình ức chế, mình ức chế khoảng độ chừng năm hay mười phút thì sẽ thấy nặng đầu hoặc 30 phút. Khi mà ức chế, mà tập trung cao như vậy thì mấy con phải cố gắng hết sức lực của mình để mà vận dụng từng cái hơi thở của mình, nhất là cái người vận dụng hơi thở chầm chậm, chầm chậm, thở ra, thở vô thì sự ức chế rất cao.
Cho nên các con thấy cái pháp mà gọi là, mấy con biết là xả tâm, ly dục ly ác pháp rồi thì mấy con xả tâm, mấy con dùng pháp Thân Hành Niệm không bị ức chế, mà các con chưa xả tâm là mấy con bị ức chế. Bởi vì mỗi cái hành động như thế này mấy con tác ý mấy con bảo: "Cánh tay mặt đưa ra!" thì từ từ con tập trung rất kỹ cánh tay phải con đưa ra từ từ. Con bảo: "Cánh tay mặt đưa vào!" thì từ từ con đưa vào, con tập trung rất kỹ như vậy gọi là ức chế tâm. Cho cái khó khăn về Thân Hành Niệm, người mà ly dục ly ác pháp lúc đưa tay ra là tự nó tập trung trong đó rồi, chứ không phải cố gắng để tập trung, còn hiện giờ mấy con chưa ly dục ly ác pháp mà mấy con phải cố gắng nhìn từng cái hành động đi chậm chậm như thế này đó là ức chế tâm.
(02:25) Cho nên cái pháp Thân Hành Niệm mà người chưa ly dục ly ác pháp mà tập nó sẽ bị phản ứng. Còn chúng ta ly dục ly ác pháp được một nửa rồi hoặc được hai phần rồi thì nó không bị ức chế. Bởi vì khó nên nhiều người mới tu không nên tu pháp này.
Mới tu là cái tâm mình chưa ly dục, mình ăn chưa được, mình ngủ chưa có nghiêm chỉnh được, mình còn bị hôn trầm, thùy miên tức là còn ham ngủ, còn ham ăn, mà giờ mình vào tu pháp Thân Hành Niệm thì khó. Tâm mình còn ác pháp, hễ người ta nói gì nặng là mình tức giận, mình sân lên, mình còn ác pháp, mà còn ác pháp tu pháp Thân Hành Niệm này thì một là mình bị lọt vào tưởng, hai là mình bị phản ứng nó làm mình đau nhức, làm mình đi không được, mình để chân xuống nó khó, nó đau (…).
Cho nên mình phải hiểu cái sự ức chế, ức chế là do tập trung quá cao độ.
Vậy còn chế ngự tâm là như thế nào? Chế ngự tâm có nghĩa là không làm theo tâm. Ví dụ như bây giờ là hai giờ mà tâm nó muốn ăn, muốn ăn cái bánh, muốn ăn trái chuối thì mình quyết định là mình không ăn, mình không ăn tức là mình chế ngự. Giờ này không phải là giờ ngủ, mà nó buồn ngủ, nó gục tới, gục lui rồi, mình nhủ trong đầu là ngủ cho khỏe để lát mình thức dậy mình tu cho tốt, nó luận để cho nó ngủ tức là nó bị dục ngủ, cho nên: “Giờ này không phải giờ mày ngủ, nhất định tao không cho mày ngủ. Mày phải dậy đi kinh hành! Dậy đi Chánh Niệm Tỉnh Giác!”, do đó mình cứ đi tới, đi lui vậy đó, đó là mình chế ngự cái tâm của mình, không có làm theo nó. Mình ly cái dục, gọi là chế ngự.
Chẳng hạn bây giờ cái tâm mình thấy đống rác kia dơ, mà giờ này đang ngồi thiền, mình nghĩ ra quét rồi vô ngồi thiền cũng được, do đó mình mới nói: “Mày khởi cái tâm mày muốn quét rác, thì tức là còn dục, vì giờ này là giờ tu chứ đâu phải giờ quét rác”. Vì vậy mình ngăn chặn không cho nó làm cái này, không cho nó đi hốt rác, đó là mình chế ngự cái tâm của mình. Các con hiểu chế ngự chưa? Chứ không phải là mình ngồi mình biết hơi thở ra vô là chế ngự.
(4:30) Còn bây giờ nói về an trú tâm, cái an trú tâm là mình phải hiểu là như thế này, bây giờ bình thường trong tâm con không có gì hết mà con ngồi nhiếp tâm thở vô, thở ra. Thở ra, thở vô con tập trung không có vọng tưởng là con bị ức chế tâm, con hiểu không?
Ví dụ bây giờ con đau bụng quá, nhức đầu quá, bây giờ tôi sẽ an trú trong cái hơi thở tức là tôi sẽ cố gắng tôi tập trung trong hơi thở, giống như mình ức chế tâm đó mấy con. Nhưng khi mình bị đau, nếu mình không cố gắng tập trung trong hơi thở thì mình cứ thấy đau thì sao? Cho nên mình ráng nương tựa hơi thở, mình nhiếp hơi thở để tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.", tức là mình bắt buộc tâm của mình phải trú vào trong hơi thở, mà nó làm cho cái thân hết đau. Vậy là an trú tâm là khi có đối tượng làm cho tâm chúng ta đau khổ hoặc là tâm chúng ta phiền não, khi đó chúng ta trú vào hơi thở hoặc bước đi thì gọi là an trú. An trú để cho thân tâm mình nó an ổn.
Còn giờ thân tâm tôi nó có bệnh đau gì đâu mà tôi an trú, tôi an trú kiểu này là bị ức chế tâm tôi không, các con hiểu chữ an trú đó chưa? Không khéo các con chưa biết, rồi lúc nào tôi cũng an trú trong hơi thở hết, không ngờ là mình ức chế tâm mình, tu riết nhức đầu, tu riết nó làm thần kinh nó điên, tu riết lọt vào Không Tưởng. Đó là do các con hiểu sai nên mình tu sai, mà hiểu đúng là mình tu đúng.
Bởi vì nói an trú là mình biết cái thân mình đang đau hoặc thân đang phiền não, lo lắng, cho nên mình trú để cho nó an, gọi là an trú, cho nó được an (..) Cho nên vì vậy mình biết khi nào cái thân có đau, mà bây giờ tôi phải trú cái thân tôi để cho cái thân tôi hết đau, thì như vậy gọi là an trú. Cái tâm tôi có phiền não, cứ giận hờn suốt, bây giờ làm sao đây? Bây giờ tôi phải an trú trong hơi thở rồi tác ý để cho nó an ổn, kìm hãm nó như vậy gọi là an trú.
Còn bây giờ thân tôi an, tâm tôi cũng an, mà giờ tôi trú làm chi nữa? Bây giờ tôi trú trong cái an này là thanh thản, an lạc, vô sự không có sướng hay sao mà bây giờ tôi phải nhiếp vô hơi thở làm chi đây? Tôi điên hay sao mà ôm cho chặt, nhiếp cho mệt, bộ ngồi nhiếp tâm trong hơi thở không mệt sao, ngồi chơi không sướng sao? Khi mà ngồi chơi thanh thản, an lạc, vô sự, thân tâm mình có gì đâu. Cho nên do đó tôi tu Tứ Niệm Xứ.
(6:55) Tứ Niệm Xứ là tôi ngồi, khi nó có thì tôi an trú, tôi đẩy, mà không có thì tôi ngồi trong tâm thanh thản thôi. Như vậy là rõ ràng tôi có pháp thật sự, pháp nào tôi cũng có hết. Đó mấy con thấy có đúng không? Đây là những danh từ mà người ta không hiểu, mà người ta sai. Không biết mà cứ như người bình thường là tôi cứ hít thở, hít thở để mà an trú trong hơi thở. Rõ ràng là mình trú trong hơi thở thật, nhưng mà thân tôi không có đau, mạnh giỏi, bình yên thì tu an trú làm chi. Tôi đang an rồi mà tôi còn trú chi nữa, để nó ở trong cái an không sướng sao mà tôi còn trú. Hiểu như vậy các con mới biết con đường tu của Phật nó hay, nó hay là cái chỗ mà chúng ta thấy nó có chướng ngại thì chúng ta mới an trú.
Còn không chướng ngại mà ở trong cái tâm của chúng ta ham muốn cái này cái kia thì đây là chế ngự, nghe không? Còn bây giờ mình tu tập một cái gì khác thì cũng bị ức chế hết. Phải không các con?
Nhưng mà trước khi mà muốn để cho mình tỉnh táo, để khi từng cái ác, cái thiện đến, để cho mình hiểu biết thì mình phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Cho nên khi mà đi kinh hành mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, các con đi như người đi vô sự, khi mình đi mà mình thấy mình biết mình đi, thấy cái tâm mình gom trong bước mình đi thì mình ngó ra cho nó được tự nhiên hơn, chứ cứ nhìn chăm chăm cái bước đi thì bị ức chế rồi làm sao.
(08:11) Cho nên rốt cục, mấy con tu bị sai hết rồi mà mấy con không biết. Cứ nghĩ tu làm sao để cho đừng vọng tưởng, đi làm sao mà từ đây tới kia mà hai mươi bước, ba mươi bước mà không có vọng tưởng thì nó tốt chứ gì? Không tốt mấy con. Có vọng tưởng càng nhiều càng tốt đó. Tại sao vậy? Nó có vọng tưởng nhiều mình mới có cách thức mình ly, mình mới hiểu được cái tâm để mình ly, nên đức Phật mới nói, ngồi đó mà suy nghiệm lại tâm của mình, nếu có công đức nào thì giấu không cho ai biết, mà nó có những lỗi lầm nào thì nói ra để sửa những lỗi lầm đó.
Khi mình ngồi lại một mình, mình thấy niệm này niệm kia, mình thấy được những lỗi lầm của mình trong mỗi cái niệm đó mấy con. Thấy nó còn tham ăn, tham ngủ, tham tiền, tham bạc, tham này kia không? Mà nó tham nhiều thì mình biết nó có lỗi lầm chứ gì. Phải không mấy con? Ngồi chơi chứ bây giờ mình tu mà không còn suy nghĩ, thì tu thành cây, thành đá rồi mấy con. Phải để cho nó nghĩ chứ, nhưng suy nghĩ đó là suy nghĩ biết cái niệm này là niệm thiện, cái niệm này là niệm ác, cái niệm này sẽ lỗi lầm. Tôi ngồi đây tôi suy nghĩ từng cái tâm niệm của tôi, từng cái thân, thọ của tôi nó sẽ có cái quả gì, nó đau cái chân, nó nhức cái đầu hoặc nó ngồi nó mỏi, nó mệt, nó đau cái lưng, tôi biết từng cái quả đó để mà tôi tìm cách tôi đẩy lui nó ra, tôi đem lại sự an bình cho thân và tâm tôi. Tôi đem lại sự an bình cho thân và tâm tôi thì đó chính là giải thoát chứ gì.
Cho nên đức Phật mới dạy: "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện", chứ đâu có dạy tôi tụng kinh, niệm Phật, đâu có dạy tôi ngồi thiền. Mà chính cái tâm ly dục ly ác pháp nó là cái tâm thiền, nó là tâm bất động. Khi tâm nó ly dục ly ác pháp, nó bất động, thì nó sẽ có bảy năng lực của Giác Chi, không phải là pháp Giác Chi, mà là năng lực của Giác Chi. Cho nên lúc bấy giờ tôi muốn nhập định nào tôi dùng cái năng lực đó tôi nhập các định. Cho nên trong Bát Chánh Đạo, quý Phật tử thấy rõ ràng trong tám lớp tu tập, lớp Chánh Định là lớp cuối cùng, lớp Chánh Định không có khó khăn.
Bởi vì, tám lớp này thì bảy lớp đều tu ở trên Giới, tức là tu trên Tứ Niệm Xứ - thân, thọ, tâm của nó. Mà Tứ Niệm Xứ sung mãn, thanh bình rồi tức là nó ly dục ly ác pháp rồi, thì nó đủ lực để chúng ta nhập được bốn định, hay là Chánh Định - bốn thiền.
(10:26) Khi nhập bốn định rồi, thì ở trong bốn định này tôi sẽ thực hiện Tam Minh, tức là tôi nhìn lại Lậu Tận Minh, hoàn toàn cái mầm mà tái sanh luân hồi, mình sẽ thấy rõ ràng, và không còn mầm tái sanh nữa. Tôi biết tôi chỉ còn một đời này và không còn nhân tái sanh nữa. Tôi biết rất rõ bởi vì Lậu Tận Minh làm cho tôi biết rất rõ cái nguyên nhân mà tôi còn tái sanh hay không.
Cho nên quý Phật tử ở đây tu tập, mình biết mình hơn ai hết, mình còn tham mình biết tham, mình còn sân mình biết sân, mình còn tham ngủ mình biết còn tham ngủ, còn tham ăn thì biết còn tham ăn. Khi mình biết mình còn như vậy thì mình ngăn, mình diệt nó đi thì lần lượt nó cũng hết. Bữa nay nó bớt một chút, ngày mai nó bớt một chút, bữa nay mình cố gắng bớt một chút, không cho nó sống phi thời, ngày mai mình bớt sống phi thời một chút. Tuần sau từ từ nó hết, nó không thèm ăn, thèm uống, đến giờ nó ăn rất ngon mà rất tự nhiên không còn thèm khát một cái gì nữa hết.
Đó là mình thuần hóa được tâm của mình, tức là mình đã ly dục. Về vấn đề tu tập là như vậy.
(11:30) Hỏi: Bây giờ về câu hỏi thứ hai, con hỏi Thầy trong những phương pháp tu tập con thay đổi như vậy có tốt không, linh động như vậy có tốt không? Ví dụ như hai giờ này con sẽ tu Định Niệm Hơi Thở, con hít vô, thở ra mà giờ con ngồi xuống con thấy buồn ngủ, thì con thay đổi, con đứng dậy con đi Thân Hành Niệm hoặc Chánh Niệm tỉnh giác.
Trưởng lão: Con linh động như vậy là rất tốt, đó là mình thiện xảo khéo léo, chứ không phải cố chấp giờ này ngồi hít thở là tôi phải hít thở, buồn ngủ mà cũng ráng ngồi, không đúng đâu mấy con. Đạo Phật dạy chúng ta linh động, thiện xảo, khéo léo từng pháp môn. Khi mình có bệnh mình phải tu pháp gì, khi mình không bệnh mình phải tu pháp gì, chứ không phải là lúc nào cũng cố chấp giờ này là phải đi kinh hành, giờ kia là phải Thân Hành Niệm, giờ nọ tôi phải tu Định Niệm Hơi Thở. Như vậy là mấy con đã bị cố chấp. Mấy con phải khéo léo, linh động, tùy vào thời thiết, từng đặc tướng để thực hiện những pháp này thì mới hiệu quả.