CK 073A - TRIỂN KHAI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM - GIẢI THOÁT BẰNG TRI KIẾN - VÍ DỤ NGÀI A NAN CHỨNG ĐẠO
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời gian: 28/01/2006
Thời lượng: [01:04:24]
(00:00:00) Trưởng lão: Hôm nay, khi vấn đề làm cái bài, bây giờ mấy con nhớ cái ý làm cho đúng chứ không khéo nó sai về cái Tứ Vô Lượng Tâm; tức là Tâm Từ. Mấy con có làm bài Tâm Từ chưa? Có làm rồi phải không?
“Các con nhớ Tâm Từ thì nó khác cái Tâm Bi chứ không có giống nhau vì cái đối tượng của Tâm Từ là nó không có, trước cái cảnh của nó là cảnh bình an cho nên cái Tâm Từ nó rộng rãi lắm. Còn cái Tâm Bi thì trước cái đối tượng của nó là đối tượng đang đau khổ.”
Có phân biệt được như vậy thì mới viết đúng bài chứ không khéo một lúc thì mình nói Tâm Từ, lúc mình nói Tâm Bi, nó lộn xộn thành ra do đó mình áp dụng vào sự tu tập của mình không đúng và mình triển khai Tâm Từ của mình cũng không đúng; nó thành ra cái Tâm Bi mất đi; nên do đó phải hiểu cho kỹ trong vấn đề mà làm bài, viết bài, tư duy quán xét cho đúng. Mà đúng thì làm mới được còn không đúng thì làm không được.
Còn Tâm Hỷ, ở đây nếu không khéo chúng ta sẽ lầm lạc Tâm Hỷ nữa. Bởi vì cái “Tâm Hỷ nó không phải là cái tâm của phàm phu” chúng ta. Cho nên có nhiều vị Tôn túc người ta hiểu qua Tâm Hỷ là mình tập cười trong cái vui; như vậy là mình vui trong cái dục lạc chứ không phải là mình vui trong cái Tâm Hỷ của Tứ Vô Lượng Tâm; bởi vì Tâm Hỷ nó do ly dục mà sanh hỷ lạc.
Bởi vì “Tâm Từ với Tâm Bi của chúng ta nó đang ở trong cái chỗ ly dục, ly ác pháp”; cho nên nó đối tượng của nó. Thí dụ bây giờ, “mọi sự sống trên hành tinh này, chúng ta không động đến cái vật gì mà làm cho sự sống đó đau khổ thì đó là Tâm Từ. Còn khi mà mọi sự sống trên hành tinh này mà đang có sự đau khổ, hoặc quằn quại trong sự đau khổ mà chúng ta phải thực hiện cái hành động chúng ta để đem lại cái sự an vui cho những cái sự sống đó, thì đó là Tâm Bi”, mình phân biệt vậy.
Thì như vậy là những hành động mà làm được như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp. Mà “khi ly dục, ly ác pháp thì nó mới có do ly dục sanh hỷ lạc; do ly dục, ly ác pháp đó nó có hỷ lạc. Mà cái hỷ đó là niềm vui của Tâm Hỷ chứ không phải là đồng thời chúng ta tập cười” hoặc là như có một vị Tôn túc dạy chúng ta: “Hít vô, tôi mỉm miệng cười; thở ra, tôi mỉm miệng cười”, đó là mình cười trong cái dục, cố gắng gượng cười mà sự thật ra trong tâm của mình chưa phải hoàn toàn là ly dục, ly ác pháp.
(00:02:38) Do đó thì khi mà chúng ta hiểu được cái hỷ của nó là do ly dục nó mới đúng của cái Tứ Vô Lượng Tâm còn nếu không thì nó sẽ nằm ở trong thất tình, lục dục. Và cái Tâm Xả thì chúng ta cũng nhớ là khi mà viết về Tâm Xả thì cũng phải lưu ý về cái xả như thế nào chứ không phải là chúng ta tư duy quán xét mà xả mà chúng ta nghe ở trong cái bài kinh mà Phật đã nói, đã xác định cho chúng ta biết là xả hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh.
Tức là đạo Phật “nó không chấp nhận cái thọ, thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ; ba cái thọ, ba cái cảm thọ này thì đức Phật không chấp nhận”; cho nên “chúng ta phải ở trong một cái trạng thái nào mà gọi là xả”. Vì vậy có những danh từ mà đức Phật xác định cho “chúng ta biết để mà xả, đó là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Nhờ cái xả như vậy chúng ta mới nhập được Tứ Thiền chứ không xả như vậy chúng ta không nhập được Tứ Thiền”. Cho nên cái Hỷ của nó là từ…
Bước vào cái Sơ Thiền “do ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền; do ly dục, ly ác pháp là nhập Sơ Thiền thì chúng ta Hỷ Lạc là do cái chỗ ly dục nó sanh ra - do ly dục mới sanh hỷ lạc*”. Ly dục mới sanh hỷ lạc tức là “*cái vui đó là do cái ly dục”; còn bây giờ mình còn đang ở trong dục, cái hỷ lạc đó là cái hỷ ly trong dục chứ không phải là cái hỷ không ly dục.
Còn cái xả của chúng ta hiện giờ mà chúng ta xả, chúng ta dùng tư duy quán xét, đó là xả Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ - chứ không phải ở chỗ mà hoàn toàn. Nhưng mà nhờ trên Tứ Niệm Xứ mà ta mới xả được, chúng ta mới bắt đầu xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh; chúng ta mới đi vào được cái chỗ mà Tứ Thiền, tức là Thiền Định.
Cho nên ở đây, “chúng ta đi từ cái xả của cái tâm phàm phu, từ cái Định Vô Lậu để mà chúng ta quán xét, dùng tri kiến để chúng ta xả được cho đến dần chúng ta đi đến xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả tất cả những cái khổ lạc cuối cùng của chúng ta thì chúng ta mới đạt được cái tướng thanh tịnh Tứ Thiền”. Qua cái chỗ mà đức Phật dạy chúng ta đều có cái căn cứ hết, đức Phật muốn dạy chúng ta cái điều gì đều có căn cứ.
Thí dụ như dạy chúng ta về nhân quả, mà đường đi nhân quả của con người thì chúng ta thấy đức Phật đã cho “chúng ta biết cái hành thập thiện đó là đường đi của nhân quả bởi vì thân hành, khẩu hành, ý hành nó cụ thể rõ ràng; đó là đường đi của nhân quả”.
(00:05:08) Còn nói về “Tứ Vô Lượng Tâm thì Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ, Tâm Xả thì đức Phật cũng xác định rất rõ là cái chỗ ly dục, ly ác pháp. Từ cái Tâm Từ, Tâm Bi của mình ở chỗ ly dục để có cái Hỷ lạc thì do đó mà do ly dục sanh Hỷ, thì cái Hỷ lạc này nó mới đúng Tâm Từ”. Bởi vì “nó là con đường độc nhất để mà chúng ta đi đến cứu cánh giải thoát.
Cho nên “tới cái xả chúng ta thấy phải của cái Tứ Thiền - chúng ta mới nghe thấy cái danh từ xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, thì không khéo chúng ta đi có một đoạn, chúng ta nói…” Bây giờ xả ở trong cái phương pháp của Định Vô Lậu bằng tri kiến thì nó chưa hết đâu; nó còn phải đi sâu hơn. Cho nên nhớ những lời Thầy dạy mà chúng ta làm bài không sai chứ không khéo chúng ta không biết đâu mà chúng ta làm, phải hiểu. Cho nên có một số vị Tôn túc giảng dạy về Tứ Vô Lượng (Tâm)
(00:06:01) Trưởng lão: Bởi vì sự tu tập của chúng ta, nó phải từ cái dễ cho đến cái khó; nó đi lần lượt để chúng ta rõ ràng, khi làm bài mà nó không sai thì nó mới xả được tâm còn nếu sai thì chúng ta bị ức chế tâm. Cho nên trong cái sự tu tập, chúng ta không khéo chúng ta ức chế tâm cũng không biết được. “Nói rằng tu Định Vô Lậu nhưng tri kiến của mình quán xét để xả tâm nó không thấu triệt; nó không như thật; nó không rõ ràng cụ thể thì cái xả tâm của chúng ta nó chẳng xả mà bị ức chế”.
Cũng như, thí dụ như bây giờ chúng ta thấy có một cái niệm ái kiết sử ở trong tâm; chúng ta mà ngay chúng ta quán, bây giờ ái kiết sử: "Đây là do chùm nhân quả của mình; thôi, mình bỏ nó đi! Thôi, không có nhớ nữa, không có nghĩ đến nó nữa! Mình tuy là mình nói vậy chứ thật sự ra mình bị ức chế; cho nên mình phải triển khai cái niệm đó ra cho nó rõ ràng cụ thể, để mình thấy như thật chứ không thể nói lướt qua như vậy được”.
Cho nên hầu hết chúng ta tu Định Vô Lậu, chúng ta xả tâm mà xả không hết; do như vậy mà chúng ta tu hoài, dậm chân tại chỗ mà không tiến bộ; nó cũng có giảm một phần nào đó; nó làm cho chúng ta được an ổn. Thí dụ một cái niệm nó khởi lên, làm chúng ta nhớ gia đình nhưng rồi chúng ta cũng thấy nó cũng được an ổn nhưng rồi nó còn hoài, nó không hết, là tại vì chúng ta chưa có thấu triệt nó bằng cái tri kiến của chúng ta, cho nên chúng ta chưa có tri kiến giải thoát.
Buộc lòng hôm nay lớp học của chúng ta sẽ triển khai tri kiến đó cho hoàn chỉnh và đồng thời chúng ta còn áp dụng thực hành những cái niệm đó vào trong những cái bài học của chúng ta sắp tới. Và Tứ Vô Lượng Tâm là những cái pháp cuối cùng để mà chúng ta thực hiện nó hoàn chỉnh hơn con đường tu tập để cho đến khi chúng ta vô lậu hoàn toàn.
(00:07:48) Trưởng lão: Cho nên ở đây, quý thầy cũng như là quý cư sĩ phải cố gắng thực hiện cho đúng. Người nào mà cái khả năng, cái trình độ còn quá kém thì nên ở lại, đừng vội vàng, mà chúng ta ở lại chúng ta học tu để cái tri kiến của chúng ta cho nó thông suốt. Nếu không khéo chúng ta lên cái lớp cao hơn thì chúng ta sẽ bị ức chế; mà lúc bây giờ ức chế thì chúng ta chẳng đi tới đâu và cuối cùng thì nhiều khi nó sinh ra bệnh tật nữa là khác.
Cho nên hôm nay thì chúng ta cũng biết rằng trong cái bước đường học của chúng ta thì cái thân vô thường, nay mạnh mai đau, bữa nay còn chúng ta nói chuyện với nhau, ngày mai mất chúng ta cũng chưa biết chừng, cho nên chúng ta cũng chuẩn bị để chúng ta giữ tâm bất động của chúng ta. Chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự nhưng chưa phải là hoàn toàn chúng ta kéo dài được 12 tiếng đồng hồ, tức là Nhất Dạ Hiền.
Vì muốn được 12 tiếng đồng hồ trong cái trạng thái Nhất Dạ Hiền thì ở trong thanh thản, an lạc, vô sự rất là khó chứ không phải dễ. Vì vậy mà khi nào chúng ta ly dục, ly ác pháp thì chúng ta mới đạt được cái điều đó mà không ly dục, ly ác pháp thì chúng ta không bao giờ đạt được cái trạng thái suốt 12 tiếng đồng hồ được.
(00:08:58) Do chúng ta có thể nói rằng trong cái thanh thản, an lạc, vô sự hiện giờ chúng ta tuy rằng có cái phần ức chế nó - tức là chế ngự được cái tâm của mình để kéo dài được 5 phút, 10 phút, hoặc là 30 phút, 1 giờ. Nhưng cái trạng thái đó chỉ có thể đẩy lui được cảm thọ của chúng ta mà thôi, các cảm thọ đau đớn trên thân chúng ta mà thôi chứ không thể hơn. Cho nên Thầy thường dạy 1 phút nhiếp tâm và an trú trong 1 phút là mục đích để đẩy lui các bệnh ngay trên thân chúng ta để chúng ta được bình an và đi tới nơi tới chốn cuối cùng của con đường tu tập.
Còn hiện giờ thì chúng ta phải chuẩn bị cho con đường xa và đồng thời cũng chuẩn bị những cái phương pháp để đối phó những nghịch cảnh, những nhân quả của chúng ta, cái nghiệp khi nó xảy đến chúng ta có thể đẩy lui được những điều kiện khó khăn. Nhưng quý Thầy cũng nên nhớ rằng trong giai đoạn này, chúng ta chưa phải lúc mà chúng ta đẩy lui các cái hôn trầm, thùy miên cho nên đừng có vội vàng thức nhiều quá thì không nên. Bởi vì cơ thể của chúng ta nó phải được ngơi, mà nếu chúng ta nỗ lực, chúng ta thức nhiều quá nó có điều kiện gì đó xảy ra trên cơ thể của quý vị thì làm cho con đường tu tập của quý vị rất là khó khăn.
Tới giờ ngủ thì chúng ta đi ngủ, tới giờ thức thì chúng ta thức, đừng có nên cố gắng mà thức khuya nhiều, cũng không tốt đâu. Giờ nào chúng ta tu tập theo giờ nấy, nghiêm chỉnh hẳn hòi, đàng hoàng. Người có khả năng thì chúng ta tu đến 10 giờ, 11 giờ rồi 2 giờ chúng ta thức dậy; còn người chưa đủ khả năng đó thì chúng ta 9 giờ chúng ta tu, cho đến 3 giờ chúng ta thức dậy thì cái sự tu tập của chúng ta nó đều đặn. Rồi lần lượt chúng ta tăng dần lên để chúng ta thích nghi chứ đừng vội ép nó quá thì không hay bởi vì cái cơ thể của chúng ta nó có hạn; chứ nó không phải nó vô hạn; cho nên chúng ta ép quá thì nó bị xảy ra những cái chướng ngại, tức là thân chúng ta bị bệnh và do nó bị bệnh thì chúng ta tu không có kết quả đâu.
(00:11:04) Trưởng lão: Như các con cũng biết rằng vừa rồi thầy Chơn Thành là người tu ở đây, vậy mà nó còn xảy ra một trạng thái coi như là nếu mà không có phương pháp tu và không có tu tập thì chắc chắn thầy bị tai biến mạch máu não; nó sẽ làm cho thầy liệt nửa người. Đó là một trường hợp ở đây mà chúng ta thấy một người bạn đồng tu của mình, là cái trường hợp xảy ra. May mà nhờ có phương pháp chứ nếu không có phương pháp thì kể như là thầy chỉ nằm một chỗ, mà trong chúng ta phải có một người phải chăm sóc thầy chứ không thể bỏ thầy được.
Vì vậy chúng ta thấy thầy cũng khổ mà mình cũng khổ chứ không phải không. Không lẽ nào trong huynh đệ mình đau rồi để cho thầy đi về quê để cho con cái thầy nuôi sao? Chính mình phải bỏ ra mình nuôi Thầy. Trong khi đó, thân Thầy thì nằm một chỗ, mình phải ẵm bồng hoặc là cho ăn uống nữa, không khéo. Đó là cái hiện tượng mà xảy ra, may mắn là suốt cái thời gian thầy rất là nỗ lực tu tập, giữ độc cư cũng rất là trọn vẹn.
Cho nên vì vậy mà nó vẫn có nội lực, nhờ đó mà vượt qua. Hôm nay cái bàn tay mà co rút của thầy, bữa nay nó lại bình thường rồi; nó không còn co nữa. Nhưng cái trạng thái mà cái tay nó còn tê thì chưa có hết mấy con, nó không có đơn giản. Và tiếp tục trên cái phương pháp mà tác ý thì Thầy sẽ bình phục được cánh tay của mình trở lại bình thường và khi đưa tay vào trong nước thì nó sẽ không còn tê nữa. Còn nếu mà không có cố gắng mà dùng phương pháp để đối trị thì cái tay của chúng ta nó sẽ bị liệt đi, nó không còn hoạt động được nữa.
Thì như vậy, chúng ta thấy rõ ràng là cái người tu theo đúng phương pháp của Phật làm chủ được bệnh chứ không phải không, thì chính bản thân Thầy Chơn Thành đã thấy được cái điều này. Và hầu hết ở đây một số người có những cái bệnh, như thầy Thanh Quang, thầy cũng do cái sự khích lệ của Thầy, thầy cũng đẩy lui được cái bệnh, nếu không thì thầy cũng rất là vất vả, rất là khổ, phải đi bác sĩ, đi nhà thương.
Còn ở đây, cô Huệ Ân là người già nhất nhưng mà nếu mà không có phương pháp thì chắc chắn là cô cũng không chịu nổi; cơ thể vô thường; nó đang có bao nhiêu nghiệp;, nó đang đổ ra.
Như vậy là hiện tượng mà chúng ta tu tập nó có nhiều cái lợi ích rất lớn cho nên vì vậy mà chúng ta phải cố gắng. Và cố gắng thứ nhất là “mình phải giữ hạnh cho trọn vẹn, đừng có để tâm mình phóng dật”, ráng cố gắng thực hiện. Cho nên những cái điều mà học tập, phải vừa là tập sống với giới luật cho nghiêm chỉnh, để chúng ta thực hiện nó mới có kết quả; nếu mà chúng ta không tập sống nghiêm chỉnh thì chúng ta sẽ không có kết quả.
(00:13:48) Vừa rồi thì bác Hàn đã bị đau bụng, nhưng mà trong khi đó cái tinh thần cũng bị dao động cho nên mọi người đưa thuốc thì bác uống đại. Vì vậy mà sau khi Thầy được hay thì Thầy đến và cô Út đến thì nhiều người tìm, nói để đem thuốc cho uống thì cô Út nói không được uống nhiều thuốc quá không được, bây giờ chỉ còn cách là mình dùng phương pháp đẩy lui mà thôi; trong khi bác Hàn rên la đau khổ rất nhiều. Cho nên trong trường hợp đó thì chúng ta phải vững vàng niềm tin nơi Pháp Phật, đừng để tâm mình dao động. Nếu mà trong khi đó mình ngồi không được thì mình nằm nhưng mình nhớ rằng hai cánh tay của mình hoặc hơi thở, đó là phương pháp để cho mình đẩy lui bệnh của mình chứ không còn cách nào khác hơn hết. Nếu “mình ngồi thì mình đưa tay ra vô còn mình nằm thì mình dùng hơi thở để mình đẩy lui bệnh”.
Thầy nhắc nhở bởi vì thình lình nửa đêm đau thì có một mình mình cứu mình; chứ nếu mà mình không cứu mình thì mình sẽ rên la, thì trong khi tất cả mọi người đều bị động, và bị động như vậy thì rất là khổ đau và đồng thời mình dao động tâm thì mình cũng mất cái sức tự chủ của mình, thì cái năng lực đề kháng cơ thể cũng bị suy yếu nữa. Nhớ kỹ! Khi mà “tâm mình nó không bị dao động thì cái sức đề kháng của mình rất mạnh còn nếu mà mình để cái tâm mình dao động thì sức đề kháng của cái thân mình sẽ bị yếu”, thì không có đủ sức đề kháng.
Cho nên phải lưu ý trong vấn đề tu tập, đừng có sợ hãi, đừng có dao động. Mà nếu mà có cái sợ hãi, dao động thì mau mau nhờ một cái người nào đó đến trực tiếp gặp Thầy, để mà Thầy đến Thầy sách tấn, Thầy khích lệ để mạnh mẽ để mà chiến đấu tận cùng với giặc sanh tử. Lúc bấy giờ các cảm thọ đó, một cái người mà bình thường thì không đủ gan dạ mà đương đầu với nó, mà cái người mà tu tập thì nhờ một vị Thầy, người ta đến, người ta khích lệ mình thì mình sẽ dũng mãnh, mình không còn sợ hãi, thì cái nội lực của mình sẽ mạnh, và đồng thời cái sức đề kháng của thân mình nó đề kháng rất mạnh, cho nên nhờ Thầy khuyên.
Là vì bây giờ chúng ta mạnh nhưng một lát nữa chúng ta đau không chừng. Do đó, khi đó chỉ còn ôm pháp để mà vượt biển thôi, cũng như ôm phao vượt biển. Nhớ những lời Thầy dạy kỹ lưỡng, chứ không khéo rồi chúng ta gặp trường hợp nào đó rồi chúng ta không có tự chủ được, thì chúng ta buông pháp, thì nó không hay cho con đường tu của chúng ta chút nào hết, vì vậy thì chúng ta phải cố gắng và cố gắng hơn.
(00:16:26) Trưởng lão: Và hôm nay, khi mà Thầy nói về Tứ Vô Lượng Tâm, thì phải nhớ kỹ những lời Thầy dạy để làm bài. Bởi vì những cái bài này là những cái bài cuối cùng của cái Định Vô Lậu mà chúng ta đã từng học, từng làm. Cho nên “phải khéo léo làm sao mà cho đúng; chứ còn nếu mà làm sai thì chúng ta sẽ áp dụng Tứ Vô Lượng Tâm không xả được tâm”. Cho nên phải khéo léo viết như thế nào, có thứ lớp hẳn hòi hoàn toàn chứ đừng có viết đại, như Thầy đã cho một cái dàn bài của nó rất rõ ràng.
Đức từ tâm, đầu tiên thì chúng ta phải giới thiệu cho cái người mà người ta đọc vào người ta biết cái Đức Từ Tâm của mình như thế nào. “Trước tiên thì mình phải nói, bây giờ cái tên nó là Đức Từ Tâm. Vậy thì mình phải giải thích cái Đức Từ Tâm, cái nghĩa cho người ta hiểu; từ tâm là như thế nào”. Nhiều người người ta nghe, mình thì mình học, mình nghe từ tâm thì mình biết nhưng mà có người khác người ta nghe từ tâm người ta không biết cho nên mình phải giải thích cái nghĩa đó cho người ta hiểu.
Tức là mình giới thiệu; mình giải thích cái nghĩa, rồi mình giới thiệu cái Đức Từ Tâm. Ở trong cái nhóm của Đức Từ Tâm đó nó có từ tâm gì, để cho người ta hiểu. Thì trong cái nhóm của nó, mấy con theo lần lượt, mấy con có “Đức Từ Tâm đối với bản thân của mình”, mình phải thương mình chứ. “Từ là thương mình, thì mình thương mình trước tiên, do đó mình phải nói cái vấn đề từ tâm với mình, rồi mình phải nói từ tâm với người khác”.
Cho nên cái bài thứ 2, cái đoạn thứ 2 thì mình phải nói từ tâm với người khác, rồi “từ tâm với loài động vật, với những con vật khác”, đó là mình lần lượt đi dần dần đi đến cái “Tâm Từ của mình rồi đến thứ cỏ cây thảo mộc, từ tâm của mình đối với cỏ cây thảo mộc”, rồi “từ tâm của mình đối với thiên nhiên”. Tất cả những cái này thì mấy con phải lần lượt đi như vậy thì người ta mới thấy được cái Tâm Từ của mình; nó đi từng phần chứ không được nói lộn xộn, phải nhớ những điều Thầy dặn, cho nên mình đi lần lượt. Ban đầu, mình vô mình giới thiệu cho người ta biết cái Đức Từ Tâm.
Qua cái bi tâm cũng vậy, đừng có đi lạc cái đề mà chúng ta cũng dựa vào cái đề đó mà chúng ta đi. Nhưng đến khi mà cái Hỷ Tâm, rồi cái xả tâm thì chúng ta cũng lần lượt theo đúng cái dàn bài mà chúng ta làm, thì chúng ta sẽ không bị lạc đề và không nói lung tung, không nói cái trước nói sau, cái sau nói trước, nói nó không có thứ tự.
(00:19:05) Do cái sự tu tập như vậy để triển khai cái tri kiến chúng ta nó đúng cách và đồng thời thì Thầy cũng nghĩ rằng cái lớp học của chúng ta cần phải có cái sự thu thập tất cả những cái kiến thức của huynh đệ nhau. Người có những kiến thức hiểu ở góc độ này, kẻ có kiến thức hiểu ở góc độ kia cho nên lần lượt thì trong những cái giờ mà chúng ta hỏi đạo thì chúng ta có thêm một cái phần là chúng ta đọc lại những cái bài trong một buổi mà hỏi đạo, như buổi sáng hỏi đạo. Như giờ này, thì chúng ta cho đọc một cái bài của người nào đó khi mà Thầy chọn thấy cái bài đó có những cái ý kiến hay, có những cái tri kiến nó cụ thể hơn, có những mẩu chuyện đưa vào nó thực tế hơn, thì chúng ta sẽ lần lượt chúng ta đọc để chúng ta thu thập những cái kiến thức cùng nhau để mà tu, để mà học, để mà đi đến cứu cánh giải thoát.
Như vậy thì theo Thầy thiết nghĩ thì chúng ta đọc thì nó có mất thì giờ nhưng mà nó có lợi ích chứ không phải không. Vì chúng ta nghe được thì chúng ta mới hiểu được để mà chúng ta có cách thức để mà chúng ta viết bài hoặc là chúng ta dùng cái tri kiến đó mà chúng ta xả cái tâm của mình dễ dàng hơn. Càng lúc đào tạo thì chúng ta càng có sự hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề vô lậu, làm chúng ta hiểu biết mọi mặt như thật, đúng như thật, không còn sai và đồng thời con đường tu chúng ta càng ngày nó càng tiến bộ hơn. Là vì ngầm ở trong tâm chúng ta, khi mà thực sự hiểu biết thì nó xả tâm rất nhiều, nó ly dục, ly ác pháp rất nhiều.
Chẳng hạn như bây giờ đọc cái bài mà Thực Phẩm Bất Tịnh thì mình nói cái thực phẩm bất tịnh này bắt đầu mình nghe, mình đã viết rồi, rồi bắt đầu bây giờ mình nghe một bài của người khác nói về thực phẩm bất tịnh làm cho mình ớn một lần nữa rồi, rồi bắt đầu nghe một cái bài của người khác nói về thực phẩm bất tịnh thêm cho mình làm mình ngán nữa rồi. Mình cứ như vậy 10 bài, 20 chục bài mà nghe như vậy, bây giờ thì chúng ta thấy nhàm chán ăn uống quá.
Người nói bất tịnh góc độ này, kẻ nói bất tịnh góc độ khác. Bây giờ nhìn cái thực phẩm này chúng ta hết muốn ăn rồi, bởi vì mười lần nghe chứ đâu phải một lần; nó thấm nhuần trong đầu của chúng ta nhiều hơn. Cho nên nếu có điều kiện mà chúng ta được đọc những cái bài của huynh đệ của mình với nhau, thì mình lại học thêm những cái điều này rất hay; nó thấm nhuần rất hay.
Thí dụ như các pháp vô thường thì người viết các pháp vô thường như thế này, kẻ viết các pháp vô thường như thế kia, tổng hợp lại trong một tuần lễ mà chúng ta được đọc từng cái bài. Mỗi lần chúng ta được đọc một bài thôi vì thì giờ chúng ta không có. Rồi người kia được nghe cái bài của người nọ, người nọ được nghe cái bài của người kia, cuối cùng thì chúng ta thấy rõ ràng là các pháp vô thường thật sự. Mình chỉ góc độ mình hiểu như vậy nhưng mà góc độ người khác người ta lại diễn tả một cách khác hơn, người ta nói thì mình cũng thấy cụ thể rõ ràng.
(00:22:04) Còn bây giờ đợi chúng ta đánh vi tính để mà in thành sách rồi chúng ta đọc, theo Thầy thấy nó không thấm nhuần bằng cái chúng ta nghe. Cho nên ví dụ như bây giờ có một cái máy thu băng mà người ta cứ để, người ta nghe hoài, lần lượt nó cũng thấm nhuần cái pháp trong tâm họ; họ không học đâu, nhưng mà họ nghe, nghe rồi tự nó học thuộc, thuộc rồi tự nó thuấn nhuần, thấm nhuần rồi trong cuộc sống của họ họ sẽ do sự thấm nhuần đó thì họ không có làm trái cái gì mà họ được nghe, họ thấy cái điều được nghe đó rất hay và nó đem lại sự lợi lạc của họ rất lợi ích cho nên từ đó “họ không làm ngược lại điều họ được nghe cho nên họ trở thành một người tốt”.
Đó là cách thức chúng ta tự ám thị, tự dùng âm thanh đó mà ám thị cái tâm chúng ta để trở thành người tốt. Đó là cách thức mà chúng ta rèn luyện, tập luyện mọi mặt để chúng ta đi đến chỗ giải thoát hoàn toàn. Theo Thầy thiết nghĩ, nếu mà có điều kiện thì chúng ta nên sử dụng những điều kiện đó rất lợi ích.
Qua lớp học này, nó chưa phải là lớp học mà chúng ta trong cái trạng thái mà chúng ta nhiếp tâm để giữ gìn thanh thản, an lạc, vô sự mà bây giờ chúng ta đang thấm nhuần, làm cho thấm nhuần cái lý vô thường, thấm nhuần những kiến thức hiểu biết của chúng ta về cái pháp như thật, thì chúng ta cần phải có nghe, cần này kia trong cái giai đoạn này. Thì mấy con ví dụ như nghe Thầy giảng rồi, về mở nghe cái thấy nó thấm nhuần thêm chứ không phải là không đâu. Giai đoạn này chưa phải là giai đoạn chúng ta ngồi yên để mà chúng ta vào định, để mà chúng ta giữ tâm bất động của chúng ta để đi đến khi mà nó sung mãn Tứ Niệm Xứ hoàn toàn. Mà giai đoạn này là giai đoạn triển khai tri kiến của chúng ta và thấm nhuần cái lý chân thật của đạo Phật, thấm nhuần cái lý vô lậu của Phật pháp.
(00:23:56) Trưởng lão: Cho nên trong khi tu tập như vậy thì theo Thầy thiết nghĩ chúng ta phải có đủ phương tiện để nó tự kỷ ám thị. Bây giờ chúng ta nghe một cái lời dạy đó thì nó cũng là ám thị chúng ta trong tâm chúng ta. Cách thức mà chúng ta dùng những phương tiện hiện đại mà nó có như thế này, thì cái thời gian chúng ta tu tập nó cũng nhanh lắm, nó cũng tiện lợi, biết áp dụng. Còn nếu mà không biết áp dụng thì chúng ta nghe chơi, thì cái đó là không hay.
Cho nên một khi mà chúng ta ngủ đi, Thầy nói “mình ngủ thôi, mà mình vẫn mở cái máy để cho mình nghe thôi thì nó vẫn ám thị trong tâm chúng ta chứ không phải là không - còn huống hồ là chúng ta đang lắng nghe nó thì nó ám thị rất nhiều trong tâm của chúng ta”. Cho nên cái phương pháp của Phật là “cái phương pháp Như Lý Tác Ý, là cái phương pháp tự kỷ ám thị chứ không có gì hết, nếu mà chúng ta xét thấy đó là phương pháp tự kỷ ám thị”. Mà “tự kỷ ám thị nó giúp chúng ta trở thành con người tốt, con người hoàn toàn toàn thiện cho nên cái phương pháp rất hay”. Vì vậy mà “ngay cả bệnh đau mà chúng ta dùng phương pháp tự kỷ ám thị mà nó còn đẩy lui được bệnh chứ chúng ta có làm được gì cái bệnh chúng ta đâu”.
Thế mà cái phương pháp tự kỷ ám thị về bệnh nó vẫn hết được; nó có phương pháp là tại vì mình tự kỷ ám thị mà mình có an trú. Còn thường thường, Thầy đọc cái phương pháp của cái hệ phái, giáo phái khác họ dạy về tự kỷ ám thị đó thì nó không có cái phương pháp an trú; còn cái này chúng ta có phương pháp an trú, khi mà chúng ta tự kỷ ám thị rồi thì chúng ta trú vào một cái nơi nào đó. Cho nên cái phương pháp của Phật nó tuyệt vời hơn, là nó có cách thức hơn.
“Cũng như mà cái phương pháp Như Lý Tác Ý là đòn bẩy, mà cái an trú nó là cái điểm tựa, cho nên nó có cái điểm tựa mà nó bẩy”. Còn cái kia nó chỉ ám thị thôi, nó để nhắc nhở mình thôi chứ còn nó không bẩy, cho nên vì vậy mà nó không thể… Phương pháp tự kỷ ám thị của các giáo phái khác thì nó không thể trị bệnh được, đối trị bệnh được, còn phương pháp của Phật thì nó đối trị bệnh được.
(00:26:02) Còn chúng ta tự kỷ ám thị như: "Tâm chúng ta như cục đất, ly tham, sân, si hết" thì khi mà chúng ta tác ý như vậy thì chúng ta có điểm tựa của nó để mà nó ly tham, sân, si; do đó chúng ta tựa vào cái thanh thản, an lạc, vô sự của chúng ta. Các con nghe Thầy nói: "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết", rồi bắt đầu cái mình tác ý: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", tức là mình nương tựa vào thanh thản, an lạc, vô sự. Nhờ cái điểm tựa đó mà “nó bẩy” đi tất cả những cái, phương pháp tác ý đó nó sẽ “bẩy” đi tất cả cái tham, sân, si của chúng ta.
Còn bây giờ thân chúng ta bệnh thì chúng ta cũng thấy rõ ràng là chúng ta cũng có cái điểm tựa. Chúng ta tác ý: "Thọ là vô thường, cái đầu nhức này phải đi, phải rời khỏi thân ta!" rồi "An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra" thì mình tựa vào hơi thở chứ mình đâu có tựa vào cái bệnh của mình đâu. Cho nên vì vậy mà nó có cái điểm tựa để đẩy cái bệnh mình ra. Còn cái tâm của mình tham, sân, si, thì mình cũng có điểm tựa vào sự bất động của nó là thanh thản, an lạc, vô sự; rồi cũng bẩy cái tham, sân, si ra; cuối cùng thì tham, sân, si nó hết. Các con thấy đạo Phật nó hay, nó có phương pháp tự kỷ ám thị rất tuyệt vời mà lại nó có điểm tựa của nó nữa.
(00:27:06) Do đó chúng ta hiểu biết rõ ràng như vậy thì chúng ta còn sợ hãi gì trước cái cuộc sống của chúng ta, trước những cái đau khổ của chúng ta, sinh - già - bệnh - chết nữa đâu. Cho nên thí dụ như hàng ngày, cơ thể mình già, mình chưa có run rẩy, chưa có lụm cụm thì mình tác ý hoặc là cơ thể mình run rẩy, lụm cụm thì mình tác ý: "Thân phải bình thường, mạnh khoẻ như một thanh niên, không có được run rẩy! Phải quắc thước!", mình tác ý như vậy chứ mình có làm gì được nó đâu, nhưng mà mình biết an trú trong cái bất động của mình, bất động tâm, thì cái cơ thể này nó sẽ phục hồi lại, nó không còn run rẩy. Hầu hết một số người già và đồng thời một số Hoà Thượng mà hiện bây giờ tay chân run rẩy, đi đứng không có vững vàng do đó không biết phương pháp. Chứ còn biết phương pháp thì cơ thể của họ đến khi họ chết vẫn là khoẻ mạnh, vẫn là quắc thước chứ không phải yếu đuối, run rẩy như vậy, đi không dám bước, thì đó là không biết Pháp Phật.
Cho nên thậm chí như đức Phật 80 tuổi rồi, Ngài cũng ôm bình bát đi xin, cho đến ngày Ngài chết Ngài vẫn còn đi trên đường cuối cùng đến nơi hai cây Sa La, Ngài nằm ở dưới tảng đá đó rồi Ngài tịch một cách rất tự nhiên chứ đâu phải là Ngài đi không nổi. Chúng ta thấy rõ ràng là Ngài còn đi rất là khỏe khoắn là do cái chỗ mà chúng ta thấy phương pháp của Phật rất hay. Cho nên Thầy nhắc nhở như vậy để cố gắng mà chúng ta phải hiểu cho rõ ràng để mà chúng ta tập luyện đúng cách.
Trong khi cơ thể chúng ta hiện giờ mạnh khoẻ, ngày mai đau thì chúng ta cũng biết cách nương tựa. Chứ đừng có, khi mà tu theo đạo Phật rồi, đừng có tưởng là khi chúng ta đau bệnh thì chúng ta chạy đi uống thuốc, bác sĩ này kia; chưa chắc là thuốc thang, bác sĩ đều giỏi hơn chúng ta đâu. “Phương pháp của Phật là Thánh dược, phương pháp của Phật là thần dược để mà đối trị với các bệnh nghiệp của chúng ta. Thế mà chúng ta không lấy thần dược mà chúng ta lấy phàm dược để mà chúng ta trị thì thử hỏi chúng ta là con người quá là vô minh, không có sáng suốt”.
(00:29:02) Đã Thánh dược không dùng trị mà đi trị cái phàm dược thì thử hỏi làm sao phàm dược bằng Thánh dược được. Mà nếu mà lấy phàm dược mà uống thì nó hết bệnh này thì nó sẽ sanh bệnh khác; nó làm cho chúng ta còn khổ thân chúng ta nữa bởi vì thân chúng ta là cái bộ máy mà. Nếu mà nó trị như vậy, nó chẳng qua là nó sẽ hư thêm cái thân của chúng ta chứ có lợi ích gì. Còn cái này chúng ta lại dùng cái Thánh dược thì nó không có hại cho cái thân của chúng ta chút nào. Nó trị cái bệnh đó được thì nó sẽ bình an luôn và đồng thời chúng ta sống đời sống giới luật thì chúng ta lại chuyển được cái nhân quả nữa.
(00:29:35) Trưởng lão: Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy là con đường mà chúng ta tu hành càng lúc càng sáng suốt. Nó đem đến sự lợi ích cho chúng ta thiết thực chứ không phải là có một cái gì mù mờ hết, hoàn toàn nó ở chỗ tự lực của chúng ta, cứu cánh của chúng ta. Cho nên chúng ta phải nỗ lực, và nỗ lực tu như vậy thì Thầy xin nhắc lại: "Độc cư là điều tiên quyết nhất", chúng ta không nên nói chuyện với nhau, mà chúng ta hãy nỗ lực, người nào lo bổn phận người nấy; nghĩa là “thấy lỗi mình, không thấy lỗi người” và đồng thời chúng ta kết hợp những cái ý kiến của hiểu biết về Định Vô Lậu, chúng ta phải cố gắng. Thầy giúp làm sao, tìm cách làm sao mà mỗi ngày chúng ta được nghe một cái bài của người bạn đồng tu của mình để mình thu thập những kiến thức, cùng nhau để mà triển khai những tri kiến của mình trên con đường vô lậu cho nó cụ thể rõ ràng hơn.
Thầy tin là có nhiều bài rất hay nhưng mà chúng ta không được đọc hết chứ không phải không. Do đó thì có một số bài mà Thanh Trí đã kết hợp lại trong cái tập tin nhưng mà vì không có đủ điều kiện máy móc làm cho kịp để mà gửi cho quý Thầy, quý cư sĩ được đọc trong cái dịp Xuân này, mới có làm được một số ít thôi cho nên gửi cho những người ở xa mà chúng ta thì ở đây chưa có, cho nên Thầy nghĩ rằng lần lượt thì chúng ta sẽ có. Nhưng mà đây chỉ là kết hợp số bài nhỏ thôi chứ chưa phải là toàn bộ của cái số tu sinh của Tu viện của chúng ta. Bởi vì người nào nó cũng có cái đặc biệt của mỗi người ở trong cái lớp học này.
Cho nên trừ ra những người nào mà không chịu làm, không chịu tư duy, không chịu suy nghĩ, thì sẽ làm không được thôi chứ còn hoàn toàn chúng ta người nào cũng có thể làm được. Như thầy Pháp Châu, thầy dở hơn các bạn nhiều lắm, thầy rất dở hơn mọi người, thầy viết không có được nhưng mà thầy vẫn có những câu, những lời tuy ngắn, một hai câu thôi nhưng mà thầy nói mà chúng ta cũng cần thấy để mà sau này nghe và thấy những lời nói đó là lời nói chân thật khi mà nhận xét qua cái nhân quả, qua cái thân vô thường, qua cái đạo đức nhân bản - nhân quả. Thầy nói một câu, hai câu chứ không nói nhiều nhưng mà nó cũng có ý nghĩa của sự tu tập; nó ngắn gọn nhưng mà cũng đầy đủ; đó là sư Pháp Châu, viết chừng một trang, hai trang chứ sư không có viết nhiều nhưng mà nói lên được cái ý của cái đề tài mà Thầy đã đưa ra.
(00:32:13) Cho nên hôm nay chúng ta có nhiều người nói nhiều nhưng mà nói nó lộn xộn; nó cũng không hay, nói đâu nó ra đó; cho nên vì vậy đó là cái để chúng ta học tập với nhau. Cho nên ở đây, Thầy triển khai cái lớp học Chánh Kiến này, nó đem lợi ích rất lớn cho mình, cố gắng tiếp tục chúng ta sẽ học cho cuối cùng. Nhưng mà Thầy còn rất là nhiều công việc lắm mấy con chứ không phải là ít. Nếu mà có điều kiện, thì nói trước, nhưng mà có điều kiện là thí dụ như ở Hà Nội, người ta làm cái xin phép được Trung Tâm An Dưỡng, mà xin giấy phép được thì Thầy phải ra đó trực tiếp để điều khiển chứ không phải là ngồi đây nữa mấy con. Và đồng thời nếu mà ở thành phố Hồ Chí Minh, người ta xin giấy phép được thành lập cái Trung Tâm An Dưỡng, thì Thầy cũng phải đến trực tiếp trên cái vấn đề đó. Nhưng mà ở gần đây thì nó tiện hơn. Mà nếu mà ở Nghệ An, Hà Tĩnh, ở ngoài đó người ta thành lập thì Thầy cũng đâu có còn ở đây, bởi vì phải đi ra ngoài đó để điều khiển cái vấn đề đó nữa.
Thì như vậy là lớp học của chúng ta mà vắng Thầy thì Thầy thấy là mấy con cũng nhớ rằng cái đầu tiên thì luôn luôn phải có mặt Thầy nhưng mà sau đó rồi thì mấy con phải tự, trong cái thời gian này thì Thầy hướng dẫn cho mấy con làm, từ cái tu tập để áp dụng vào những tri kiến mình đang học, rồi từ cái nhiếp tâm để an trú để cho mình đi sâu vào để mình giữ gìn Tứ Niệm Xứ cho sung mãn thì Thầy sẽ dạy kỹ lưỡng trên vấn đề này.
Nếu mà có điều kiện thì Thầy phải vắng mặt trong một tuần, hai tuần, để mà lo lắng cho công việc kế tới, vừa đảm bảo cho mấy con, cũng là vừa để mà xây dựng những cơ sở. Sau đó khi cái lớp học này xong, người nào mà đạt được cái điều kiện đầu tiên thì những người đó đều là nối vòng tay của Thầy, Thầy đến cơ sở đó mà đứng ra mà hướng dẫn đạo đức những cái lớp Chánh Kiến đầu tiên ở những nơi đó, Thầy rất mong điều đó.
Cho nên ở đây thì khi mà Thầy vắng mặt thì mấy con cũng đừng có dao động tâm gì hết mà phải ráng lo tu tập, làm bài cũng kỹ lưỡng hẳn hòi, chờ Thầy về, Thầy sẽ chấm lại những cái bài đó coi đúng - sai, những chỗ nào đủ hay là chưa đủ, Thầy gợi ý thêm để cho chúng ta có tri kiến cho nó đầy đủ, để hoá giải, để nó chuyển biến, để nó ly đi tất cả cái dục và cái ác pháp mà trong tâm của chúng ta đang còn, đó là cách thức chúng ta hiện tu tập. Như vậy thì khi Thầy có vắng mặt thì quý Thầy cũng bình an, đừng có thấy Thầy vắng mặt trong một ngày, hai ngày, một tuần lễ rồi dao động tâm, đừng có lo lắng thế này thế kia.
(00:34:49) Bởi vì Thầy còn quá nhiều công việc chứ không phải ít. Thậm chí như Thầy còn phải soạn thảo cái bộ Giới Luật của Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni; con thấy còn bốn tập chứ đâu phải ít. Bốn tập đó thì nó dạy về Oai Nghi tế hạnh, rồi nó còn nói về những Tri Kiến, những Tà Kiến của những tư tưởng của ngoại đạo; nó nằm ở trong cái bộ giới.
“Người nào bị chấp vào một kiến chấp nào của cái sai, không có đúng; ví dụ như mình chấp về thế giới siêu hình, cõi Trời có, thì trong bộ giới nếu mà chấp cái đó thì coi như là một cái giới mình đã phạm đó. Vì cái đó nó không có đúng với sự thật; nó không có đúng như thật mà mình dính kẹt cho đó là có như thật thì cái người tu theo đạo Phật mà bị dính kẹt như vậy đương nhiên là coi là phạm giới”.
Sau này, 62 lập luận của Bà La Môn ngoại đạo ngày xưa đó, nó được nằm trong bộ giới hết. Nghĩa là “một cái lý luận nào đó cho rằng cái lý luận đó đúng nhưng mà khi bộ giới này nó sẽ đưa ra thì nó cho lý luận như thế đó là nó không thật. Không thật mà bị dính kẹt vào cái tri kiến đó, cái hiểu biết đó thì đương nhiên là mình bị phạm giới”. Bộ giới nó đi sâu tới mức độ nó dạy như vậy chứ không phải nó dạy những giới cấm thường thường không đâu mà nó đưa cho mình thấy từ cái tư tưởng mà mình gọi là tư tưởng chân chánh như thật, cái hiểu biết như thật, mà “mình chấp vào một cái không thật là mình đã bị phạm giới”.
Những bộ giới luật đó rất lợi ích, nó làm cho chúng ta thấy sáng tỏ vô cùng, không còn bị một cái tư tưởng của tà kiến ngoại đạo nào mà có thể xen vào cái đầu óc chúng ta được. Cái bộ giới nó đưa ra đời thì tất cả những tư tưởng mà trừu tượng ảo giác, “những hình ảnh mà ngồi thiền 6, 7 tháng mà không ăn uống, đều là bị dẹp hết; những tư tưởng, những kiến giải, tư tưởng này đều bị dẹp hết”. Bởi vì cái bộ giới luật nó đi đến cái chỗ đó mà Thầy thì không có thời gian để mà giải thích những cái điều này, để thành những bộ giới luật của Phật nó trọn vẹn.
Đó thì mấy con thấy cái bộ giới luật từ xưa đến giờ chưa có ai biết cái điều này đâu, Thầy cũng triển khai ra mà rõ ràng là cái kinh nằm trong kinh Phạm Võng, cũng là kinh Sa Môn Quả ở trong Trường Bộ Kinh. Rõ ràng là bài kinh của đức Phật hẳn hoi trên cái vấn đề này chứ không phải là Thầy đặt, nhưng mà chỉ là triển khai thôi. “Người ta thấy đức Phật chỉ đưa ra nói bác 62 lập luận của ngoại đạo chứ không phải đâu, đó là giới luật của Phật chứ không phải là 62 lập luận của ngoại đạo đâu. Mà giới luật của Phật là không chấp nhận những tư tưởng sai đó. Nó hay đến mức độ như vậy thì mấy con thấy bộ giới luật như vậy nó có giá trị rất lớn”.
(00:37:33) Mà mình được đi qua một giai đoạn đầu là 2 tập đầu tiên thì đó là những giới cấm nhỏ nhỏ thôi và đồng thời những cái giới hành ở trong 2 cái tập đầu mà mình thấy còn tuyệt vời, còn làm cho những người tu sĩ khác mà phạm giới họ bị động tâm. Còn bây giờ đưa ra tất cả những bộ giới này sáu tập như vậy thì nó làm cho cái giới tu sĩ chúng ta càng ngày nó càng hướng về Chánh Pháp rõ ràng hơn, đẹp hơn, và hiểu biết rất rõ ràng.
Cho nên vấn đề làm cái công việc này, Thầy còn phải có nhiều thì giờ làm chứ nếu mà cứ luôn ngày nào cũng đọc bài của mấy con cho để chỉnh sửa và luôn lúc nào cũng đứng lớp giảng như thế này thì những bộ sách đó không biết chừng nào cho rồi, cho xong. Và đồng thời nó còn bộ sách Đạo Đức mà mấy con đã tiếp tay Thầy một phần nói về đạo đức nhân bản - nhân quả rồi, mấy con đã có một phần tiếp tay, vì vậy mà trong khi cái bộ sách Đạo Đức của Thầy, khi mà còn hai mươi mấy tập, coi như được hai tập rồi, nó còn hai mấy tập nữa, thì hai mươi mấy tập nữa đó mà cho ra đời, cộng với cái số của các con viết về đạo đức nữa thì chúng ta sẽ có một bộ sách Đạo Đức rất là tuyệt vời, vừa Thầy mà cũng là vừa các con. Cho nên cái bộ sách mà đạo đức nhân bản mà Thầy gợi ý cho mấy con viết đó, thì nằm trong những cái Định Vô Lậu này, mấy con đã từ cái nhân quả thảo mộc cho đến nhân quả con người, cho đến thân vô thường, cho đến các pháp vô thường đều nằm ở trên cái đường đi của đạo đức của đạo Phật hết đó mấy con. Chuyển nó từ đức hạnh của nó, trở thành cái bộ đạo đức hết đó.
(00:39:07) Cho nên mấy con làm sau này mấy bài từ thí dụ như quán thực phẩm bất tịnh nó cũng là cái đạo đức ở trong đó rồi. Cho nên chuyển từ cái bài này, chúng ta chuyển qua cái đạo đức liền tức khắc, chỉ cần thay đổi vài ba từ ở trong đó thì nó trở thành một cái bài đạo đức rồi, thành bài đạo đức của nó rồi. Cho nên chúng ta khéo léo chúng ta chuyển nó qua thì nó trở thành cái bộ sách Đạo Đức của mấy con đầy đủ hết. Mỗi đứa đều có một cái ý, đều có một góc độ nhìn của cái góc độ đạo đức của nó cho nên nó trở thành bộ sách Đạo Đức tổng hợp của một số Tăng sinh của chúng ta hợp lại thì chúng ta có bộ sách Đạo Đức. Trong khi Thầy viết ra một cái bộ sách Đạo Đức kế tiếp thì giữa Thầy trò chúng ta cộng tác; chúng ta thành lập cái bộ sách Đạo Đức đó; nó có giá trị. Các con thấy những cái bài mà các con viết, bây giờ có nhiều cái bài có giá trị lắm mấy con. Người ta đọc, người ta thấy, người ta rất là thích thú bởi vì từ xưa đến giờ người ta chưa có từng nghĩ và cũng chưa từng hiểu.
Nhưng bây giờ người ta đọc, thí dụ như người ta đọc cái bài của Thầy Thanh Quang nói, giới thiệu về cái đạo đức nhân bản thôi, đó là cái tựa đề giới thiệu thôi, giới thiệu coi như là cái tựa đề của cái bộ sách đạo đức đó, thì chỉ cái bài giới thiệu thôi, người ta đọc người ta cũng thích thú. Còn những bài khác của mấy con như Từ Quang, hoặc như Chơn Thành, này, kia mọi người hoặc là như Nguyên Thanh vậy đó, thì người ta đọc… Do đó bộ sách này nó được đưa lên, những cái bài này được đưa lên thì nó làm cho con người, mọi người, người ta đọc được, người ta thấy nó có cái gì nó mới mẻ; nó có cái gì nó đặc biệt, nó có cái gì lạ chứ không phải là như người ta đọc sách thường đâu; nó có cái hay trong đó đó mấy con; nó có lợi ích. Khi người ta đọc rồi nó làm cho người ta có sự thay đổi chứ không phải là người ta đọc rồi người ta vẫn giữ nguyên đâu, không phải đâu, người ta thấy có những cái đặc biệt đó.
(00:40:58) Trưởng lão: Cho nên bây giờ chúng ta chưa có được phổ biến chứ mà chúng ta được phổ biến vừa sách vở, vừa trên mạng thông tin nữa thì người ta sẽ theo dõi trong cái lớp học của chúng ta rất nhiều. Cho nên ta cố gắng hoàn chỉnh, chúng ta phải sửa đi sửa lại cái bài chúng ta; chúng ta đừng nghĩ là chúng ta viết hoài nó không hết, không phải đâu, tới một lúc nào mấy con chỉnh đến một mức độ mà mấy con không còn chỉnh được nữa; đó là mấy con đã triển khai tri kiến của mình trên cái phần của cái đề tài đó nó đã hết rồi.
Còn mấy con còn sửa, còn thêm, còn bớt này kia thì nó chưa hoàn chỉnh đâu. Cho nên chịu khó triển khai tri kiến mình cho hoàn chỉnh, thật hoàn chỉnh. Vì vậy cái bài này viết rồi, mình đọc đi hoặc nửa tháng mình đọc trở lại thì mình thấy có thêm, có bớt ở trong đó. Thì càng lúc cái bài của mình nó lại càng hoàn chỉnh hơn thì cái tri kiến hiểu biết càng hoàn chỉnh hơn chứ có gì đâu.
Cho nên phải cố gắng, phải bền bỉ chứ, đừng có vội vàng mà viết làm như là học trò viết rồi ném, rồi lo học cái khác thì không phải đâu. Ở đây, chúng ta nhẩm đi nhẩm lại rất nhiều, đừng có vội vàng ném bỏ nó một lần rồi thôi, rồi mình không có động tới nó nữa. Hoặc là mình lười biếng, mình chỉ viết một lần thôi, không phải đâu mấy con, chịu khó. Bây giờ mấy con biết mà những cái tập giấy mấy con viết, cả tập như vậy đó, nhưng mà khi chịu khó đọc lại, mấy con chỉnh lại thì mấy con viết lần nữa. Cho nên, nếu mà ở trong cái lớp chúng ta, mỗi người đều có một cái máy vi tính là rất là tiện lợi là vì chúng ta soạn thảo, không thì chúng ta đánh trên máy vi tính rồi chúng ta sửa nó lợi lắm, nó không bị hao mực, nó không bị hao giấy nữa.
Mà sửa lên trên đó dễ dàng lắm, mình muốn thêm cái đoạn nào thì nó nhảy ra; nó thêm vào; nó không có mất cái chỗ nào hết; nó không bị bôi xóa. Còn mình muốn xoá chỗ nào nó cũng dễ, nó không khó. Cho nên ở đây thì Thầy nói thật sự ra cái thời đại của chúng ta rất tiện lợi, nếu một người nào cũng có máy vi tính hết thì những cái bài của mấy con, mấy con chỉnh, chỉnh riết thì bài của mấy con rất là hay và đồng thời cái tri kiến của mấy con rất là sáng suốt về cái Định Vô Lậu.
Đó! Hôm nay thì mấy con được nghe những cái lời Thầy, hiểu biết như vậy rồi thì mấy con nên nhớ rằng về ráng mà tu tập, đồng thời bài làm của mấy con, hiện lớp học của chúng ta đang triển khai cái Định Vô Lậu thì chúng ta phải cố gắng. Ban đêm thì chúng ta nỗ lực chúng ta tu tập ngồi giữ tâm thanh thản, hoặc là nhiếp tâm trong hơi thở, hoặc là đi Thân Hành Niệm, hoặc là đi Chánh Niệm Tĩnh Giác còn ban ngày thì chúng ta dồn hết công phu chúng ta vào cái Định Vô Lậu. Chúng ta triển khai từ những cái bài; thí dụ bây giờ cái bài mới, sau khi làm bài mới thì mình nghỉ một chút xíu rồi thì mình trở lại, đọc cái bài cũ để cho mình thấy được cái chỗ nào còn thiếu sót, còn cần thêm thì mình thêm. Và đồng thời triển khai thêm cái sự hiểu biết của mình đầy đủ hơn và biến mình trở thành một cái ngòi bút sắc bén sau này. Cái lý luận của mình bắt đầu nó khởi sắc, lý luận của mình sắc bén hơn; đồng thời những câu cú của mình bắt đầu từ trước thì nó luộm thuộm nhưng mà sau này nó sẽ gọn gàng hơn.
(00:43:57) Và mỗi lần được Thầy chỉnh sửa thì Thầy cũng khéo nhắc nhở ở trên vấn đề viết của mình thì nó không còn luộm thuộm nữa. Đồng thời thì nói chung là đầu tiên chúng ta viết thì cái bản thảo, và đồng thời, mới đầu thì chúng ta còn luộm thuộm; nó còn nhiều cái lối văn nói của chúng ta nó thừa chữ, thừa này kia nhiều lắm. Cho nên khi đọc một lần thì chúng ta chưa có quét sạch hết những cái luộm thuộm này đâu. Rồi lần thứ hai, lần thứ ba, lần cuối cùng thì chúng ta sẽ thấy những cái lời mà chúng ta viết nó gọn và nó đầy đủ hơn; nó trọn vẹn hơn.
Nhất là chúng ta có trình độ kiến thức học. Nếu mà chúng ta học được mà lớp 12 thì cái trình độ kiến thức chúng ta nó tạm đủ, còn nó thấp quá thì chúng ta cũng khó nhưng mà lần lượt rồi thì Thầy cũng sẽ giúp đỡ mấy con, hướng dẫn mấy con, để mấy con viết tốt được chứ không có sao; đừng sợ! Bây giờ cứ viết, ý của mình như thế nào cứ viết, đừng có ngại mình viết không được.
Các con cứ nghĩ sao các con viết rồi lần lượt từ đó những điều kiện mà sau này Thầy trò còn gặp nhau, Thầy sẽ hướng dẫn cho từng câu cú, cách thức để mà chúng ta bỏ cái gì, tại sao những cái từ đó phải bỏ, những cái từ đó phải lấy. Nhiều khi chúng ta viết là chúng ta cứ viết thôi nhưng khi mà đọc lại chúng ta mới gạn lọc lại từng cái từ, rồi từng cái dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm phẩy; tất cả mọi cái đều được sự hướng dẫn; rồi trực tiếp để nhắc nhở tại sao mình chấm phẩy, tại sao mình lại phẩy, tại sao lại chấm, hoặc lúc nào cần chấm than. Người ta sẽ hướng dẫn mình lần lượt những cái điều kiện cơ bản của văn phạm thì lần lượt mấy con sẽ làm được hết.
Chứ mới đầu có nhiều người viết, Thầy nói, vì văn phạm nó lộn xộn lắm nhưng mà lần lượt rồi thì sẽ cố gắng khắc phục hơn thì chúng ta sẽ trở thành những cái người viết được chứ không có sao, đừng có nghĩ là chúng ta viết không được mấy con. Mặc dù có nhiều người nghĩ rằng mình già rồi thôi học chi cho cực, không phải đâu mấy con. Có nhiều người, người ta lớn tuổi rồi mà người ta còn học sinh ngữ đó mấy con; một cái bà đó, theo trong báo chí thì cái bà đó 78 tuổi; bà còn đi học sinh ngữ, bà còn đăng ký vô bà học Đại học đó mấy con.
(00:46:16) Trưởng lão: Đó thì mấy con thấy, cái ham học người ta đến mức độ đó. Như vậy thì ở đây, chúng ta là những cái người mà chúng ta ham tu, mà ham tu thì chúng ta đừng có nghĩ rằng tôi già; tôi ráng tôi tu, tôi ngồi tôi tu thôi để tôi thành Phật; sự thật không phải điều đó, thành Phật ở cái chỗ tri kiến chúng ta mấy con; cho nên đạo Phật có tri kiến giải thoát. Mà đạo Phật là đạo trí tuệ; cho nên nhờ cái trí tuệ hiểu biết mà chúng ta giải thoát chứ không phải là chúng ta ngồi thiền nhập định như con cóc hoặc là như gộc cây đâu. Đừng có hiểu theo đạo Phật cái kiểu như vậy, không đúng đâu!
Đạo Phật là đạo trí tuệ, mà trí tuệ ở đây là cái tri kiến hiểu biết của chúng ta, làm cho tri kiến hiểu biết của chúng ta, chúng ta mới có giải thoát mà giải thoát với một con người có đạo đức hẳn hòi, con người bình thường chứ không phải là con người Thánh thiện gì đâu; một con người bình thường mà nó là Thánh thiện. Bởi vì nó, ví dụ như nó có Tứ Thần Túc, mà Tứ Thần Túc trong một con người bình thường cho nên nó không có cái gì mà đặc biệt khác với con người khác.
Cho nên đừng nghĩ rằng người chứng đạo là người khác; nó không phải vậy. Cho nên chúng ta phải hiểu “con người của đạo Phật mà tu là một con người bình thường nhưng nó rất là siêu việt; nó không bị chướng ngại; nó không bị các ác pháp tác động vào nó được cho nên nó phải đầy đủ cái tri kiến; nó đầy đủ được cái nội lực của nó”. Nếu mà tri kiến mà chúng ta có, thì “cái tri kiến đó áp dụng vào cái sự giải thoát làm cái tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp cho nên chúng ta mới có nội lực. Còn nếu mà chúng ta không có tri kiến thì chúng ta bị ức chế cho nên chúng ta bị cái thiền tưởng, thiền sai, nó không đúng”.
Cho nên ở đây, Thầy nói như vậy để thấy rõ “con đường của đạo Phật hoàn toàn nó đi từ cái chỗ mà hiểu biết của chúng ta đi vào cái sự giải thoát, chứ không phải là thiếu sự hiểu biết mà giải thoát được”. Cho nên không thể nào đạo Phật mà nói là tu dốt được, không thể nào mà tu dốt được; nó đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết rất là rõ ràng. Cho nên chúng ta vào cái “Bát Chánh Đạo, chúng ta thấy rõ ràng cái Chân Lý thứ tư của đạo Phật là Đạo Đế, mà Đạo Đế chúng ta thấy là từ Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Nghiệp”; tất cả những cái chánh này đều là chứng tỏ nó ở trong cái tri kiến của chúng ta, ở trong cái sự hiểu biết của chúng ta. “Nó chánh thì nó phải có sự hiểu biết”.
Cho nên chúng ta hiểu biết chúng ta mới nói được cái ngôn ngữ, nói ái ngữ, mà không hiểu biết thì chúng ta sẽ nói nó ác ngữ; nó không có cái ái ngữ được, mà nó hiểu biết thì nó mới Chánh Nghiệp mà nó hiểu biết nó mới sống ở trong cái Chánh Mạng. Các con thấy nó rõ ràng chớ, nó hiểu biết nó mới có Chánh Tư Duy chứ; nó hiểu biết nó mới thấy mọi vật là đúng như thật chứ. Còn nếu mà không thì nó thấy ảo tưởng; nó thấy mờ mịt đó; một cái hiểu biết, mà cái hiểu biết nó là cái trí tuệ, cái hiểu biết của chúng ta. Cho nên vì vậy mà “đi ra khỏi cái đạo Phật thì chúng ta ngồi thiền mà ức chế tâm chúng ta, không có cho phân biệt suy nghĩ điều gì đó, đó là chúng ta đã tu sai đạo Phật, không đúng!”
(00:49:02) Bởi vì Bát Chánh Đạo nó xác định được cái nghĩa của nó rồi, Chánh Định thì lúc bấy giờ cuối cùng thì chúng ta có đủ Tứ Thần Túc. Cho nên nó ngồi im thì một tháng, hai tháng rất dễ dàng; vì đó là đạo lực của chúng ta có rồi. Còn bây giờ đầu tiên là chúng ta là con người sống bình thường như mọi người, có cái gì đâu. Nhưng mà định, cái định đâu phải là cần thiết, cho nên lớp Chánh Định thì nó nằm ở lớp thứ tám, để chúng ta nói lên cái đạo lực của chúng ta làm chủ được sinh già bệnh chết của chúng ta thôi chứ không phải là để chúng ta ngồi đó như con cóc, hoặc là ngồi nhịn ăn 6, 7 tháng, đó là cái sai.
Cho nên ở đây người ta hiểu lầm Phật giáo một cách rất là lệch lạc. Trong khi triển khai cái tri kiến của chúng ta thì không triển khai, mà lại triển khai cái thiền định điên khùng, ai cũng tu một cách rất là điên khùng như vậy làm cho chúng ta mất đi con người của chúng ta, con người rất là bình thường mà rất là siêu việt. Cho nên ở đây từ cái chỗ tri kiến hiểu biết của mấy con rồi thì bắt đầu mấy con hiểu biết điều đó làm sao mấy con làm cái điều ác đó.
Cũng như bây giờ mấy con biết thực phẩm mà mấy con còn tham ăn sao? Thực phẩm là bất tịnh, mà bây giờ còn tham ăn để làm gì? Chẳng hạn bây giờ mấy con biết là cái thân này là bất tịnh mà, cái thân này là dơ bẩn mà, mà các con biết rất rõ ràng cụ thể vậy mà còn tham dục để làm gì đây? Do không tham dục thì mấy con làm sao mà có những cái ái kiết sử, có những cái điều kiện khác. Cho nên “sắc dục nó rất là nguy hiểm, nó là con đường sanh tử mà bây giờ chúng ta biết cái thân này bất tịnh thì chúng ta đâu còn tham đắm nó nữa, mà bất tịnh như thật chứ đâu phải là bất tịnh sơ sơ”.
Cho nên vì vậy khi mà chúng ta quán thấy rõ ràng sự thật thì chúng ta nhàm chán; chúng ta ghê gớm cái thân chúng ta vô cùng thì còn chỗ nào nữa mà chúng ta lại ham thích sắc dục nữa. Nó là những cái điều như thật, nó bằng cái tri kiến, bằng cái sự hiểu biết cho nên sự hiểu biết của chúng ta nó sẽ ngăn chặn được những ác pháp, nó làm cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn do cái sự hiểu biết đó. Vậy thì sự tu học theo đạo Phật tại sao chúng ta không khai triển cái sự hiểu biết? Mà khai triển sự hiểu biết đó bằng con đường đúng đắn mà Phật đã dạy cho chúng ta; chúng ta tu. Các con thấy đức Phật đã vạch cho chúng ta rõ ràng mà.
Bây giờ nói Tứ Vô Lượng Tâm thì đức Phật cũng vạch cho chúng ta biết được chỗ Tứ Vô Lượng Tâm là như thế nào; Tâm Từ, Tâm Bi nó ở chỗ nào thì chúng ta cũng hiểu biết nó ở vị trí gì để cho chúng ta hiểu biết, để mà triển khai nó. Rồi Tâm Hỷ, Tâm Xả thì nó ở vị trí nào để mà chúng ta triển khai cho đúng. Chứ ai cũng nói xả được; ai cũng nói hỷ được nhưng mà cái hỷ đó nó nằm ở chỗ nào, mà cái xả đó nó nằm ở đâu.
Cho nên chúng ta sẽ bị lầm lạc, sẽ bị kiến giải tưởng giải mất đi, nó không đúng, mà không đúng thì tức là nó sai, nó không như thật, nó không như thật pháp của Phật do đó làm sao chúng ta có sự giải thoát được.
Cho nên ở đây chúng ta học đúng, làm đúng thì chúng ta sẽ được giải thoát, nói đúng. Còn những bài nào mà không đúng thì Thầy sẽ cho làm lại chứ không được đọc, đọc không đúng rồi nhiễm cái sai của người khác cho mình sao. Cho nên cái bài nào đúng thì được đọc còn cái bài nào không đúng thì chúng ta chỉnh lại, giúp cho cái người mà viết sai đó họ viết lại cho đúng.
(00:51:54) Thí dụ như bây giờ cái bài nói về Tâm Từ mà các con cứ nói Tâm Bi ở trong đó không, xong cứ đọc Tâm Bi không thì như vậy là nó trật đi, các con cứ nghĩ, rồi làm cho mấy con hiểu từ cái chỗ Tâm Từ mà mấy con lại hiểu qua Tâm Bi, rồi từ Tâm Bi mấy con lại hiểu là Tâm Từ, biến dần mấy con sự lộn xộn như vậy thì làm những bài đó thì không được đâu, không được đọc làm cho mấy con bị lệch lạc. Từ cái bài mà mấy con viết đúng thì Thầy sẽ đưa ra. Còn đây là Tâm Từ thì do đó thì bài đó được đọc cho chúng ta nghe, tất cả như thế này là Tâm Từ, do đó những sự kiện, những hiện tượng xảy ra các con biết đây là Tâm Từ, còn cái Tâm Bi thì các con biết đó là Tâm Bi, như vậy là mình học đúng và hiểu đúng. Và “học đúng, hiểu đúng cho nên tâm mình nó sẽ Ngăn ác, Diệt ác hoặc là nó ly dục, ly ác pháp, nó hoàn toàn được giải thoát”.
Đó thì hôm nay mấy con được nghe và được thu thập những điều kiện mà học hiểu. Vậy thì bây giờ còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? Thầy sẽ lần lượt Thầy sắp xếp để cho trong cái buổi mà thưa hỏi. Nhiều khi chúng ta hỏi linh tinh mà chúng ta không xoáy. Nhiều khi chúng ta đem cái chuyện tình cảm của chúng ta đâu đâu đó mà chúng ta lại đem vào lớp học để làm mất thì giờ rất lớn; nào là kể chuyện chồng con của mình, nào là kể chuyện đánh lộn đánh lạo, nào là kể chuyện ở tù đâu không à cho nên nó lung tung đủ thứ.
Rồi cái chuyện mà nó không đáng mấy con cũng đưa ra mà hỏi thay vì mấy con phải xoáy vào cái câu hỏi của phương pháp tu, thí dụ như bây giờ học về cái Định Vô Lậu, mà nói về cái Tâm Từ thì mấy con cứ hỏi ngay Tâm Từ, Tâm Từ đó con hiểu nó như vậy thì có đúng hay không để mà Thầy xác định cho cái đúng - sai, để cho mình về làm cho đúng. Và đồng thời bây giờ con tu như vậy, buổi tối này con tu như vậy con gặp cái trường hợp như vậy; nó có như thế nào, cái trạng thái như vậy, thì báo cho Thầy những cái điều kiện đó.
Cái buổi học của mình nó lợi ích là trong khi đó mình đừng có đem chuyện tình cảm, tâm tình của mình ở đâu mình đem vô đây mình nói chuyện, thì thật ra buộc lòng người ta phải ngồi nghe tất cả những cái tâm tình. Sự thật Thầy là người lắng nghe những cái đau khổ đó để an ủi mấy con thì phải, mà bắt mọi người ở đây mà ngồi nghe cái tâm lý tình cảm của mấy con thì rất tội. Cho nên vì vậy mà Thầy mong rằng đừng có đem cái chuyện mà ở trong cái lớp học của mình, đem ngay, xoáy ngay vào các đề tài học, tu của mình ở đây mà hỏi, thì cái này nó hay. Chứ không khéo mấy con đem những cái chuyện gia đình, chuyện tình cảm mà hỏi Thầy, chuyện nhân quả lung tung thì nó không có lợi ích, nó mất thì giờ rất lớn.
(00:54:16) Trưởng lão: “Ông A Nan đi kinh hành mà suốt đêm, mà chứng đạo, đó là đi pháp Thân Hành Niệm, là sau khi Tứ Niệm Xứ đã sung mãn”. Nghĩa là, “ông A Nan mà tu tập thấy sung mãn được Tứ Niệm Xứ, tức là tâm thanh thản, an lạc, vô sự, tức là ông ly dục, ly ác pháp hoàn toàn rồi”. Nhưng mà vì chưa có đủ Tứ Thần Túc, cho nên người ta chê ông là chưa có chứng đạo. Chứ thật sự ra thì ông A Nan ông đã, ông là một cái người đa văn, Phật nói đâu thì ông hiểu cho nên cái tri kiến của ông nó ly dục, ly ác pháp rất nhiều, cho nên về vấn đề mà Tứ Niệm Xứ thì thanh thản rất dễ dàng.
Cho nên vì vậy mà cái phương pháp tự kỷ ám thị nó thiếu cái lực cho nên vì vậy một đêm mà ông đi kinh hành, mà gọi là đi kinh hành đó tức là đi pháp Thân Hành Niệm. Cho nên đọc cái bài pháp Thân Hành Niệm, chúng ta thấy nó có mười Như Lai Lực; cho nên nó thực hiện được Tứ Thần Túc ở trong cái pháp đó, mà trong khi ông A Nan đã ly dục, ly ác pháp hoàn toàn cho nên nó không bị tưởng. Còn chúng ta hiện giờ mà đi một đêm thì chắc chắn là nó bị tưởng, còn không ấy là nó bị thọ hành; nó bị thọ hành tức cũng là tưởng hành đó, nó làm cho chúng ta đau nhức chân hoặc là bắp chân này nó cứng săn lên, đi hết muốn nổi. Một đêm đi mà như vậy đó mà sáng hôm sau không biết chừng nó mắc bệnh nữa là khác, cho nên nó không thành tựu.
Còn ông A Nan ông đi là tại vì tâm ông thanh tịnh rồi, ông ly dục, ly ác pháp rồi. Bởi vì con người đa văn như ông A Nan là tri kiến rất là đầy đủ mà được gần bên Phật nữa cho nên vì vậy mà mỗi bài kinh nào mà ông A Nan không nghe thì ông xin đức Phật là về đức Phật phải thuật lại cho ông nghe cái bài kinh đó, thì ông xin Phật trước khi ông làm thị giả mà. Cho nên những cái gì mà đức Phật thuyết thì ông đều nắm vững ở trong đầu óc của ông hết rồi cho nên cái tri kiến ông rất lớn.
Do đó về cái tâm mà ly dục, ly ác pháp thì nhờ cái tri kiến đó mà ông xả, vì vậy mà gọi là Tứ Niệm Xứ sung mãn. Ông thanh thản được rồi, ông không còn bị vướng mắc, không còn bị lậu hoặc nữa rồi. Cho nên vì vậy mà khi kết tập kinh sách, ông Ca Diếp không có cho ông vào, cho nên ông tức ông đi một đêm Thân Hành Niệm thôi. Cho nên nói ông A Nan đi một đêm, đi kinh hành một đêm mà chứng đạo. Sáng hôm sau, cái hang mà chỗ tập kết kinh người ta đóng cửa đâu có cho ông vô đâu, ông chui qua đá ông đi vô luôn.
Thành ra ở trong đó biết là ông A Nan đã chứng đạo, kêu ông lên để mà ông kết tập kinh của Phật, những cái lời của Phật thuyết, đó là câu chuyện nói như vậy. Nhưng mà Thầy biết là ông A Nan là một người đa văn, nghĩa là ông như máy cát-xét, kêu là máy cát-xét ăn cơm đó, tức là nghe rồi thì ông nhớ rồi. Ông A Nan ngày xưa là cái đầu óc ông rất thông minh; do đó mà kết tập kinh sách đều là nhờ cái phần ông A Nan đọc trở lại rất nhiều kinh sách.
(00:57:04) Cho nên hôm nay con hỏi tại sao ông A Nan tu pháp gì mà chứng đạo, sự thật ra ông đi, theo cái truyền thuyết thì ông đi kinh hành một đêm mà chứng đạo, là tại vì nó chưa có đủ Tứ Thần Túc; cái tâm ông thì nó ly dục, ly ác pháp hoàn toàn rồi. Bởi vì cái tri kiến đó, cái tri kiến của ông A Nan là ông ly dục, ly ác pháp rồi, không có ác pháp nào tác động ông đâu. Bởi vì cái hiểu biết đó làm sao nó làm cho ông bị chướng ngại. Cho nên ông thường ở trong bất động tâm mà, trong thời đức Phật còn sống.
Nhưng khi đức Phật mất thì ông còn cái tình cảm đối với Phật rất lớn cho nên ông không bình tĩnh ông khóc đó. Các con biết vì vậy mà ông chưa có đủ đạo lực cho nên nó còn những cái vi tế. Cho nên cuối cùng khi mà Phật mất rồi, thì trong khi đó, ông chỉ cần có đi pháp Thân Hành Niệm mà ông dẹp những cái vi tế đó, cuối cùng thì ông đã có đủ Tứ Thần Túc. Chứ nếu mà ông Phật chết mà ông không khóc thì ông có đủ Tứ Thần Túc rồi, cho nên khỏi có đi kinh hành. Con hiểu không?
Cái hiện tượng đó phải biết là nó còn cái vi tế, cái vi tế xúc động, cái vi tế tình cảm của con người. Cho nên nó đã ly nhưng mà trong khi đó nó chưa hoàn toàn, chưa thật sự dẹp. Cho nên một đêm đi kinh hành, đó là một đêm đi pháp Thân Hành Niệm; nó tạo thành một cái đạo lực, đạo lực của nó tức là pháp Như Lý Tác Ý. Con thấy đi từng hành động mà phải tác ý; nó thành một cái lệnh rồi, tức là Dục Như Ý Túc đó; cho nên cái sự tu tập nó đúng cách.
Bây giờ thí dụ mấy con tu tập, mấy con dùng tri kiến của mấy con mà mấy con xả tâm, mà mấy con chưa thấy đủ cái đạo lực tâm thanh thản, an lạc, vô sự sao nó không kéo dài được 12 tiếng đồng hồ được, thì bắt đầu mấy con ôm pháp Thân Hành Niệm mấy con tu nó không bao giờ có niệm xen vô được đâu; nó như bánh xe kiên cố, như căn cứ địa rồi; nó không có cái niệm vào xen vô được hết, cho nên những vi tế gì nó cán nát hết, cho nên cuối cùng nó tạo thành cái đạo lực của chúng ta, cái phương pháp đó, mà trong khi chúng ta đã hoàn tất được cái tri kiến giải thoát, cho nên không ác pháp tác động được.
(00:58:59) Trưởng lão: Đó thì hôm nay mấy con hiểu biết được, còn ai hỏi gì Thầy nữa không? Con!
Tu sinh: Kính bạch Thầy! Hồi nãy Thầy có giảng là tác ý để mà ly dục, ly ác pháp, hay là tác ý trị bệnh, sau đó mình an trú. Thì an trú trong hơi thở hay là an trú trong tâm thanh thản, an lạc, vô sự? Vừa rồi Thầy có dạy an trú trong hơi thở?
Trưởng lão: Đây nó có hai phần, rất rõ ràng. Một cái người mà tu về Định Niệm Hơi Thở thì như Thầy đã dạy mấy con nhiếp tâm và an trú tâm. Cái mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? “Cái mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để cho đó là cái điểm tựa để chúng ta trú vào đó để đẩy lui bệnh, đẩy lui cái bệnh khổ trên thân của chúng ta”. Mà bây giờ “chúng ta còn một cái điểm nữa để an trú đó là điểm thanh thản, an lạc, vô sự; hai cái điểm lận”.
Bây giờ “chúng ta nương cái cánh tay đưa ra - đưa vô nè, nương cái bước đi chúng ta đi; bước đi 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 bước đi của chúng ta; đó là cái Chánh Niệm của cái thân hành của chúng ta. Và đồng thời hơi thở của chúng ta hít vô, hít ra, đó là cái thân hành nội; và đưa tay ra - vô và bước đi của chúng ta là thân hành ngoại, đó là cái chỗ an trú của chúng ta, chúng ta an trú vào chỗ đó. Cho nên nhiếp tâm vào cái hành động đó, rồi an trú trong đó, đó là một chỗ an trú”.
(01:00:18) Bây giờ “chúng ta còn một chỗ an trú nữa cho nên chúng ta không an trú chỗ đó, mà an trú chỗ thanh thản, an lạc, vô sự”. Đó, bây giờ Thầy nhắc như thế này, “Thầy cũng muốn đẩy lui cái cảm thọ của Thầy mà Thầy không cần cái thân hành của Thầy mà Thầy chỉ cần tựa vào cái chỗ thanh thản, an lạc, vô sự”, cái trạng thái tâm của nó; Thầy nói: "Thọ là vô thường, cái đầu đau này phải đi đi, không có được ở đây nữa, cái thân này không có được đau nữa!", Thầy chỉ tác ý như vậy rồi Thầy bảo: "Tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự" rồi Thầy ở trong cái trạng thái nhiếp tâm vào thanh thản, an lạc, vô sự đó thì cái bệnh của Thầy nó cũng hết.
Cho nên vì vậy mà trong cái Định Niệm Hơi Thở, về cái thân hành nội hay ngoại thì đức Phật cũng có dạy chúng ta những cái đề mục. Thí dụ như tâm mình tham, sân, mình đang sân thì đức Phật nói: "Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô; quán ly sân, tôi biết tôi thở ra", cái ly sân là cái tác ý, mà cái an trú là an trú trong hơi thở, tôi biết hơi thở ra, tôi biết hơi thở vô, đó là an trú.
Còn bây giờ đó, mình không sử dụng cái thân hành, mà mình sử dụng cái chân lý, tức là cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Cái chân lý thanh thản, an lạc, vô sự đó thì bắt đầu chúng ta cũng tác ý. Thí dụ như bây giờ tâm chúng ta đang sân thì chúng ta tác ý ngay liền, quán ly sân. Thay vì thì mình nói: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra" thì mình nói: "Cái tâm sân này phải đi, ở đây không phải là chỗ mà cái tâm sân này" thì mình nói như vậy, thì mình tác ý: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự" thì mình giữ gìn cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì cái tâm sân nó cũng lui đi. Thì đó là những phương pháp để mình trú, an trú cho nên nó có hai chỗ an trú mấy con. Người ta an trú vào Tứ Niệm Xứ, cái trạng thái của Tứ Niệm Xứ là thanh thản, an lạc, vô sự. Còn cái trạng thái mà cái thân hành thì đó là hơi thở, đó là cái hành động của tay và cái hành động của chân, đó là chỗ nhiếp tâm an trú. Đó là hai chỗ nhiếp tâm an trú.
(01:02:08) Cho nên chúng ta muốn sử dụng chỗ nào cũng được chứ không phải lúc nào cũng phải sử dụng hơi thở hay lúc nào cũng sử dụng bước đi của mình hay cái cánh tay của mình hay cái hành động của thân mà mình không sử dụng được trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của mình; đó là cái chỗ chúng ta tu tập. Con hỏi gì nữa không?
Về…để chúng ta biết cái chỗ trú. Bây giờ “chúng ta nương hơi thở không được, mà nương cánh tay không được thì chúng ta nương cái trạng thái bất động của chúng ta; thanh thản, an lạc, vô sự chúng ta cũng đẩy lui được cảm thọ đau khổ trên thân tâm chúng ta”.
(01:02:38) Trưởng lão: Phật pháp trang bị cho chúng ta đầy đủ hết rồi, chỉ có chúng ta chưa biết mà thôi, chứ nếu mà chúng ta biết thì chúng ta sẽ làm chủ được mấy con, sẽ làm chủ được một cách dễ dàng. Cho nên mỗi cái tâm của chúng ta, ví dụ như bây giờ đặt thành vấn đề, như bây giờ cái tâm của chúng ta đang tuôn trào, mà chúng ta biết tuôn trào rồi nó sẽ hết thì chúng ta cứ để nó tuôn trào, đừng có ngăn chặn nó. Còn nếu mà chúng ta biết là nó tuôn trào mà chắc chắn là chưa hết đâu; nó sẽ tuôn trào nó làm động chúng ta thì chúng ta cũng có những phương pháp để chúng ta ngăn chặn những tuôn trào đó.
Thí dụ chúng ta sẽ nhắc, thí dụ như bây giờ tâm mình nó đang tuôn trào, nó động, thì mình nhắc: "Tâm phải dừng lại, không có được tuôn trào ra nữa!", mình tác ý nó, bảo nó đừng có tuôn trào ra nữa. Rồi bắt đầu: "An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra", hoặc là: "Tâm không được tuôn trào nữa! Phải ở trong thanh thản, an lạc, vô sự; tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự!" Thì bắt đầu đó mình quan sát lại, mình nhìn lại, mình quay cái tâm mình nhìn lại cái thân của mình, nhìn cái thân của mình tức là nó quan sát Tứ Niệm Xứ thì đó; nó thanh thản, an lạc, vô sự liền ngay. Thì như vậy là cái tuôn trào của cái tâm của mình nó sẽ dừng lại, nếu nó không dừng lại thì tác ý nữa: "Tâm tuôn trào dừng lại, không được tuôn ra nữa! Chỉ còn biết thanh thản, an lạc, vô sự!" Rồi bắt đầu đó, mình quay cái nhận xét cảm nhận đó, mình nhìn lại cái tâm của mình, cái thân của mình thì lúc bấy giờ mình nhìn lại nó thì cái tuôn trào đó nó sẽ dừng lại.
HẾT BĂNG