00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 11 - TRAU DỒI TÂM TỪ 02, TÂM BI, TÂM HỶ

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 11 - TRAU DỒI TÂM TỪ 02, TÂM BI, TÂM HỶ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

Thời lượng: [01:26:38]

1- TRAU DỒI TÂM TỪ TRÊN KHẨU HÀNH

1.1- NHẮC TÂM CẦN THẬN, Ý TỨ KHI ĂN UỐNG

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta học tiếp tới hành động lòng Từ nơi miệng của chúng ta.

Có hai hành động:

1. Trau dồi miệng lưỡi khi ăn, uống, nhai nuốt phải ý tứ cẩn thận, tránh nhai lầm chúng sanh, nhai chúng sanh, nuốt chúng sanh vào miệng.

Nghĩa là chúng ta ăn cái món ăn nào đó chúng ta phải coi chừng. Nhiều khi chúng ta thấy còn một hai con kiến: “Thôi kệ, nuốt đại nó đi, nhai đại cái bánh này cũng ăn thua gì!”, bỏ miệng nhai. Đó là lòng Từ chúng ta chưa thực hiện được.

Khi mà trên một cái miếng bánh hoặc là một thực phẩm của chúng ta ăn có một vài con kiến, chúng ta hãy dùng một cái que cây, nhẹ nhàng chúng ta từ từ để cho nó bò lên rồi chúng ta đưa - bữa ăn cơm của chúng ta nó còn cái thời gian dài, đâu có mất đâu mà lật đật, cho nên chúng ta đâu có vội vàng - vì vậy mà từ từ chúng ta đưa chúng ra khỏi cái món ăn của chúng ta và đồng thời chúng ta mới ăn.

Đó là những cách thức tu tập của những người đệ tử của Phật, người cư sĩ cũng như người tu sĩ. Chớ không phải nói rằng: Người tu sĩ thì phải ăn uống như vậy, còn người cư sĩ thì phải vội vàng để lo làm cho có tiền, có bạc, rồi nhai nuốt tất cả chúng sanh trong bụng của mình - thì cái điều đó là một cái điều nó không đúng cái hạnh của một cái người đệ tử của Phật.

Đệ tử của Phật thì nó có cư sĩ và tu sĩ, thì người tu sĩ cũng như người cư sĩ phải tu tập những cái hạnh này để chúng ta thực hiện cái lòng thương yêu.

Mỗi lần ăn uống, nhai nuốt đều Như Lý Tác Ý:

Đó khi mà, lúc nào mà chúng ta nhai trong miệng, ăn trong miệng một cái vật gì thì chúng ta phải thầm để mà như cái lý mà tác ý ra.

Đây là cái câu mà chúng ta dùng pháp hướng để mà chúng ta tu tập cái lòng Từ trong khi chúng ta ăn:

“Ta nhai nuốt, ăn uống, tâm ta phải thương xót chúng sanh, lỡ nhai nuốt ăn vào bụng làm cho chúng sanh đau khổ và thiệt mạng là một điều tội lỗi lớn!”.

Đó mình nhắc mình như vậy để cho mình cẩn thận từ cái chỗ ăn uống của mình.

Và hằng ngày chắc chắn là ai cũng có ăn hết: Người cư sĩ thì người ta ăn ba bữa, thì mỗi một lần ba bữa thì người ta đã nhắc được ba lần, còn chúng ta ăn ngày một bữa thì chúng ta nhắc có một lần, và như vậy ngày nào chúng ta cũng nhắc một cái lời này để cho nó thấm nhuần và nó cẩn thận, ý tứ trong khi chúng ta nhai nuốt. Đó là một cái điều làm chúng ta rất tỉnh thức trong cái sự ăn uống của chúng ta.

Đó là cái sự mà, vừa rồi đó thì trau dồi cái miệng, thì về ăn, thì chúng ta có một câu hướng tâm như vậy để nhắc cho chúng ta.

1.2- NHẮC TÂM KHI NÓI KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI

(02:51) Trưởng lão: Về phần thứ hai của miệng:

2. Trau dồi miệng lưỡi khi nói:

“Ta muốn nói một điều gì ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, suy tư cho chín chắn rồi mới nói ra!”

Lấy câu này làm pháp hướng nhắc tâm mình để lời nói không làm khổ mình, khổ người.

Bởi vì lời nói rất độc, chúng ta vô tình nói ra cái chạm tự ái người ta làm người ta đau khổ. Mình nói chơi thôi cũng làm cho người ta rất khổ, mình mỉa mai người ta một câu nói cũng rất đau khổ. Cho nên cái lời nói rất là khó, không phải dễ đâu.

Trau dồi cái lời nói thì quý vị phải biết rằng, trau dồi cái lòng Từ nơi lời nói rất là khó: Nói làm sao cho người ta an vui, đừng có để cho người ta đau khổ, thì hầu hết là mọi người Thầy thấy chưa có ai trau dồi cái lời nói.

Chỉ mình muốn nói sao đó mình nói, ý mình muốn khởi sao đó là mình khởi ra mình nói, chớ còn mình không có trau dồi cái lời nói của mình cho cẩn thận, kỹ lưỡng.

“Khi muốn nói ra một điều gì, ta tránh không được nói oan, nói ức cho người khác, hoặc nói chuyện cho người khác chuyện có nói không, chuyện không nói có để làm cho khổ người!”

Mình không muốn người khác nói oan ức cho mình thì sao mình lại nói oan ức cho người khác? Do đó, ta phải thường hướng tâm nhắc nhở Như Lý Tác Ý câu này.

Đây cái câu này để cho chúng ta nhắc nhở để mà chúng ta thực hiện hằng ngày trau dồi cái lời nói của chúng ta. Vì có trau dồi thấm nhuần thì mỗi lần mà chúng ta mở miệng nói là chúng ta có một cái tác ý, tự nó tác ý ra làm chúng ta nói rất cẩn thận. Vì vậy đó gọi là trau dồi tâm Từ của chúng ta đến với chúng sanh đó.

“Ta nói phải giữ gìn…​

Nghĩa là cái câu này là câu nói:

“Ta nói phải giữ gìn lời cho đúng đắn, không được nói dối, nói oan ức làm cho khổ người!”

Đó là nhắc nhở liên tục, nghĩa là lúc nào mà chúng ta rảnh rang - ở đây nó không phải như cái ăn, mà cái nói nó thình lình lắm, nó không có giờ giấc đâu, cho nên thường là chúng ta phải nhắc mình.

Biết cái miệng mình là cái khẩu nghiệp, cho nên mình phải nhắc nó đi, nhắc lại cho nhiều lần, cho thấm nhuần, để mở miệng ra là không làm cho người khác đau khổ. Thì lấy cái câu này để làm cái pháp hướng, để như cái lý chân thật để trau dồi cái lời nói của mình cho nó có Từ Vô Lượng Tâm mới được.

Ta là người hay nhiều chuyện lắm mồm, đụng chuyện gì cũng nói, cũng xen vô, đụng đâu cũng đía, biết tật mình xấu như vậy thì hằng ngày nên trau dồi miệng:

Mình nhắc đây - cái câu này là nhắc cái người mà hay nhiều chuyện, đụng chuyện gì cũng nói, cũng này kia, đem chuyện chuyện xấu người này nói chuyện kia hoặc đặt điều nói xấu người khác đó, hoặc là không hiểu rồi nói người ta xấu thế này, thế khác. Đó là chúng ta biết mình nó còn có cái tật xấu như vậy thì hằng ngày mình phải trau dồi cái miệng của mình.

Đây, đây là cái câu mà Thầy tượng trưng cho để quý thầy hiểu để sau này quý thầy tìm những cái câu nào cho phù hợp với cái đặc tướng của mình, đặng cho mình thực hiện cho nó có hiệu quả, còn ở đây Thầy chỉ dạy chung chung mà thôi:

“Ta là người nhiều chuyện…​

(06:03) Tức là mình biết mình là người nhiều chuyện cho nên mình phải chỉ ngay nó, chớ không phải tránh né được.

“Ta là người nhiều chuyện lắm mồm, từ đây phải bỏ, không được xen vào chuyện của người khác!”

Đó nhắc như vậy để cho nó quen đi. Nghe người ta nói chuyện gì đó cái mình xen vô liền, đó là cái người lắm chuyện, nhiều mồm.

Như vậy là chúng ta có những cái câu để mà chúng ta trau dồi cái miệng của chúng ta ở trong cái lòng Từ không làm khổ người.

“Ách giữa đàng mang vào cổ” - “chuyện người người biết, chuyện mình mình hay”. Không nên xen vào chuyện của người khác để thân rắc rối và khổ đau!”

Đây là một cái câu kế, mình phải ám (thị), mình phải hướng tâm tác ý: “Ách giữa đàng mang vào cổ” - nghĩa là chuyện người ta cái mình xen vô, một lát nữa mình bị người ta kéo ra làm chứng, làm cớ rồi rầy rà chuyện này đến chuyện kia, gọi là “ách giữa đàng mang vào cổ”.

Lấy câu này để mà chúng ta làm cái pháp hướng để chúng ta tránh đi những cái điều mà có thể tai họa xảy đến cho mình do miệng lưỡi:

“Chuyện người người biết, chuyện mình mình hay”; không được xen vào chuyện của người khác để thêm rắc rối và đau khổ cho mình, cho người!”

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc mình, để luôn luôn lúc nào cái ý của mình nó cũng nhanh chóng để mà chặn đứng những cái thói quen mà mình đã là người lắm chuyện, lắm mồm.

Nếu hướng tâm Như Lý Tác Ý…​

Ở đây thì quý thầy, nếu mà chúng ta thường xuyên hướng tâm những cái ám thị, những cái câu như trên thì cái tâm của chúng ta nó luôn luôn nó rất là tỉnh táo, và khi nói chúng ta rất cẩn thận.

Cho nên bây giờ cái lời nói của chúng ta nó nhanh lắm, nó nhanh hơn cái ý, khi nghe thì nó phóng ra nó nói liền, mà chúng ta thường nhắc nhở nó như vậy thì bắt đầu nó không có nhanh nữa, nói nó không có nhanh nữa, mà nó suy tư rồi nó mới nói.

Như vậy nó làm cho giảm cái tốc độ nhanh của cái lời nói, nó giảm xuống, nó làm chúng ta có một cái cẩn thận, từ tốn ở trong cái lời nói của chúng ta, suy nghĩ hẳn hòi rồi mới nói.

Còn hiện giờ quý thầy cũng biết rằng mình muốn suy nghĩ rồi mình nói, ai lại cũng muốn vậy, nhưng mà tại sao nó lại thành một cái thói quen quá nhanh chóng?

(08:41) Vừa rồi cái chuyện gì xảy ra là nó tự nó phóng ra nó nói lia lịa nó thôi mà mình không kiềm lại được nữa chớ! Chừng mà biết rồi thì nó quá trễ rồi, lấy lại cái lời nói khó lấy, lỡ lời đâu có dễ gì mà lấy lại?

Cho nên trong cái sự tu tập hằng phải trau dồi thì cái lời nói của chúng ta mới chững chạc, mới đúng đắn được, chớ không khéo nó phóng theo cái tư tưởng của nó, cái tư tưởng ngã chấp của nó, nó làm những cái đó nó lệch đi, và nó đưa chúng ta đi đến chỗ khổ và người khác khổ.

Và chúng ta cũng nên nhắc cái tâm chúng ta như cái lý như thế này:

“Từ đây ta phải im lặng, sống trong trầm lặng, không được nhiều chuyện, lắm mồm nữa!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta nhắc chúng ta phải sống im lặng, trầm lặng - coi như là độc cư hoàn toàn đó - để nhắc cho đến khi mà chúng ta độc cư hoàn toàn mà chúng ta thấy thảnh thơi, vui sướng, tâm hồn chúng ta quay trở lại với chính mình, không còn quay ra ngoài nữa. Thì những câu pháp hướng này nó có một giá trị để sau khi mà chúng ta thực hiện thiền định thì chúng ta không còn cô đơn.

Đó là những cái câu mà quý thầy cần phải ghi nhớ để mà hằng nhắc mình, hằng như lý tác ý nó ra để giúp cho mình được trầm lặng, được yên lặng ở trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.

Do miệng lưỡi nói ra mà người sân, kẻ hận, kẻ tự tử quyên sinh, phiền não, đau khổ.

Do miệng lưỡi mà gia đình ly tán, anh em xa lìa, bầu bạn chẳng gần.

Do miệng lưỡi nói ra mà vạn vật, sanh linh tiêu điều, phải chết.

Do miệng lưỡi nói ra mà tạo nên cảnh địa ngục ở trần gian.

Do miệng lưỡi nói ra mà biết bao nhiêu người tù đày biệt xứ.

Do miệng lưỡi nói ra mà gia đình xào xáo, bất an, anh em chia lìa.

Do miệng lưỡi nói ra mà Tăng đoàn chia rẽ.

Đó thì quý thầy thấy: từ cái miệng lưỡi, mà chúng ta sống chung nhau ở trong một cái tăng đoàn tu tập như thế này mà nếu không có cái hạnh độc cư thì quý thầy từ cái ngày mà vào đây, thì chỉ hơn một tháng thôi, nếu mà người này đến thất người kia nói chuyện mà không giữ độc cư, thì những cái sự kiện nó xảy ra không thể lường được! Nó có những cái mà làm chúng ta bất an trong cái bước đường tu tập.

(11:01) Cho nên vào đây thì đã khép chặt, các thầy phải hoàn toàn sống độc cư. Để làm gì? Sống độc cư để giữ cho mình được, mọi người được yên tịnh tu tập nó mới có kết quả. Còn nếu mà sống ồn náo như cái chợ thì tức là không thể nào mà có thể tu tập được.

Cho nên ở đây chúng ta phải trau dồi cái miệng, cái lời nói của chúng ta, giữ gìn nó rất là cẩn mật, im lặng là tốt, mà nói là không tốt.

Nói chung tất cả mọi sự đau khổ trên thế gian này sinh ra phần nhiều là do miệng lưỡi.

Quý thầy thấy cái sự đau khổ của con người ở trong thế gian này thì phần nhiều là do miệng lưỡi mình mà ra hết, chớ không phải là ở đâu mà có hết. Do miệng lưỡi mà ra rồi nó mới xảy ra chuyện này, chuyện nọ, chuyện kia, đủ thứ hết. Còn nếu mà chúng ta sống trầm lặng thì chắc chắn là khó mà có những cái sự kiện xảy ra đau khổ.

Vậy quý thầy hằng ngày cần phải trau dồi miệng lưỡi. Khi nói phải nói cho người vui, không được nói cho người buồn. Quý thầy phải dùng Như Lý Tác Ý câu này:

“Ta không nói thì thôi, mà hễ nói ra thì phải nói làm vui lòng mọi người!”

Đó là cái một câu để nhắc nhở mình không có nói ra mà làm ai buồn, mà nói ra là giúp cho người ta vui, giúp cho người ta tinh tấn tu hành, giúp người ta hân hoan trong cái sự tu hành giải thoát thì mình nên nói lời nói đó ra.

Đó thì, cái câu mà hướng tâm như vậy Thầy chỉ đại khái, sau này quý thầy tự soạn ra lấy những cái câu để nó phù hợp với cái đặc tướng của mình mà mình thực hiện nó hợp, nó có kết quả tốt.

Chính vì nói ra mà làm vui lòng người là ta đã biết thương người như chính thương thân ta.

Đó thì cái lời nói mà chúng ta làm cho người khác đừng có buồn, đừng có khổ, là chính mình đã thương người đó, chớ không phải là gì khác. Còn mình nói ra người ta buồn khổ, người ta giận hờn, người ta đau đớn, đó là mình không thương người đâu.

Lời nói chúng ta nó trực tiếp lắm, nói ra làm cho người ta vui mừng, nói ra làm cho người ta buồn khổ, người ta khóc than, thì cái lời nói rất là phải cẩn thận.

Đối với người tu sĩ đạo Phật thì càng cẩn thận hơn nhiều. Người cư sĩ ở ngoài đời còn đang chung đụng với mọi người thì cái lời nói phải cẩn thận không thua gì người tu sĩ.

Kế đó, ta phải Như Lý Tác Ý câu này nữa:

“Làm người ta phải thương người đau khổ cũng như ta đau khổ!”

Nghĩa là mình nhắc như vậy để cho mình nhớ rằng: Mọi cái sự buồn giận đau khổ của người cũng chính là cái sự đau khổ của chính mình. Mình không nhắc, nó quên mất đi, nó không biết, nó chỉ biết mình đau khổ chớ không biết ai đau khổ hết.

Cho nên vì cái sự vô tình mà không biết người đau khổ đó, vì vậy mà mình chỉ nghĩ đến mình không đau khổ mà thôi, cho nên mình mở miệng ra là mình nói làm cho người ta đau khổ vô cùng.

Vì con người đang ở trong cái dục, cái lòng ham muốn, mà người ta muốn cái gì đó mà không được mà mình nói ra một cái lời nói ngăn cản là họ đã đau khổ rồi.

Bây giờ về cái phần mà - đã trau dồi về cái miệng của chúng ta, nó có hai phần mà chúng ta đã tu tập, đã biết cách để trau dồi cái miệng của chúng ta rồi - thì bây giờ đến cái phần mà trau dồi của cái ý.

2- TRAU DỒI TÂM TỪ Ý HÀNH

2.1- THƯƠNG YÊU VÀ CHĂM SÓC CHÚNG SANH NHƯ CHÍNH CON MÌNH

(14:26) Trưởng lão: Bây giờ cái phần mà trau dồi cái ý thì chúng ta thấy: Hồi nãy Thầy có giới thiệu là cái ý của chúng ta nó có ba cái phần trau dồi.

Muốn trau dồi ý có lòng Từ ta phải tư duy:

“Thân tất cả chúng sanh như thân ta, thường đau khổ, thường đói khát; ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chính chăm sóc thân ta, chăm sóc như con ta!”

Đó là một cái câu hướng để mà chúng ta bắt đầu vào trau dồi cái ý thì chúng ta phải nhắc cái ý chúng ta thường phải tư duy những cái điều đau khổ của chúng sanh cũng chính như là đau khổ của chính mình,

“…​ cũng như chăm sóc con ta vậy!”

Đó là chúng ta phải nhắc nhở cái câu này để hằng ngày, hằng lúc nó thấm nhuần trong cái ý của chúng ta. Do vì vậy mà từ cái miệng chúng ta nói ra, từ cái thân hành của chúng ta nó làm ra hành động này, hành động kia đều toát ra cái lòng thương yêu chân thật nơi tận đáy lòng của mình.

Bởi vì cái ý là cái chính, do ý cái miệng mới nói, do ý cái thân chúng ta mới hành. Mà cái chính mà không được trau dồi cho thấm nhuần thì những cái phụ kia làm sao mà được thấm nhuần?

Cho nên ở đây trau dồi cái ý rất là phải cẩn thận, vì cái ý là tư duy, mà tư duy như vậy trong Bát Chánh Đạo thì có cái nẻo mà Phật gọi là Chánh Tư Duy, tư duy đem lòng Từ chúng ta thương xót chúng sanh tức là Chánh Tư Duy. Suy nghĩ chơn chánh đem lại cho người không khổ, mình không khổ thì đó là Chánh Tư Duy.

Sự tư duy này để giúp cho ý chúng ta càng ngày càng dồi dào lên lòng thương yêu chúng sanh. Sự tư duy này được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần khi chúng ta nhìn thấy những loài vật xung quanh ta, hoạt động xung quanh ta, biến nó trở thành những pháp hướng.

Nghĩa là chúng ta nhìn tất cả mọi vật, như chúng ta nhìn một đoàn kiến đi ngang qua, chúng ta nhìn sự hoạt động của chúng trong cái đoàn kiến, thì chúng ta thấy nó có những cái sự buồn, vui, đau khổ ở trong đó lẫn lộn; rồi có những cái sự tấn công của con vật khác vào trong cái đoàn kiến này, chúng bảo vệ bằng cách nào chúng ta thấy rất rõ ràng.

Từ đó chúng ta có sự suy tư rất là chơn xác, thì chúng ta nhìn lại: Cái đời của con người chúng ta cũng giống như những con vật này, từ đó chúng ta mới toát ra những cái tư tưởng, cái sự tư duy thương yêu chân thật của muôn loài.

Nếu chúng ta không có dùng cái ý để quan sát, để theo dõi từng cái sống của loài vật thì chúng ta chưa thấy được cái sự chà đạp, xâu xé lên nhau vì miếng cơm, manh áo, vì vật chất, thực phẩm. Nếu chúng ta quan sát kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ có những cái bài học có giá trị xứng đáng cho chúng ta tập tu Tứ Vô Lượng Tâm.

(17:38) Khi thấy chúng hoạt động trong cuộc sống ta khởi lòng Từ.

Khi có con vật nào gặp tai nạn ta vội cứu giúp ngay.

Nghĩa là nó đang đi như vậy, rủi nó rớt ở trong cái vũng nước nào đó, thì chắc chắn là cái vũng nước đối với ta thì nhỏ nhưng nó là cái biển đó, nó sẽ chết đuối ở trong đó. Cho nên chúng ta vội vàng mà lấy một cái vật hay hoặc là đưa ngón tay làm cái cầu cho chúng trèo lên để thoát ra khỏi chết đuối.

Thấy một con kiến rơi trong vũng nước, ta vội ngay vớt liền để chúng khỏi chết đuối.

Chúng ta thực hiện cái hành động đó gọi là hành động Từ tâm của chúng ta đối với chúng sanh.

Và khi chúng ta có quan sát, có khởi ý tu tập, trau dồi cái ý mình bằng cách cẩn thận quan sát tư duy như vậy thì tất cả mọi loài vật xung quanh chúng ta đều có sự cứu khổ của chúng ta.

Như chúng ta nghe một con vật khác lớn hơn bắt một con vật khác, tiếng kêu la cầu cứu, chúng ta đừng nhẫn tâm mà ngồi đó, mà hãy mau mau đến cứu con vật nhỏ bé. Vì con vật nhỏ bé cũng muốn sống nhưng con vật lớn hơn thì tìm con vật nhỏ bé để mà ăn thịt, để làm mồi, để nuôi sự sống của mình mà giết hại con vật khác.

Lòng Từ chúng ta luôn luôn lúc nào cũng can thiệp vào sự đau khổ của chúng sanh, không thể để cho chúng sanh đau khổ trước cảnh chết chóc như vậy. Không nghe tiếng kêu mà thôi, nghe tiếng kêu thì vội vàng chúng ta mau mau chạy đến nơi đó để cứu khổ những con người, những con vật đang khổ đau.

Và cái hành động mà chúng ta mau mau đó tức là chúng ta đã trau dồi lòng Từ của chúng ta. Còn chúng ta thấy thản nhiên tức là lòng Từ chúng ta nó không bao giờ có được.

Hôm nay, quý thầy về đây được nghe những lời để trau dồi lòng thương yêu chân thật bằng những hành động rõ ràng, không thể nào mà thiếu khuyết được trong bước đường tu theo đạo Phật.

Như hôm qua Thầy đang ngồi viết, dòng tư tưởng đang trôi chảy, thì bỗng nghe một tiếng con chim nhỏ kêu, thì Thầy vội vàng chạy ra để tiếp cứu, làm cho con chim lớn không còn cắn con chim nhỏ.

Do cái sự kêu la của loài vật như vậy mà lòng Từ chúng ta thực hiện, nghe tiếng la là vội vàng không thể nào làm ngơ trước - mặc dù đang ngồi viết say mê - Thầy không thể làm ngơ được, mặc dù dòng tư tưởng sẽ bị cắt đứt đi nhưng vẫn thản nhiên chạy ra để cứu lấy một con vật. Đó là cái hành động trau dồi lòng Từ của mình.

Thì các thầy phải hiểu biết là đây Thầy muốn nhắc để quý thầy đừng vô tình: “Mặc chết nó mặc, làm gì nó làm, mình phải lo làm công việc mình cho rồi!” Công việc của mình là công việc biết chừng nào mà cho rồi?

Đời người còn sống là còn việc làm, mà trước cái đau đớn của chúng sanh thì chúng ta không thể nào mà làm ngơ được. Do từ cái hành động không làm ngơ được tức là chúng ta đã trau dồi lòng Từ của chúng ta đó.

Để lấy những cái kinh nghiệm bản thân của Thầy mà nhắc nhở quý thầy, từ đây chúng ta sẽ tu tập, trau dồi thật sự, siêng năng tu tập vì chính lòng Từ nó sẽ cứu khổ chúng ta.

Vì thế, hằng ngày chúng ta tư duy:

“Tất cả chúng sanh như con ta, ta phải thương yêu và không bao giờ làm đau khổ chúng sanh!”

2.2- QUAN SÁT MỌI CHÚNG SANH ĐỂ THƯ GIÃN VÀ RÈN LUYỆN Ý TỪ

(21:00) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta đã trau dồi cái ý của chúng ta ở trong cái lòng Từ. Như vậy thì chúng ta cũng đã hiểu rằng, sự tu tập của chúng ta mà trau dồi cái ý Từ như vậy là luôn luôn những cái hành động nào, nhìn cái sự hoạt động nào của chúng sanh chúng ta cũng phải để tâm quan sát để chúng ta theo dõi rồi tư duy. Từ cái tư duy, cái ý Từ nó mới thể hiện ra được.

Còn nếu mà chúng ta cứ lo công chuyện của mình, bây giờ cứ lo ngồi tu hoặc này kia thì quý thầy không phải là người trau dồi.

Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ, thay vì chúng ta mệt nhọc là lại chúng ta lo tu cái kia cho mau, nhưng mà không trau dồi cái tâm Từ của chúng ta thì chúng ta đang (có) sự thiếu khuyết.

Nhiều khi chúng ta ngồi nghỉ mà chúng ta nhìn một cái đoàn kiến hay hoặc là đôi ba con kiến đang bò ở trên sân, tức là chúng ta đã thư giãn tâm hồn chúng ta trong cái hành động đó rồi. Nó làm chúng ta trở lại cái thời gian tu tập, nó lại làm chúng ta tu tập có chất lượng hơn.

Còn bây giờ chúng ta sợ mất thời gian, chúng ta cứ ngồi tu hơi thở hoài hoặc là quán vô lậu hoài, riết nó nhàm chán, rồi nó ngao ngán, nó buồn khổ.

Thay vì chúng ta dành ra những cái giờ mà chúng ta ngồi, thấy những đàn kiến, thấy những con vật nó đang làm việc hay hoặc là nó đang tai nạn, nó đang gặp khổ, thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện những cái tâm trau dồi lòng Từ, thì lúc bấy giờ chúng ta đã thư giãn các pháp mà chúng ta đang tập luyện.

Do đó khi mà chúng ta đã trau dồi lòng Từ thì lúc bấy giờ nó có những cái điều kiện mà chúng ta đã giúp được những con vật thoát ra những cảnh khổ đau, làm cho chúng ta có cái tâm rất là vui mừng, vì vậy mà khi ngồi lại thì nó rất là tỉnh táo, cho nên chúng ta thấy nó sung sướng, do đó mà chúng ta tu tập thì cái chất lượng tu tập về thiền định cũng như các cái định khác thì nó lại làm cho chúng ta có một cái kết quả rất lớn hơn.

Còn chúng ta cứ miệt mài - bây giờ cứ biết đi kinh hành rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, rồi ngồi lại tu Vô Lậu, rồi giữ tâm thanh thản, rồi giữ hơi thở, tu cái này cái kia mãi thì cái lòng Từ chúng ta không có, cho nên chúng ta hoàn toàn là bị động, hoàn toàn là chúng ta làm việc quá 24 giờ trên 24 giờ thì như vậy cái chất lượng tu nó không có kết quả.

Còn trái lại chúng ta, có lúc thì chúng ta trau dồi những cái quan sát của chúng ta nó làm cho cái tri kiến của chúng ta càng ngày càng phát triển rất lớn và rất rộng.

(23:22) Chúng ta thấy được cái sự sinh hoạt của chúng sanh, thấy được cái sự sinh hoạt của con người và suy ngẫm, tư duy thì chúng ta thấu suốt được cái cuộc sống nó giả tạo thật, nó không có cái gì là hạnh phúc của con người cả, của con vật cả.

Từ cái chỗ mà quan sát đó nó đem chúng ta có những cái thông suốt, cái trí tuệ chúng ta càng phát triển ra nữa. Cho nên chúng ta tu tập, biết mà sử dụng đúng cách thì đem lại lợi ích chúng ta rất lớn, tâm hồn chúng ta rất an lạc.

Còn nếu mà chúng ta cứ mải mê ngồi thiền, nhập định, làm chủ sanh tử, nhưng cái tâm Từ, trau dồi những cái tư duy thiện này, trau dồi những cái ý tốt này mà không thực hiện thì như chúng ta đã quên đi một cái điều rất là quan trọng trong cuộc sống tu hành của mình.

Đó thì, hôm nay Thầy nhắc nhở qua cái điều kiện mà trau dồi cái ý ở trong cái Tứ Vô Lượng Tâm này, thì quý vị phải thường xuyên bỏ một cái thời gian trong một ngày, một đêm, ít ra thì cũng phải có năm hoặc là mười phút, hoặc là nửa phút, hoặc là nửa tiếng đồng hồ, hoặc là một tiếng đồng hồ, thì quý thầy sẽ trau dồi cái tâm Từ của mình, trau dồi cái ý Từ của mình trong cái sự quan sát tất cả chúng sanh, để rồi có những con vật nào, có những tai nạn, có những cái hành động, rồi quan sát tất cả những cái xung quanh chúng ta: âm thanh, tiếng kêu la hoặc là tiếng kêu cầu cứu của loài vật, thì chúng ta mau mau hành động để biến ra hành động thân - khẩu - ý của mình, để tạo cho nó có những sự an vui, hạnh phúc.

Đó là chúng ta trau dồi những cái điều kiện đó làm chúng ta thư giãn được khi chúng ta tu hành thiền định, giúp cho chúng ta nhiều sự tu tập có kết quả là do chúng ta biết tu tập.

Vì từ xưa đến giờ không có người vạch ra cái lối tu đúng theo cái cách thức của Đức Phật, cho nên chúng ta tu cái trước, cái sau nó không phù hợp.

Lẽ ra thì như cái giáo án này, thì quý thầy thấy: Bước đầu người cư sĩ đến với đạo Phật thì ngay đây là cái pháp đầu tiên mà Thầy đã dạy cho các cư sĩ và cũng như các thầy, là phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, là trau dồi nó. Mà trau dồi nó thì bắt đầu nó mới có cái hiệu quả của cái sự tu hành sau này của quý thầy! Quý thầy thấy rất rõ.

Còn bây giờ quý thầy thấy, từ lâu tới giờ nói Tứ Vô Lượng Tâm thì quý thầy nghe như vậy, chớ quý thầy có biết làm sao mà trau dồi nó? Cho nên không biết trau dồi nó, vì vậy mà quý thầy lấy cái sau mà tu cái trước, lấy cái trước mà tu cái sau.

(25:50) Quý thầy nói không tham, không sân, không si bằng cách là vô lậu như thế này, thế khác, tu Định Vô Lậu nhưng đâu bằng tu lòng Từ! Vì có thương yêu thì tham, sân, si làm sao có?

Các thầy thấy phải đó là cái mấu chốt ban đầu để chúng ta đi vào trong cái tâm không còn tham, sân, si, phiền não nữa?

Vì vậy, chúng ta phải tu tập nó có từng bước của nó, nó thực hiện. Mà nếu mà trau dồi lòng Từ, trau dồi những hành động thân, khẩu của mình, mà lòng Từ nó có phải là tập trung tâm của chúng ta, đè nén tâm chúng ta đâu? Bằng chứng là chúng ta tu tập đúng cách là chúng ta xả tâm chớ không phải là nén tâm.

Còn bây giờ quý thầy không hiểu, cứ ngồi dùng hơi thở hoặc một cái pháp môn nào đó nén tâm mình mãi thì lòng Từ làm sao có được? Và cứ nghĩ rằng mình sẽ tu tập như vậy để làm chủ sanh tử, để chấm dứt luân hồi. Mà cái luân hồi là cái tâm tham, sân, si của chúng ta; tâm tham, sân, si mà không có lòng Từ thì làm sao dứt bỏ được?

Đó thì, hôm nay mới thấy rõ được cái lối đi đúng đắn. Người cư sĩ mà thực hiện được lòng Từ, trau dồi được lòng Từ thì đời sống của họ hạnh phúc biết bao nhiêu!

Họ chưa đòi hỏi ở sự giải thoát gì cao hơn của đạo Phật, chỉ ở Tứ Vô Lượng Tâm cũng đủ cho họ đã đem lại hạnh phúc của đời sống của họ rồi, và xã hội có một trật tự rất là an ổn, không còn cái rối trật tự nữa.

Cho nên nếu mà theo đúng đạo Phật như Thầy đã giảng cho quý thầy thấy, cái giai đoạn của người cư sĩ từ cái hành động - tất cả hành động đối xử với nhau Đức Phật dạy rất rõ. Do cái sự rất rõ này mà chúng ta biết rằng ông Phật đã dạy chúng ta để sống một cuộc sống đem lại hạnh phúc an lành cho nhau.

Người cư sĩ phải thực hiện được những điều đó, hiểu được những điều đó, sống được những điều đó và tiếp tục trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì đời sống còn gì là địa ngục? Toàn cả là thiên đàng!

Cho nên Từ Bi - bắt đầu mà tu một năm cho đến hai năm mà trau dồi cái Tứ Vô Lượng Tâm này qua những hành động thân, khẩu, ý của quý vị, chắc chắn là quý vị sẽ có một hạnh phúc rất lớn, một sự giải thoát chân thật ở tâm hồn của quý vị và cả gia đình của quý vị.

Từ lâu tới giờ chúng ta đã theo đạo Phật bao nhiêu năm? Năm năm, mười năm, hai mươi năm rồi, mà nhìn lại sự giải thoát, sự an bài cho gia đình của mình có được hay không? Hay còn đang ở trong địa ngục?

(28:16) Điều này chứng minh chúng ta biết rằng, đạo Phật đến thì có sự giải thoát thật sự, mà đến mà không có sự giải thoát thật sự thì chính đó không phải của đạo Phật.

Vì vậy hôm nay, về trau dồi ý thì quý thầy phải siêng năng, phải quan sát mọi vật. Khi đứng trước một cái cây, chúng ta nhìn sự sống của nó như thế nào? Những làn gió thổi, những hạt sương rơi trên cây chúng ta nhìn thấy sự thấm nhuần của sự sống nó như thế nào để chúng ta tỏa lòng Từ thương yêu chúng từng chút.

Nếu chúng ta không chịu khó quan sát, không chịu khó ý tứ như vậy thì khó mà chúng ta thông cảm được lòng thương yêu chúng ta đối với chúng. Muốn thực hiện được điều này thì phải cần có thời gian để quan sát, để thấm nhuần từng cái sự sống của muôn loài.

Có bao giờ quý thầy ngồi nhìn một cây cỏ? Từ một cái chiếc lá non trong lòng ngọn cỏ, rồi tuần tự trong những đêm trăng, tuần tự chúng ta thấy lần lần cái chiếc lá đó bung lên, dài ra lần lần. Chúng ta thấy sự sống dường như là sự sống của chúng ta. Quý thầy có suy nghiệm được điều đó không?

Trong những năm ở trên Hòn Sơn, một thân một mình độc cư Thầy lấy cỏ cây mà làm bạn. Vì vậy mà Thầy ngồi Thầy quan sát, từ đó Thầy mới hiểu trau dồi lòng Từ, ý Từ của mình phải trau dồi nơi đây!

Vì vậy mà hôm nay, Thầy mới ghi lại những điều kinh nghiệm qua bản thân của mình để cho quý thầy lấy đó mà thực hiện. Trong kinh sách không ghi điều này nhưng vì kinh nghiệm đã dạy Thầy có lòng Từ thương từ loài cây cỏ.

Loài cây cỏ còn thương thì làm sao loài vật không thương? Mà loài vật còn thương thì làm sao mà loài người không thương?

Tất cả các thầy kẻ thì vầy, người thì khác, kẻ ý này, người ý khác, nhưng mọi ý đều là sự thương yêu của Thầy. Thầy không bỏ người nào hết. Thầy không ghét dơ người nào hết, người nào làm gì thì Thầy cũng thương. Thầy không bỏ người nào, dù người đó có nói Thầy cách gì Thầy cũng thương yêu, bởi vì Thầy hiểu họ chưa hiểu mà thôi.

Cho nên lòng Từ nó đem lại cho tâm hồn Thầy một tâm hồn thanh thản, giải thoát; không có người thù hận mình mà chỉ có biết những người chưa hiểu và những người còn lầm lạc mà thôi, chớ không biết người đó là người thù của mình.

(30:48) Bây giờ Thầy sẽ dạy đến cái lòng Bi, lòng Từ đã hết rồi.

Vậy thì quý thầy nhớ kỹ những gì mà Thầy nói nãy giờ để trau dồi cái ý, cái ý trau dồi rất quan trọng. Nếu mà cái ý trau dồi được thì cái hành động khẩu và thân của quý vị không khó nữa, không có khó khăn.

Đó thì quý vị nhớ ngồi quan sát mọi vật đó là trau dồi ý của chúng ta, từ đó chúng ta mới tỏa ra một cái sự thương yêu chân thật trong sự tư duy của nó.

Như vậy là quý Thầy đã biết trau dồi được cái ý qua lòng Từ. Bây giờ thì Thầy dạy tới lòng Bi. Nội có một cái hành động Từ mà nãy giờ đã chiếm chúng ta nhiều cái thời gian, quá nhiều.

Mà bốn cái Từ - Bi - Hỷ - Xả này thì Thầy thấy chắc còn một phần nữa chớ không thể nào mà ngày hôm nay mà chúng ta sẽ chấm dứt được trau dồi bốn cái Vô Lượng Tâm này được, mà chỉ đi từng phần để nhắc nhở kỹ.

Vì đây là lời nói sau cùng của Thầy, Thầy không còn thuyết giảng nữa, do đó Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều để cho quý thầy nhớ mà thực tập, đừng quên. Vì đó là con đường giải thoát chân thật của Đức Phật đã dạy: Tứ Vô Lượng Tâm.

3- TRAU DỒI TÂM BI

3.1- BI VÔ LƯỢNG LÀ TÌNH THƯƠNG RỘNG LỚN TRƯỚC SỰ ĐAU KHỔ

(32:00) Trưởng lão: Bi Vô Lượng là lòng thương rộng lớn vô bờ bến trước những nỗi đau khổ của chúng sanh.

Người có lòng Bi thương rộng lớn không thể làm ngơ trước nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn quyết tâm để làm gì dứt trừ những nỗi khổ đau ấy.

Nghĩa là cái lòng Bi như hồi nãy Thầy đã giải thích cho quý thầy thấy: Lòng Từ thì đối với những con vật đang mạnh giỏi, không có tai nạn, mà lòng Bi là nó có những sự đau khổ, có những sự tai nạn, cho nên chúng ta phải làm sao dứt trừ được những cái sự đau khổ đó. Thấy một người bệnh tức là lòng Bi chúng ta đó chớ không phải lòng Từ.

Đó thì quý thầy đã hiểu, như vậy chúng ta mới biết được cái chỗ Từ Bi chúng ta như thế nào. Mà hiểu được thì lúc bấy giờ chúng ta phải làm sao? Không thể làm ngơ!

Cũng như bây giờ, Thầy nghe một con chim lớn nó bắt một con chim nhỏ, mà con chim nhỏ kêu hét lên để cầu cứu, thì trước cái đau khổ, trước cái sự sống chết của con chim trong chớp mắt mà làm ngơ không chạy (đến) thì không phải là người trau dồi lòng Bi.

Cho nên, người trau dồi lòng Bi thì mau mau để mà thực hiện cái tâm Bi của mình trước cái sự đau khổ đó, trước cái sự chết đó của con vật.

Người có lòng Bi thương rộng lớn không thể làm ngơ…​

Đó lấy cái sự làm ngơ đó. Còn bây giờ cái lòng Từ của chúng ta đối với chúng sanh mà nó không bệnh đau thì mình có làm ngơ gì đâu, nhưng mà nó có đau đớn đâu?

Cho nên chúng ta phải thực hiện cho đúng cái lòng Bi của chúng ta là không được làm ngơ, không được chậm trễ. Vì có sự chậm trễ trong đó thì chúng sanh có sự đau khổ dài hơn.

Người có lòng Bi rộng lớn không thể làm ngơ trước những nỗi đau khổ của chúng sanh và luôn luôn có tâm quyết để làm những gì dứt trừ những sự đau khổ đó.

Nghĩa là ngay liền mình tìm mọi cách làm sao cho cái con vật mà đang bị đau khổ đó đừng đau khổ nữa, thì đó là gọi là trau dồi lòng Bi.

Tuy rằng, biết nỗi đau khổ của thế nhân và tất cả chúng sanh đều do nhân quả ác - thiện mà sanh khởi…​

Đó thì chúng ta biết rõ ràng mà, tất cả những cái sự đau khổ của chúng sanh mà giết lẫn nhau thì đó là do cái nhân quả, chớ đâu phải gì khác hơn?

…​ nhưng trước cảnh rên la thảm khốc đầy đen tối của kiếp người, của kiếp chúng sanh, người có lòng Bi không thể làm ngơ được.

(34:29) Biết là nhân quả, nhưng chúng ta nghe tiếng kêu la là chúng ta không thể làm ngơ được khi chúng ta là người quyết tâm tu tập, trau dồi lòng Bi.

Luôn phải dùng lời an ủi, khuyên bảo, dùng tay xoa dịu những vết thương đau, nhẹ nhàng để làm những vết thương đó giảm bớt cơn đau của chúng sanh, của người khác.

Nghĩa là trước cái cảnh mà bây giờ có một con vật nó bắt một con vật nó cắn đi, rồi chúng ta đuổi đi, con vật bây giờ đứng dậy không nổi, bởi cái vết thương con vật khác đã làm cho con vật đó sắp sửa chết đi, bị gãy chân, bị què tay, hay hoặc bị thương tật ở trên mình, thì lúc bây giờ chúng ta mới nâng con vật rất nhẹ nhàng, để con vật ngay ngắn lại, rồi chúng ta vuốt ve nhẹ nhàng, rồi chúng ta tìm cách xoa dịu những cái vết thương đau của chúng như chính chúng ta bị đau, rồi chúng ta xoa cái tay nhẹ trên vết thương của chúng ta vậy.

Đó là chúng ta thực hiện lòng Bi của chúng ta.

Chúng ta đừng có lấy cái thì giờ mà chúng ta sợ mất đi trong cuộc sống của chúng ta, mà hãy lấy lòng thương yêu của chúng ta, bỏ tất cả xuống hết, chỉ có lòng thương yêu của chúng ta là duy nhất ở trong cuộc đời này.

Vật chất quý thầy có cố gắng làm, tiêu phí nó cũng chẳng ra gì. Vật chất, của cải, vàng bạc, châu báu nó cũng chẳng bằng khi mà chúng ta bỏ cái thời gian để xoa dịu cái vết thương đau của loài vật thì cái điều đó nó quý biết bao nhiêu! Nó quý hơn là vàng bạc, nó quý hơn là châu báu, nó quý hơn là ngai vàng của nhà vua.

Lòng thương yêu đó, sự xoa dịu đó nó làm cho tâm hồn của quý vị hân hoan, vui sướng khi chúng ta làm được những điều này. Vàng bạc, của báu không thể đem đến sự hân hoan này được, mà vàng bạc của báu lại còn làm cho quý vị đau khổ hơn nhiều. Còn sự xoa dịu vết thương đau trong lòng Từ Bi của mình với chúng sanh thì đem lại cho chúng ta nguồn vui lâu dài.

3.2- LÀM CHO CHÚNG SANH HIỂU ĐƯỢC NẺO THIỆN ĐỂ TỰ CỨU MÌNH

(36:42) Trưởng lão: Phải luôn luôn khiến cho chúng sanh nhận nẻo thiện.

Nghĩa là mọi người, mọi vật, mình làm sao cho chúng đi vào cái nẻo thiện.

Bởi vì mình biết rõ được nhân ác thì phải thọ lấy cái quả khổ, mà nhân thiện thì sẽ được hạnh phúc.

Do muốn được hạnh phúc đó cho nên chúng ta phải tìm mọi cách làm sao cho chúng sanh hiểu được cái nẻo thiện để xa lìa cái nẻo ác, để tránh xa cái ác, để cho tự họ, họ đã cứu lấy họ mà họ không còn đau khổ nữa.

Chớ nếu mà cứ để họ làm điều ác, họ gặp khổ thì chúng ta lại thương yêu họ, giúp đỡ họ thì mãi mãi biết chừng nào chấm dứt cái nhân quả thiện ác này? Cho nên, thương yêu thì thương yêu, khi họ chưa hiểu nhân quả chúng ta giúp đỡ, mà khi họ đã hiểu nhân quả thì họ đã cứu họ rồi.

Vì vậy chúng ta muốn cho họ được yên vui, được hạnh phúc, không còn trên những tai nạn, đau khổ nữa thì chúng ta phải hướng dẫn họ bằng con đường thiện, bằng nẻo thiện, do những hành động thiện sẽ đưa đến họ những hạnh phúc an vui, không tai nạn, không khổ đau.

Vì vậy điều cần thiết là chúng ta từ trong cái nhân tốt để cho họ được thoát ra cái quả khổ, hành động ác, lời nói ác hoặc làm việc ác, và luôn luôn giúp mọi người làm việc lành.

Nghĩa là điều lành nào chúng ta cũng giúp cho họ, mà điều ác thì chúng ta ngăn cản họ, không cho họ làm, và đó là chúng ta Bi đối với chúng sanh. Tức là lòng Bi của chúng ta phủ trùm với chúng sanh.

Thấy hai con vật đang tranh nhau, đang đánh nhau thì chúng ta can ra và đồng thời chúng ta làm cho chúng dịu bớt cơn giận, từ đó chúng không còn cắn nhau nữa.

Các thầy cứ tự nghĩ, có những lúc Thầy ngồi nhìn hai con kiến cắn lộn, rồi Thầy lấy một cái cây Thầy can hai con kiến ra, rồi nó cũng sáp lại nó cắn nữa…​

(38:41) Thầy tiếp tục cái bài giảng Tứ Vô Lượng Tâm.

Khi mà Thầy nhìn thấy hai con kiến cắn nhau rồi Thầy can nó ra, nhưng rồi nó lại sáp lại cắn nữa. Do đó Thầy phải dùng cái cây Thầy khều hai con kiến dang rất xa ra. Rồi lần lượt nó từ từ nó không còn giận nữa, không còn sân nữa, rồi nó bỏ đi không cắn nhau nữa.

Vì vậy mà Thầy biết rằng tâm sân của loài vật cũng rất là dữ tợn chớ không phải ít, nếu mà cái lòng sân của nó đối với con người chắc chắn là cũng không thua. Cho nên qua cái nhìn hành động của chúng Thầy biết là có thể chúng giết nhau bằng cái lòng sân của chúng.

Vì vậy mà chúng ta là những người trau dồi cái tâm Bi để thương chúng sanh thì làm sao cho giảm bớt cái sân hận ở trong lòng của chúng sanh thì đem lại cái hạnh phúc cho chúng sanh.

Tức là muốn thực hiện cái tâm Từ thì phải ngăn ngừa những cái điều có thể xảy đến cho chúng sanh đau khổ, còn tâm Bi thì chúng ta thực hiện ngay trên sự đau khổ mà an ủi, xoa dịu cái vết thương của chúng sanh.

3.3- NHẮC TÂM THƯƠNG MỌI CHÚNG SANH ĐANG ĐAU KHỔ

(39:59) Trưởng lão: Muốn trau dồi được như vậy thì lúc nào chúng ta cũng thường nhắc nhở tâm ta:

“Hãy thương người đang sân!”

Nghĩa là hằng ngày mình muốn cho tâm mình đừng có sân giận người thì mình thường dùng cái pháp hướng, như cái lý mình tác cái ý ra:

Hãy thương người đang sân!”

Đó là cái câu mà chúng ta thường nhắc ở trong tâm của chúng ta, khi lúc nào rảnh rỗi là chúng ta thường nhắc cái câu đó, chớ không phải nhắc nội cái tâm mình: “Tâm đừng sân, đừng có hận!” thì nó chưa đủ, mà ở đây mình trau dồi cái tâm mình thương người cho nên mình hãy nhắc:

Hãy thương người đang sân!”

Họ đang sân với mình đó, chớ không phải sân với người khác đâu, nhưng mà mình hãy thương người đang sân.

Do cái câu hướng tâm như vậy, trạch cái pháp hướng tâm như vậy thì chúng ta có một cái câu để nhắc nhở tâm mình thường xuyên, vì vậy mà nó thấm nhuần. Từ đó nhìn cái người mà đang sân với chúng ta, chúng ta vẫn thương họ được.

“Hãy thương người đang bệnh khổ!”

Nghĩa là chúng ta bây giờ tuy rằng thấy người ta khổ chúng ta thương, nhưng mà thương chưa bằng thương cái sự đau khổ của chính mình đâu. Cho nên chúng ta thường hay nhắc nhở:

Hãy thương người đang bệnh khổ!”

Đó là một cái trạch pháp để chúng ta thường nhắc nhở tâm mình.

Kế đó, chúng ta lại dùng một cái trạch pháp khác, thì chúng ta lại nhắc nhở tâm mình:

Hãy thương người đang buồn khổ!”

Để làm gì? Để chúng ta tìm mọi cách mà an ủi những người đó, để chúng ta gợi lên những cái lòng thương yêu của chúng ta đối với những người đang buồn khổ đó.

Kế đó thì chúng ta lại dùng một cái trạch pháp khác để chúng ta nhắc cái tâm của mình nữa:

“Hãy thương người có tai nạn!”

Nghĩa là gặp ai có tai nạn thì chúng ta hãy thương, tức là chúng ta trau dồi tâm Bi của chúng ta đó. Đó là một cái câu để mà chúng ta hướng tâm như cái lý mà chúng ta tác ý ra để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái tâm Bi của chúng ta đối với chúng sanh, đối với con người.

(42:09) “Hãy thương người tham lam trộm cắp”.

Đó, thường thường người ta thấy kẻ tham lam trộm cắp là thấy ghét rồi. Bây giờ chúng ta phải thấy thương cái người tham lam trộm cắp. Vì chúng ta biết được cái nhân của cái người tham lam trộm cắp là họ sẽ nghèo khổ, họ sẽ đói rách, cho nên chúng ta hãy thương người tham lam trộm cắp, và chúng ta tìm mọi cách để chỉ cho họ thấy rằng cái sự tham lam, trộm cắp đó là cái nhân đưa đến cái quả nghèo khổ, đói rách, đừng tham lam trộm cắp nữa!

Vì mình thương người cho nên mình thấy cái người tham lam trộm cắp đó họ đến họ ăn cắp của mình, mình không có giận hờn, mình không có ghét họ, vì vậy mà mình tìm mọi cách để cho mình giúp họ. Do đó mình mới trau cái lòng Bi của mình, lòng Từ của mình mới được!

Còn nếu mình không nhắc nhở mình như vậy thì mình thấy người ta ăn cắp của mình là mình tức tối: “Đem mà bắt nó mà đem cho cảnh sát mà bỏ tù nó cho rồi!” thì đó là cái lòng ác chớ không phải lòng Bi, không phải là lòng Từ.

Vì vậy mà chúng ta thường nhắc nhở để trau dồi cái tâm chúng ta, trước những cái con người trộm cắp tham lam mà chúng ta biết thương, vì vậy mà chúng ta sẵn sàng không đánh đập khi chúng lấy đồ chúng ta.

“Hãy thương người đang si mê!”

Nghĩa là cái người đang si mê đó là họ đang nghiện thuốc phiện nè, uống rượu nè, hút thuốc nè, họ say mê bài bạc, rồi say mê tất cả những sự phóng dật, thì chúng ta cũng phải nhắc.

Chớ thấy cái thằng cha uống rượu thấy ghét, nó vô cứ chửi mình hoài, thì cái điều đó các con nghĩ: Mình không có tu tập, không có trau dồi cái tâm Từ của mình!

Thường thường có những người uống rượu họ đi ngang chùa mình cái họ vô, họ vô họ la lối, họ nói này kia, họ nói họ tu, họ tụng niệm, rồi họ chọc ghẹo, họ nói thầy chùa này, thầy chùa khác, trong lúc đó, mình biết là cái người đó đang si mê.

Cho nên chúng ta thường nhắc tâm:

Hãy thương người đang si mê!”

Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cái người uống rượu mà đang say sưa, họ mê muội như vậy, thì mình đâu có trách họ, mình đâu có giận hờn họ, mình đâu có tức giận họ?

Đó, thì như vậy là cái tâm chúng ta biết thương người và cũng từ cái chỗ biết thương người đó, chúng ta được giải thoát, chúng ta không có thấy khổ đau, chúng ta không có phiền muộn ở trong lòng.

Sự tu tập như vậy, trau dồi tâm chúng ta như vậy nó đem lại lợi ích cho chúng ta và cũng không làm khổ người khác, mà mang đến cho chúng ta một cái niềm, một cái sự - mang đến cho người khác một cái niềm an ủi họ, xoa dịu những cái sự đau khổ của họ.

Câu kế nữa:

Hãy thương người đang tị hiềm!”

Trong chúng mình có thấy có người nào mà tị hiềm với nhau: Thấy người này tu hơn, mình thua, rồi sanh ra cái lòng tị hiềm ganh ghét, đó thì, khi mà chúng ta biết cái người đó như vậy thì chúng ta hãy thương người đó chớ chúng ta không nên ghét.

Có nhiều khi mà thấy người ta tị hiềm, người ta kiếm chuyện nói này, nói kia, nói nặng, nói xấu mình thì mình đâm ra mình ghét người đó, thì do đó mình chưa phải là lòng Từ, lòng Bi, mình chưa phải là biết thương yêu người khác.

Cho nên chúng ta hãy thương người đang tị hiềm. Họ đang ghét mình đó, họ đang tị hiềm người này, người kia đó, họ thấy người khác hơn, hay hoặc là thấy cái người đó giàu hơn thì họ sanh tâm nó ganh ghét, do đó thì chúng ta cũng thường nhắc tâm để chúng ta biết thương cái người mà đang có cái lòng tị hiềm đó.

(45:31) Câu kế - để chúng ta trạch pháp câu kế nữa để chúng ta hướng tâm, như cái lý tác ý để diệt cái mạn của chúng ta, tức là ngã mạn:

Hãy thương người đang ngã mạn, cống cao!”

Nghĩa là cái người mà hiu hiu tự đắc, cho mình là hiểu biết, cho mình là chứng đạo, cho mình thế này, thế khác đó, thì cái người đó chúng ta cũng phải thương họ, không nên thấy họ nói những cái điều đó mà mình đâm ra mình ghét hay hoặc là mình nói như thế này, thế khác đối với cái người đó, mà mình phải thương yêu người đó.

Vì người đó họ đang si mê, họ đang cầu cái ngã của họ, cái danh của họ, cho nên họ mới ngã mạn, cống cao như vậy. Chúng ta nên thương họ chớ không nên ghét họ.

Mà khi mà thương họ như vậy thì chúng ta có tranh luận với họ không? Chắc chắn là chúng ta không tranh luận. Và không tranh luận thì nó sẽ đem đến như thế nào? Nó sẽ đem đến cho chúng ta có sự an ổn và cũng chính người cống cao, ngã mạn đó cũng được an ổn.

“Hãy thương người tàn tật!”

Nghĩa là mình thấy cái người mà tật nguyền, đui mù, hoặc là cụt tay, cụt chân thì mình hãy thương xót cái người đó. Mình thấy họ có điều kiện gì mình có thể giúp đỡ an ủi họ.

Trong khi mình đủ lành lặn tay, chân, mắt, tai, mũi, miệng sáu căn đầy đủ, còn họ lại thiếu khuyết, cho nên họ bất hạnh hơn mình nhiều, vì vậy mà thấy người tàn tật thì mình nên thương yêu.

Mặc dù mình nghèo, nhưng mà mình đến mình giúp họ một cái bánh, một đồng bạc hay hoặc là một cái vật dụng gì cần thiết cho đời sống họ: Một cục xà bông, một cái bàn chải đánh răng, một cây kem…​ cũng nói lên cái sự an ủi cái sự tật nguyền của họ, cái sự mất mát của họ trong thân của họ.

Đó là chúng ta thường nhắc tâm để chúng ta biến ra cái hành động của chúng ta, để nói lên cái lòng thương, lòng Từ, lòng Bi của chúng ta.

Sự trau dồi thường nhắc tâm chúng ta mới có thực hiện được. Nếu mà chúng ta không nhắc tâm thì tâm nó sẽ quên đi. Nó quên đi là tại vì nó chạy theo những công việc khác. Nó quên đi là tại vì nó đang lo lắng cho cá nhân của nó, cho nên nó không nghĩ những người xung quanh nó đang bao nhiêu là sự bất hạnh, bao nhiêu là sự đau khổ.

“Hãy thương người già yếu!”

Vì chính chúng ta ngày nào đó cũng già yếu lọm cọm, rồi đi đứng run rẩy, cho nên chúng ta thấy những người già yếu là chúng ta phải kính nhường, kính cho họ lối đi, kính cho họ chỗ ngồi…​, tất cả mọi cái đó để chứng tỏ cái lòng Bi của chúng ta, cái lòng Từ của chúng ta đối với những người đang khổ sở trong cái tuổi già còm, trong cái sức yếu mòn.

Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải thực hiện và chúng ta thường nhắc nhở.

(48:33) Và cuối cùng thì chúng ta hãy đặt một cái câu cuối cùng là:

Hãy thương tất cả chúng sanh, vì chúng sanh hoàn toàn là đau khổ!”

Đó là chúng ta nói chung tất cả chúng sanh, mọi vật chớ không riêng gì một người nào. Nghĩa là hiện giờ họ đang mạnh khỏe an vui, nhưng lúc nữa họ sẽ đau khổ, vì vậy mà chúng ta hãy đặt một cái tình thương rộng lớn như là Từ Vô Lượng, rồi Bi Vô Lượng, do cái sự vô lượng này là thương hết tất cả các loài chúng sanh cùng cây cỏ thảo mộc, từ đó tâm chúng ta luôn luôn lúc nào cũng thấy an vui trong vạn hữu.

Vì tất cả những (cái) đó tràn đầy cả tình thương, cho nên nó mới có chan hòa nhau, không có một cái sự phân biệt như thế này, như thế khác, do đó mà chúng ta sống thảnh thơi, an lạc trước vạn hữu.

Đó là chúng ta thực hiện tâm Bi Vô Lượng của chúng ta. Đó là những cái câu pháp hướng để mà chúng ta hằng trau dồi tâm Bi của chúng ta đối với vạn hữu, đối với tất cả chúng sanh.

4- TRAU DỒI TÂM HỶ

4.1- NIỀM VUI VÔ LƯỢNG VÀ NIỀM VUI NGẮN NGỦI

(49:41) Trưởng lão: Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục học tới tâm Hỷ Vô Lượng.

Bởi vì cái sự việc nó vô lượng cho nên nó không có thể nào mà tính toán được, nó không thể nào mà so lường được, lúc nào nó cũng tràn đầy, phủ trùm khắp cả không gian và thời gian, cho nên từ Từ Vô Lượng, rồi Bi Vô Lượng rồi bây giờ tới Hỷ Vô Lượng.

Bởi vì có Từ, Bi thì nó mới có Hỷ, biết thương người thì nó mới có vui, mà không biết thương người thì cái vui của chúng ta chỉ là vui ích kỷ, cho nên cái vui đó mà Thầy đã dạy là cái vui ngắn ngủi.

Còn cái tâm Hỷ của chúng ta đối với người thù, kẻ oán, đối với tất cả mọi cái đều là vui vẻ thì cái tâm đó gọi là tâm Hỷ Vô Lượng.

Vậy Hỷ là gì?

Hỷ là vui mừng, nói cho đầy đủ nghĩa là tùy hỷ, nghĩa là vui theo. Vui theo có nhiều cách.

Vui theo với với ngũ dục lạc…​

Nghĩa là mình cũng có cái vui theo, mà vui theo cái đúng mà cũng có vui theo cái sai.

4.2- VUI THEO DỤC VÀ ÁC PHÁP LÀ CÁI VUI NGẮN NGỦI, MÊ MUỘI

(50:41) Trưởng lão: Vui theo ngũ dục lạc là vui theo cái vui ngắn ngủi, cái vui mê muội.

Người phàm phu, ngu si, mê muội phóng tâm vui theo những vật chất thế gian, trần cảnh, gồm có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Nó đang có một sức cám dỗ, lôi cuốn con người đi đến chỗ đau khổ bất tận.

Đó thì, đối diện với cái sự mà vui theo với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thì nó sẽ lôi cuốn chúng ta đi vào cái chỗ đau khổ bất tận chớ không có vui. Vì cái vui đó là cái vui ảo giác, cái vui không thật, cái vui thấy thì vui nhưng nó không thật vui.

Cho nên người ta ví cái vui đó như là ở xa chúng ta nhìn nó là như cái hạt kim cương, nhưng đến gần đó là cái hạt nước mắt của chúng ta. Như vậy thì chúng ta biết đời chúng ta tại vì vui theo với những cái điều đó mà nước mắt chúng ta như nước biển đó.

Đó gọi là Hỷ Vô Lượng Dục Lạc.

Nghĩa là nó cũng vô lượng đó.

Bởi vì người ta nói cái tâm người là cái túi không đáy, mà cái túi không đáy tức là chạy theo cái dục lạc của thế gian. Cho nên cái sự ham muốn dục lạc đó, để hưởng thụ những cái dục lạc đó, cho nên không bao giờ mà hết cái sự ham muốn đó.

Ví dụ như chúng ta chạy theo cái dục lạc thế gian, vừa cất được cái nhà ngói thì thấy người ta xây cái nhà tường, thì mình theo cái nhà tường, từ đó thấy người ta có cái nhà lầu, cái vila thì mình theo cất nữa.

Cũng như bây giờ mình có cái xe đạp thì mình lại thấy người ta có xe gắn máy, từ cái xe gắn máy đó thì mình thấy người ta có xe dream, từ cái xe dream đó thấy người ta có xe hơi…​ Mình cứ theo hoài, theo hoài, cho đến khi không biết chừng nào mà cho cùng tận cái chạy theo cái dục lạc đó.

Đó thì cho nên càng chạy theo thì càng khổ. Do vì vậy mà người ta nói: “Ở xa thì như hạt kim cương, đến gần là giọt nước mắt.”

Vì vậy, đó là Hỷ Vô Lượng dục lạc thế gian.

Cho nên chúng ta nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm - bốn cái tâm vô lượng đó nó sẽ giải thoát, nhưng ở đây nó cũng có bốn cái tâm vô lượng mà đem đến chúng ta cũng vô lượng khổ đau chớ không phải giải thoát.

Đó là Hỷ Tâm Vô Lượng dục lạc thế gian của những con người vô minh theo thói quen phàm tục. Hỷ này vui đó, khổ đó, như con thiêu thân thấy ánh sáng đèn tưởng là vui thật, nào ngờ là ảo giác. Do thế mà sanh, già, bệnh, chết nối tiếp nhau mãi mãi không bao giờ dứt khổ.

Hỷ Vô Lượng Tâm này là những vô lượng tâm vô minh, Hỷ này gọi là Hỷ ảo giác.

(53:59) Nó còn có cái tên là Hỷ ảo giác. Nghĩa là chúng ta chạy theo cái ăn ngon, thì bỏ vô miệng nhai nuốt rồi thì cái ngon nó mất rồi, cho nên gọi là ảo giác, cái Hỷ ảo giác.

Vui theo với ác nghiệp…​

Đó là cái Hỷ mà vô lượng với những cái ác nghiệp, bởi vì cái ác nghiệp nó cũng rất là nhiều, cho nên vui theo với ác nghiệp - hồi nãy đó, vui theo với dục lạc, bây giờ vui theo với ác nghiệp.

Vui theo với ác nghiệp là thấy người sát sanh, uống rượu, trộm cắp, tà dâm, bài bạc, vọng ngữ, hút xách v.v…​ đã không khuyên can mà lại còn xúi bảo, vui theo và bằng lòng theo con đường ác đó.

Đây là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp.

Đó nó còn có cái tên là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp.

Bởi vì ác pháp cũng vô lượng pháp chớ không phải là có một pháp, hai pháp không. Cho nên mỗi cái pháp ác đều đem đến cho chúng ta khổ. Mà con người vì vô minh chạy theo những, vui theo những cái ác pháp đó cho nên gọi là Hỷ Vô Lượng Tâm ác pháp.

Từ lâu tới giờ thì quý thầy chỉ nghe nói Từ, Bi, Hỷ, Xả Vô Lượng Tâm là đem lại cái nguồn tốt. Bây giờ nghe Thầy lật ngược trở lại thì thấy là Hỷ Vô Lượng Tâm theo ác pháp là khổ đau, theo dục là khổ đau.

Như vậy là chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó có hai nẻo rất rõ: Một nẻo tốt và một nẻo xấu; một nẻo xấu làm cho tâm vô lượng chúng ta trở thành xấu, một nẻo tốt làm cho tâm vô lượng chúng ta trở thành tốt.

Vậy nẻo tốt là nẻo nào?

(55:42) Nẻo tốt là nẻo của Đạo Phật, nẻo tốt là nẻo của thiện pháp, nẻo tốt là cái nẻo để được sự giải thoát, an lạc, vĩnh viễn hạnh phúc. Còn nẻo xấu là luôn luôn lúc nào cũng địa ngục, đau khổ, phiền toái, giận hờn, tham, sân, si, mê muội, đó là nẻo xấu.

Tóm lại, hai cái loại Hỷ trên là Hỷ dục, Hỷ ác tạo cảnh địa ngục trần gian trong hiện tại, chẳng đợi mai sau.

Nghĩa là hai cái Hỷ này nó tạo cho chúng ta cái địa ngục ở trong cái thế gian này chớ không phải đợi mà chúng ta chết rồi chúng ta đi xuống địa ngục, hay hoặc là đọa địa ngục, mà chính những cái loại Hỷ này nó đã đem đến cho chúng ta những cái địa ngục.

Vậy thì hôm nay, quý thầy đã học được cái bài này, quý thầy biết cái địa ngục đó là do cái Hỷ dục và Hỷ ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo thành cái địa ngục trần gian.

Từ đây về sau, chúng ta đã hiểu nó, chúng ta đừng chạy theo nó nữa, đừng có vui theo nó nữa, mà hãy xa lánh nó đi, mà viễn ly nó đi, từ bỏ nó đi, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không tạo địa ngục trần gian.

Đó là những loại Hỷ đau khổ của con người trong biển đời trầm luân này. Người vô minh mê muội không thể thoát ra khỏi vòng tay các loại Hỷ này.

Nghĩa là cái người mà không sáng suốt. Cho nên đạo Phật là đạo trí, vì có trí cho nên mới thoát ra khỏi, mà không trí thì thoát ra không khỏi những cái loại Hỷ này.

Nhìn chung quanh chúng ta hiện giờ, ai là người đã thoát ra khỏi, ai là người không vô minh?

Thật sự ra chúng ta hiện đang tu tập theo giáo pháp của Đức Phật: Giới - Định - Tuệ, nhưng thoát ra khỏi phải là một trí tuệ siêu việt, nếu không thì chúng ta vẫn nằm trong vòng tay của các loại Hỷ này.

Quý thầy xét thấy mình có phải ra khỏi chưa? Bứt khỏi cái vòng tay này chưa? Chắc chắn chúng ta cũng còn một ít. Nếu chúng ta đã quyết tâm nhưng vẫn bị vòng tay còn đang bao vây, chưa phải bứt ra hết được để rồi đời đời, kiếp kiếp thọ lấy tai ương.

Nghĩa là chúng ta nằm ở trong cái vòng tay của các cái loại Hỷ này thì đời đời, kiếp kiếp chúng ta luôn luôn lúc nào cũng bị tai ương, chớ không bao giờ mà chúng ta thoát khỏi tai ương này.

4.2- NHẮC TÂM TRÁNH XA CÁI VUI THEO DỤC VÀ ÁC PHÁP

(58:13) Trưởng lão: Muốn trau dồi tâm Hỷ Vô Lượng ta hãy nhắc tâm ta bằng pháp Như Lý Tác Ý:

Đó thì, bây giờ tới cái lúc mà trau dồi đây.

Hồi nãy là nói để chúng ta hiểu được những cái loại đó để rồi chúng ta phải trau dồi cái tâm của chúng ta đi vào những cái Hỷ Vô Lượng, làm cho chúng ta hạnh phúc đây.

Thì những cái trạch pháp, những cái câu mà mình lựa chọn ra để cho mình hướng tâm, mình nhắc đi, nhắc lại cho tâm của mình nó thấm nhuần, tức là trau dồi cái tâm của chúng ta.

Đây, cái câu để mà chúng ta trạch pháp ra đây:

“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa cái hỷ này!”

Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc nhở, để chúng ta biết cái dục lạc của thế gian: danh, lợi, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ, đó là những cái dục lạc. Hoặc là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, đó là những cái dục lạc, cái đối tượng để nó tạo thành những cái Hỷ dục lạc. Cho nên chúng ta phải tránh xa, phải lìa xa, phải bỏ ra, đừng có gần nó nữa.

Cho nên ở đây, cái câu hướng tâm để mà trau dồi tâm chúng ta, để hằng chút chúng ta luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác mà xa lìa nó.Vì nó cám dỗ chúng ta rất mạnh, vì nó thu hút chúng ta như đá nam châm, khó mà chúng ta bứt rời nó được, cho nên hằng phải nhớ:

“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy tránh xa cái Hỷ này!”

Đó thì, nhắc tâm mình như vậy để cho nó nhớ, nó đừng có quên.

(59:59) Thỉnh thoảng ta lại tác ý như lý này, nhắc đi, nhắc lại nhiều lần cho tâm ta xa lìa, yểm ly ngũ dục lạc.

Ta nhắc một câu nữa để cho ta tránh xa nó:

“Hỷ của dục là ảo giác, không có thật. Nó là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người, ta hãy tránh xa các loại Hỷ này!”

Đó là một câu nữa, xem nó như là thuốc độc, xem nó như rắn độc, nó rất hiểm nguy, nó có thể giết chúng ta lúc nào cũng có thể được hết!

Do nhắc cái tâm của chúng ta thường xuyên như vậy, cho nên trước cái ăn ngon, mặc đẹp; trước cái sự âu yếm tha thướt, thương yêu nồng nàn của thế gian, chúng ta luôn luôn sợ hãi.

Nó là cái Hỷ đó, cái Hỷ dục lạc đó, nó làm cho chúng ta khả ái, khả lạc, ham thích, đó là những điều mà đưa đến chúng ta đau khổ đó. Thấy đó mà bước vào đụng nó thì như là đụng gai, đụng chông chớ không phải là sung sướng gì đâu, không phải là hạnh phúc gì đâu!

Biết như vậy, thấu suốt như vậy đó là không vô minh, mà không biết như vậy, không thấu suốt như vậy tức là vô minh.

Câu này ta cũng thường nhắc đi nhắc lại để đoạn dứt lòng ưa thích dục lạc thế gian:

(01:01:26) Nhớ cái câu mà Thầy đã trạch pháp ra để cho quý thầy nhắc đi, nhắc lại, rồi tùy theo đặc tánh của quý vị mà quý vị sửa đi, sửa lại cho phù hợp với tâm tánh của mình.

“Hỷ vui theo các ác pháp là Hỷ Tâm Vô Lượng ác, là làm đau khổ chúng sanh, giết hại chúng sanh, không có lòng Từ Bi thương xót chúng sanh.

Ta hãy tránh xa Hỷ này, yểm ly Hỷ này, từ bỏ Hỷ này, xa lìa Hỷ này, vì Hỷ này làm đau khổ chúng sanh, làm sanh ra địa ngục của chúng ta, hãy dứt trừ sự vui theo các ác pháp!”

Đó là những cái câu trạch pháp để chúng ta ghi nhớ, để chúng ta thường trau dồi tâm mình, để nhắc nhở những cái hành động ác.

Như có mười điều ác mà chúng ta đã thấy ở trong Thập Thiện đã có dạy: Nếu mà đối ngược lại với Thập Thiện tức là Thập Ác. Do chúng ta đã học rồi, vì vậy mà chúng ta lấy đó mà thấy tâm mà theo những cái hành động đó tức là hành động thập ác.

Do vì cái sự mà hướng tâm nhắc nhở làm cho tâm thấm nhuần, vì vậy mà luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong Thập Thiện mà không có nằm trong thập ác.

Là người tu sĩ Phật giáo, thấy ai làm ác ta phải lánh xa, còn đâu lại có sự vui theo?

Thấy các pháp ác, thấy sự chết chóc, đau khổ của chúng sanh, nếu không giải nguy, cứu nạn được ta cũng phải tránh xa để khỏi phải thấy cảnh tang thương, máu đổ, thịt rơi, đau lòng, nát dạ, làm sao còn đồng lõa với ai mà vui theo được!

Đó thì quý thầy thấy, một người tu sĩ Phật giáo không thể nào đứng trước một cái thớt thịt của cái người đồ tể bán thịt được, cũng không thể nào mà đứng trước một cái tô phở mà người ta bỏ những cái lát thịt ở trên đó được! Người tu sĩ Phật giáo người ta nhìn thấy những cái sự đau khổ, chết chóc của chúng sanh thì người ta không thể nào mà không thương tâm.

Vì hằng trau dồi tâm Từ, Bi thì không thể nào thấy sự đau khổ đó mà chúng ta đứng lại đó mà nhìn, nếu không cứu khổ phò nguy được thì chúng ta mau mau tránh chỗ đó mà không đứng đó để nhìn sự đau khổ.

(01:03:54) Cũng như thấy mình không can ngăn được hai người đánh nhau thì chúng ta hãy mau mau tránh xa, vì chúng ta không đủ khả năng giải quyết được điều này thì mau mau tránh đi, không thể nào mà đứng đó để nhìn thấy họ đánh nhau với sự vui theo, với sự hò hét, với sự cổ võ, thì như vậy là người tu sĩ Phật giáo không đúng cách.

Thấy người ta đánh nhau lỗ đầu, chảy máu, đau đớn mà chúng ta lại nhìn với một cách vui theo, với một cách sung sướng, với một cách cổ võ ở trong đó, thì không nên làm điều đó.

Vì thế mà chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo nên cẩn thận, dè dặt trước mọi đám đông. Có những sự đau khổ, tan nát ruột gan của con người, của chúng sanh thì chúng ta mau mau tránh.

Thấy một con vật bị con vật khác giết hại nằm lăn lóc, một cái thân bẩn thỉu bằng cát, đất, bằng máu me, bằng những vết thương tan nát thì lòng chúng ta cũng không bao giờ đứng đó mà nhìn, trước cảnh đau đớn đó, chúng ta phải mau mau tránh xa để lòng chúng ta được an ổn.

4.3- VUI THEO VIỆC LÀNH, VIỆC THIỆN LÀ NIỀM VUI GIẢI THOÁT

(01:05:12) Trưởng lão: Nãy giờ, chúng ta đã học từ cái Hỷ Tâm Vô Lượng theo dục lạc và Hỷ Tâm Vô Lượng theo ác pháp, bây giờ chúng ta học:

Hỷ Tâm Vô Lượng giải thoát.

Đây là bây giờ tới cái tâm Hỷ giải thoát rồi đó. Hồi nãy là tâm đau khổ đó, còn bây giờ tới cái tâm Vô Lượng Tâm giải thoát.

Hỷ Tâm Vô Lượng giải thoát là vui theo với việc lành, việc từ thiện của người khác, đó là vui theo những việc làm nhân từ, phước thiện.

Thấy người đem của cải ra bố thí, lập nhà thương, ta liền tán thán, vui theo, tận tâm giúp đỡ họ trong mọi công việc với lòng hân hoan, sung sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên con đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của, ta sẽ đóng góp vào làm việc công ích cho mọi người. Nếu ta không tiền của, ta hãy lấy công giúp đỡ người này để hoàn thành sự an ủi những nỗi bất hạnh con người trong xã hội.

Vì tâm Bi Vô Lượng, ta nhận thấy trong xã hội có nhiều người bất hạnh nên lúc nào lòng ta cũng muốn làm từ thiện để ban vui, cứu khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người được an vui, no ấm; làm sao cho mọi người thoát khỏi bệnh tật, khổ đau.

Những hình ảnh đau khổ của con người và chúng sanh khiến cho người có tâm Bi Vô Lượng không thể ngồi yên bằng cách tư duy suông: Làm sao giảm bớt và xoa dịu vết thương đau của chúng sanh? Làm sao đoạn dứt những nỗi đau thương của chúng sanh?

Bệnh viện, thuốc thang chỉ xoa dịu vết thương đau của sắc thân của họ. An ủi, xóa đói giảm nghèo là xoa dịu vết thương đau tinh thần. Hành Bi tâm như thế này chưa đủ! Ta phải làm gì hơn để diệt tận gốc khổ đau của muôn loài?

Chỉ có Trung tâm An dưỡng Từ thiện ra đời để mọi người đến đó được nghỉ ngơi và học tập đạo đức nhân quả, thì ngõ hầu mới ban vui, cứu khổ, phò nguy tận gốc.

Những việc làm này khiến cho ta hoan hỷ vui theo vì lợi ích thiết thực cho loài người, chấm dứt nhân ác, tăng trưởng nhân lành. Vì thế, hạnh phúc mọi người tràn ngập cả thế gian này.

Còn gì sung sướng cho bằng khi mọi người biết rõ nhân quả, đường đi lối về của nó thì còn ai mà làm điều ác? Loài người không làm điều ác thì thế gian này là thiên đàng, là cõi Niết Bàn, làm sao còn có những người bất hạnh trong xã hội!

4.4- TÂM NGUYỆN CỦA THẦY VỀ TRUNG TÂM AN DƯỠNG VÀ LỚP HỌC ĐẠO ĐỨC

(01:08:53) Trưởng lão: Đó thì, hôm nay các con đã thấy rằng: Ý của Thầy từ lâu Thầy muốn xin phép để mà xây dựng một cái Trung tâm An dưỡng.

Để làm gì? Để mọi người người ta về đó người ta được nghỉ ngơi một tuần, một tháng, một năm, hai năm, ba năm và được sự hướng dẫn đường đi, nước bước của nhân quả và được dạy họ đạo đức nhân quả.

Để làm gì? Để diệt tận cái gốc khổ của con người. Từ cái hành động họ hiểu biết, từ đó họ không làm điều ác thì chính họ, họ đem lại nguồn vui hạnh phúc chân thật của họ.

Tâm nguyện của Thầy như vậy nhưng nhân duyên chúng sanh không đủ khó mà thực hiện được cái mộng này.

Ước ao của Thầy mong sao có ngày nào đó, chúng sanh dể hưởng được phước báu lợi nhất của Phật Pháp là học được nhân quả đạo đức để đem lại một nguồn vui chân thật chính bàn tay khối óc của họ đã làm ra cho họ. Không ai đem đến hạnh phúc an vui chính bằng họ.

Vì thế, đứng trên góc độ của đạo Phật điều này rất là rõ ràng. Nếu Trung tâm An dưỡng ra đời được thì biết bao nhiêu người trong xã hội này đem lại hạnh phúc cho nhau.

Thầy còn nhiều cái sự ước ao trong lòng mình khi đã thấy được đạo Phật. Ước ao chi tất cả các trường học trong đất nước này được học thêm những môn học giáo dục nhân quả đạo đức cho học sinh thì hạnh phúc thay cho đất nước đó, dân tộc đó!

Được nhìn thấy những mầm non của Tổ quốc được trau dồi đạo đức nhân quả thì còn lòng nào vui sướng cho bằng!

Nghĩa là, khi mà nhìn thấy các em học sinh được học đạo đức nhân quả, từ đó những hành động ác không còn nữa, thì chắc chắn là một con người có ý thức được con người thì chắc chắn là không có nỗi lòng nào sung sướng bằng hơn nữa.

(01:10:55) Không phải đem vàng bạc của báu, tất cả những vật báu trong thế gian này mà cho mà chúng ta vui bằng những cái vui thấy con người làm thiện.

Thầy phỏng chừng Đức Phật đã nhập Niết Bàn lâu xa xưa mà thấy tất cả chúng sanh đều thực hiện đạo đức nhân quả, Ngài cũng vui mừng! Lòng Từ Bi của Ngài, lòng Hỷ của Ngài rất là hân hoan, thấy tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ.

Huống hồ là Thầy còn là người bằng xương, bằng thịt, làm sao Thầy không sung sướng? Nhìn đất nước chúng ta mà tất cả mầm non của chúng ta đều thực hiện đạo đức nhân quả thì làm sao không sung sướng, vì đó là cái nhân tốt cho Tổ quốc này.

Từ đất nước này đến đất nước kia được trau dồi đạo đức nhân quả thì con người trên hành tinh này được hạnh phúc, an vui, đó là niềm vui tuyệt đỉnh vì đã mang đến niềm vui chân thật của chính bản thân của mọi người. Chính họ, họ đã mang đến niềm vui chân thật khi họ hiểu ra.

Một người tu sĩ đạo Phật không thể làm ngơ trước những điều này, trước những con người đang lăn lộn trong những nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh đó là những cái nhân ác của họ chớ phải đâu ai đem nỗi bất hạnh cho họ!

Vì chúng ta thấu hiểu được như vậy mà chúng ta không ban rải được đạo đức nhân quả cho họ thì lòng chúng ta se thắt từng giây, từng phút.

Chúng ta có lòng Bi Vô Lượng, lòng Từ Vô Lượng, mà đứng trước cảnh khổ của mọi người, mọi vật mà chúng ta nỡ đang tâm nhìn sao được? Phải đem hết sức mình, phải làm hết tận lực của mình để cứu khổ mọi muôn loài, để làm cho con người sống hạnh phúc bên nhau, biết thương yêu nhau!

Đó là lòng Bi, đó là nỗi mừng của những người biết thương người, biết Từ Bi ban rải khắp cùng.

4.5- NHẮC TÂM VUI THEO Ý KIẾN CỦA NGƯỜI KHÁC

(01:13:00) Trưởng lão: Muốn trau dồi tâm Hỷ này ta phải dùng pháp hướng, thường Như Lý Tác Ý:

Bây giờ tới đây, chúng ta sẽ trau dồi cái tâm Hỷ này. Bây giờ chúng ta đã hiểu nó là một cái gì đó để cho tất cả mọi người được an vui, hạnh phúc thì không có cái gì hơn là đem cái giáo lý nhân quả, cái đạo đức nhân quả mà dạy cho từng người, mà giúp cho từng người hiểu thì cái này là cái niềm vui vô lượng, không thể kể xiết được!

Vậy thì muốn trau dồi cái tâm Hỷ Vô Lượng của chúng ta, để chúng ta vui luôn luôn như thế nào? Thì chúng ta phải thường Như Lý Tác Ý mà nhắc như thế này:

“Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình và người vui!”

Đó, thì mọi ý kiến, cái ý kiến nó có những cái ý kiến nó nghịch mình, chớ đâu phải là mọi ý kiến nó giống mình được? Cho nên vì vậy mình phải hướng tâm nhắc. Vì muốn được vui theo người, mà người ta có ý kiến khác mà mình có ý kiến khác, thì làm sao vui nhau được?

Cũng như bây giờ người ta chấp kiến của người ta là người ta học tu như vậy là đúng. còn mình, mình chấp cái kiến của mình là học tu như vậy đúng, thì hai cái kiến này nó không giống nhau.

Mà một người mà trau dồi cái tâm Hỷ Vô Lượng thì mọi ý kiến đều là ý kiến của mình. Cho nên chúng ta thường phải nhắc nhở như vậy để chúng ta lấy cái ý kiến của người mà làm cái ý kiến của mình.

Cho nên khi xưa có ông A Na Luật, ông Kim Tôn giả và ông A Na Đàn Tôn giả, ba cái người này cùng sống chung nhau. Đức Phật hỏi:

“Vậy thì các ông sống chung nhau mà có được an vui tu tập không?”

Thì ông A Na Luật trình bày:

“Con sống theo ý của bạn con, ý của người khác, ý của các Tôn giả, con không có sống theo ý con”.

Thì Đức Phật hỏi các người kia cũng vậy, người nào cũng nói sống theo ý của người khác không, không có sống theo ý của mình, thì Đức Phật nói:

“Đó là tốt, đó là độc cư đó!”

Thì các con thấy cái sự độc cư đó mới chính là sự độc cư chớ không phải là ngậm miệng làm thinh, mà sống y theo ý của người khác.

(01:15:14) Thì những cái câu chuyện nho nhỏ trong cái thời những đệ tử của Đức Phật đã gây cho chúng ta cái sự thâm sâu hiểu biết là sống qua ý kiến của người khác thì đó là mình vui theo, vui cái Hỷ Vô Lượng tâm đó. Còn nếu mà không sống theo cái ý của người khác thì cái Hỷ Vô Lượng tâm không bao giờ có.

Cho nên, Thầy nhắc lại cái câu này:

Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác!”

Vui theo cái ý của người ta, người ta nói gì mình cũng vui theo.

Thí dụ như bây giờ đưa ra mình cất cái nhà, thì cái người bảo dựng cây cột chỗ này, người bảo cây cột dựng chỗ khác thì cái ý kiến đó có đúng không? Bây giờ cái người này bảo cây cột đây thì mình cứ để đây, mình vui theo với cái việc làm đó, thì tức là chúng ta sẽ hòa hợp với nhau, không có gì mà chống trái.

Đó thì, cái câu này:

Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình vui, người vui!”.

Đó là một.

Đây gọi là Hỷ Tâm Vô Lượng theo ý người.

Bởi vì cái ý của người, thì người ý vầy người ý khác, nó vô lượng cái ý, cho nên mình vui theo vô lượng cái ý, tức là Hỷ Vô Lượng tâm! Đó, thì thấy như vậy nó rất rõ rồi.

Bởi vì đâu có cái ý này giống ý kia đâu? Muôn vàn cái ý! Mà mình gọi là Hỷ Vô Lượng tâm thì vui theo muôn ngàn cái ý của người khác, thì đó là vô lượng ý! Đó là, đây được gọi là Hỷ tâm theo ý người khác.

Thường hướng tâm nhắc đi, nhắc lại nhiều lần để tâm ta không chống trái ý kiến của người khác, vì thế mới có sự vui chân thật trong lòng của chúng ta và mọi người.

Đó thì, các con thấy, ở đây các thầy thấy là chúng ta tu tập như vậy, trau dồi như vậy, thì chúng ta mới có được cái Hỷ tùy thuận, mới có được cái Hỷ theo ý người khác. Còn nếu không trau dồi, chưa chắc đã là chúng ta thực hiện được.

Hằng ngày nhắc như vậy, mà suốt cả năm chúng ta mới có thể sống được cái Hỷ theo ý của người khác, cái tâm vui theo cái ý của người khác, chớ không phải trong một ngày, hai ngày, ba ngày mà chúng ta đạt thành được cái điều này!

Nếu không trau dồi như vậy, ta khó mà vui theo ý của người khác được.

4.6- NHẮC TÂM TỪ BỎ TÍNH KHOE KHOANG

(01:17:33) Trưởng lão: Bản chất con người thường hay khoe khoang cái hay, cái giỏi của mình,…​

Nghĩa là biết cái gì sơ sơ thôi cũng tỏ ra là mình hay hết đó.

…​ đó là cái bản ngã. Mà hễ có bản ngã thì không bao giờ có Hỷ Tâm Vô Lượng.

Nghĩa là khi mà chúng ta có ngã là không có Hỷ Tâm Vô Lượng được.

Bởi vì cái gì cũng là mình đúng chớ còn cái người khác là sai hết, cái người khác là lỗi, cái người khác là trật, còn riêng của mình là đúng, đó là cái bản ngã. Mà hễ khi mà cái người có bản ngã thì cái Hỷ Tâm Vô Lượng không bao giờ có được. Không có thể nào mà hai cái tâm này mà đứng gần nhau được, hễ có cái này thì cái kia nó mất, có cái kia thì cái này nó mất.

Cho nên khi mà chúng ta trau dồi cái Hỷ Tâm Vô Lượng tức là chúng ta đã diệt ngã. Đó, quý thầy hiểu như vậy thì quý thầy mới thấy rằng, khi mà trau dồi cái Tâm Vô Lượng tức là chúng ta đã diệt cái ngã, mà diệt cái ngã tức là Niết Bàn. Cho nên nói: “Vô ngã là Niết Bàn”, còn cái ngã thì không bao giờ có Niết Bàn.

Mà hầu như chúng ta - những người sống trong thế gian này thường là nuôi lớn cái ngã chớ không bao giờ diệt ngã. Do cái sự tu tập của Hỷ tâm mà diệt được ngã thì hạnh phúc cho chúng ta biết là bao nhiêu! Là Niết Bàn, cảnh giới của chư Phật!

Vì thế, chúng ta thường nhắc tâm Như Lý Tác Ý:

“Tánh hay khoe khoang cái hay, cái giỏi của mình là chướng tâm, là ngại đạo; phải từ bỏ, phải xa lìa cái thói xấu này!”

Đó bây giờ chúng ta dùng cái câu hướng tâm nhắc nó, để cho nó biết đó là cái không hay gì hết đâu, cái đó là cái thói xấu, cái đó là cái bản ngã làm cho chúng ta đau khổ.

Thầy xin nhắc lại câu đó:

Tánh hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm, là ngại đạo, phải từ bỏ, phải lìa xa cái thói xấu này!”

Đó, mình cho nó là cái thói xấu cho nên mình dẹp nó qua một bên đi, mà cái thói xấu đó là cái bản ngã của chúng ta chớ không phải cái gì.

Đây là Hỷ Tâm từ bỏ bản ngã hay là từ bỏ tánh khoe khoang: Hỷ Tâm Vô Lượng từ bỏ tánh khoe khoang.

Bởi vì cái sự khoe khoang của chúng ta cũng vô lượng, làm được cái gì là khoe khoang, làm được cái gì là nổi lên là cho mình là hay hết; học được một chút cũng là khoe khoang cho mình là giỏi, nhưng mà sự thật mình có giỏi đâu! Đó là vô lượng cái sự khoe khoang chớ không phải là một cái sự khoe khoang.

Vì vậy mà chúng ta dùng cái Hỷ Tâm trau dồi cái tâm của mình để từ bỏ những cái vô lượng cái tánh khoe khoang này đi, thì tức là chúng ta vô lượng cái bản ngã của chúng ta để chúng ta diệt cái bản ngã vô lượng này. Đó là cách thức mà chúng ta từ cái tu tâm Hỷ mà chúng ta diệt trừ cái bản ngã của chúng ta, bản ngã vô lượng.

4.7- NHẮC TÂM VUI HÒA TRONG CÔNG VIỆC CỦA MỌI NGƯỜI

(01:20:45) Trưởng lão: Lại nữa, ta phải nhắc nhở tâm ta:

“Phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình!”

Đó thì cái câu này cũng nhắc nhở chúng ta thường xuyên phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người, lấy việc người làm việc mình.

Đó thì mình nhắc nhở mình như vậy để luôn luôn mình hòa mình trong mọi công việc, để cho cái lòng vui mừng vô lượng của mình trong mọi sự việc mà không có lúc nào là không vui mừng.

Đó là Hỷ Tâm Vô Lượng trong việc làm của người khác.

Đó, khi mà mình dùng cái câu trạch pháp hướng tâm để nhắc mình thì mình phải biết cái Hỷ Tâm Vô Lượng tức là vui theo với cái công việc của mọi người.

Thì công việc của mọi người thì nó cũng vô lượng, lát họ làm cái này, lát họ làm cái kia, bữa nay làm cái này, bữa khác làm cái kia, nó đủ thứ công việc chớ không phải có một thứ.

Cho nên, chúng ta vui theo vô lượng công việc của mọi người khác, vì vậy mà vui theo như vậy gọi đó là Hỷ Tâm Vô Lượng trong việc làm của người khác.

Nó có những cái tên, mà những cái tên đó để nó chứng tỏ rằng cái câu hướng tâm của chúng ta cho nó chính xác để dẫn cái tâm chúng ta, trau dồi chúng ta cho nó thấm nhuần. Còn nếu không chính xác thì nó không thấm nhuần được.

Bởi vậy tu tập nó phải tu tập sao mà cho nó chính xác, đúng tên, đúng họ. Nếu mà dùng cái pháp hướng mà không đúng tên đúng họ thì nó vô ích cái công của chúng ta tu tập, nó không có hiệu quả. Mà phải tu tập như thế nào, mà dùng pháp hướng cho đúng thì nó sẽ có hiệu quả rất lớn cho cái con đường tu tập mà không mất thời gian.

4.8- NHẮC TÂM HÒA MÌNH TRONG NIỀM VUI CỦA VẠN VẬT

(01:22:33) Trưởng lão: Và ta cũng phải siêng năng thường nhắc nhở hướng tâm Như Lý Tác Ý:

“Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó hòa mình trong sự vui! Nếu ta làm một điều không vui tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật, cỏ cây”.

Đó thì, trong khi đó mọi vật nó đương im lìm như vậy, bỗng dưng chúng ta sân lên thì tức là tự tâm chúng ta đã làm cho vạn vật đó đều xáo động lên hết, khổ đau!

Cho nên có câu tục ngữ nói: “Người vui thì cảnh vui theo, mà người buồn thì cảnh nó cũng buồn theo”, đó là cái tình trạng không vui theo đó.

Cho nên vì vậy mà một chút xíu, lỡ một chút mà chúng ta đã làm cho một người khác, một con vật khác không vui ở trong cái cảnh đang vui đó, thì tức là chúng ta đã làm buồn khổ vạn vật chớ không phải riêng một vật nào.

Thầy nhắc lại cái câu này:

Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa…​”

Các con thấy trong vạn vật của chúng ta đều có sự vui chan hòa, cây cỏ rồi chim chóc nó hòa lẫn với nhau, rồi con người lao động làm tất cả những công việc, nó có sự an vui, chan hòa trong đó.

Bỗng dưng có một cuộc đánh lộn, hay hoặc là cuộc giết chóc nhau đó, làm cho tất cả những cái cây cỏ trong đó nó có sự tang thương ở trong đó, cho nên nó làm sao có sự vui? Vì vậy mà một cái sự đau khổ, làm cho sự đau khổ thì muôn vật nó ở trong đó nó đều đau khổ.

Tại vì đôi mắt của quý thầy không thấy được cái điều đau khổ đó, chớ riêng Thầy, Thầy có một cái cảm nghĩ: Tất cả vạn vật đau khổ trong một cái đau khổ của một sự việc nào xảy ra trong đó. Vì thế mới chan hòa những cái niềm vui ở trong đó.

(01:24:18) Bây giờ, Thầy đọc lại cái câu trạch pháp này:

“Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó hòa mình trong sự vui! Nếu ta làm một điều không vui, tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài vạn vật, cỏ cây”.

Đó thì, cái câu đó để nhắc cho chúng ta biết rằng…​ (Mất tiếng)

Câu này, ta thường xuyên trau dồi những điều này thì tâm Hỷ Vô Lượng sẽ vui mừng cùng với muôn loài.

Nghĩa là câu này - chúng ta thường nên nhắc nhở cho thường xuyên cái câu này, để chúng ta tránh những cái điều nhỏ - thí dụ bây giờ mình đang đi, trên cái bước đường đi mình vào ở trong thất của mình, mình lỡ mình đạp - trong khi đó tâm hồn của mình đang ban rải cái sự yên vui theo cái sự vui của vạn vật, thế mà mình vô tình mình đạp một con kiến gãy chân đi, nó lăn lộn, nó rên la, thì trong cái không gian đó và cái thời gian đó, tất cả vạn vật xung quanh nó đều bị cô đọng lại cái sự đau khổ đó.

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải nhắc cái tâm của mình. Bởi vì người tu sĩ đạo Phật phải phủ trùm cái tình thương của nó, cho nên Phật nói: “Tứ Vô Lượng Tâm biến mãn khắp mười phương chúng sanh” - đó là biến mãn đó.

Cho nên, một cái đau khổ nhỏ của cái vật này thì nó sẽ đau khổ toàn bộ cả vạn hữu chớ không phải là riêng có một con vật đó đau khổ đâu! Khi mà cái tâm Từ, tâm Bi của họ đã thể hiện thì trước cái đau khổ một con vật đang lăn lộn thì ngay đó tâm chúng ta nhói lên sự đau khổ.

Thì vạn vật nó đang hòa mình trong sự an vui đó mà bỗng có một con vật đã đau khổ thì tức là cây cỏ đều đau khổ, chớ không phải là chỉ có con vật đó đau khổ không đâu. Tuy nó vô tình, chúng ta thấy như là vô tình nhưng sự thật không vô tình. Nó là có một cái sự giao cảm, cảm thông nhau, nó rất là rõ ràng.

Tại sao vậy? Khi mà có một người đó họ cất cái nhà, rồi họ trồng những cái cây xung quanh đó họ ở, rồi sau đó họ dời, họ đi. Những cái cây đó họ làm sao họ bứng được, nhưng ra đi rồi thì những cây đó lần lượt buồn và héo khô.

Chúng ta thấy cây cũng cảm động, cũng xót xa, cũng thương tiếc, cũng nhớ thương những cái người mà chăm sóc gần bên nó.

Cho nên khi mà chúng ta có những cái cây mà ở gần bên chúng ta thì nó xum xuê, nó vui sướng. Còn những cây xa, ở ngoài rừng, ngoài bụi xa thì nó cằn cỗi, khô héo vì không được vui mừng, vì nó không được cái sự nghe qua tiếng nói hoặc là cái hơi ấm của chúng ta chan hòa với nhau.

Đó là những cái mà chúng ta thấy, hầu như là vạn hữu đều là chan hòa trong cái sự sống với nhau./.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy